[24]

MAṄGALASUTTĀRAMBHO
TỤNG BỐ CÁO HẠNH PHÚC KINH

Ye santā santacittā tisaraṇasaraṇā ettha lokantare vā.
Bhummā bhummā ca devā guṇagaṇagahaṇabyāvaṭā sabbakālaṃ.

Xin thỉnh tất cả Chư Thiên ngự trong hư không thế giới, hoặc ngoài hư không thế giới nầy, là bậc đã có lòng an tịnh và đã quy y Tam-Bảo, là bậc năng chuyên cần việc hạnh phúc.

Ete āyantu devā varakanakamaye merurāje vasanto.

Xin thỉnh tất cả Chư Thiên, ngự trên Tu-Di Sơn Vương, tinh anh bằng vàng ròng cao thượng.

Santo santo sahetuṃ munivaravacanaṃ sotumaggaṃ samaggaṃ.

Xin thỉnh tất cả Chư Thiên là bậc Tịnh giả đồng tụ hội nơi đây, đặng nghe lời vàng của Đức Thích-Ca Mâu-Ni, là Pháp Vô thượng làm cho phát sanh điều hoan lạc.

Sabbesu cakkavāḷesu,
Yakkhā devā ca brahmuno,
Yaṃ amhehi kataṃ puññaṃ,
Sabbasampattisādhakaṃ.

Sự phước báo mà chúng tôi đã làm; có thể độ thành tựu các thứ quả, cầu xin Dạ-Xoa, Chư Thiên cùng Phạm Thiên, trong cả thế giới Ta-Bà đều hoan hỉ thọ lãnh phước ấy.

Sabbe taṃ anumoditvā,
Samaggā sāsane ratā,
Pamādarahitā hontu,
Ārakkhāsu visesato.

Tất cả Dạ-Xoa, Chư Thiên cùng Phạm Thiên khi đã thọ lãnh phước ấy, xin đồng tâm hoan hỉ trong Phật Pháp. Xin dứt lòng dễ duôi và tùy phương tiện quý báu để hộ trì Phật Pháp.

Sāsanassa ca lokassa,
Vuḍḍhī bhavatu sabbadā,
Sāsanaṃpi ca lokañca,
Devā rakkhantu sabbadā.

Cầu xin Phật Pháp được thạnh đạt và chúng sanh hằng được tấn hóa. Cầu xin tất cả Chư Thiên hộ trì Phật Pháp và tiếp độ chúng sanh.

Saddhiṃ hontu sukhī sabbe,
Parivārehi attano,
Anīghā sumanā hontu,
Saha sabbehi ñātibhi.

Cầu xin cho tất cả chúng sanh đều được yên vui, được vô khổ cụ, là người có thiện tâm luôn cả thân bằng cùng quyến thuộc.

Yañca dvādasa vassāni,
Cintayiṃsu sadevakā,
Cirassaṃ cintayantāpi,
Neva jāniṃsu maṅgalaṃ,
Cakkavāḷasahassesu,
Dasasu yena tattakaṃ,
Kālaṃ kolāhalaṃ jātaṃ,
Yāva brahmanivesanā.

Tất cả nhơn loại cùng Chư Thiên trong mười ngàn thế giới Ta-Bà, hằng mong cầu và cố gắng tìm xét trong 12 năm, những điều hạnh phúc vẫn chưa tìm thấy, xôn xao thấu đến cõi trời Phạm Thiên trong khi ấy.

Yaṃ lokanātho desesi,
Sabbapāpavināsanaṃ,
Yaṃ sutvā sabbadukkhehi,
Muñcantāsaṅkhiyā narā,
Evamādiguṇūpetaṃ,
Maṅgalantambhaṇāma he.

Đức Phật có giảng giải những sự hạnh phúc làm cho các tội lỗi đều phải tiêu diệt, chúng sanh nhiều không xiết kể, đã nghe và được dứt khỏi các sự thống khổ.

 -ooOoo-

[25]

MAṄGALASUTTA
HẠNH PHÚC KINH

Evamme sutaṃ:

Tôi (tên là A-NAN-ĐA) được nghe lại như vầy:

Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme.

Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ-Viên Tịnh Xá của trưởng giả Cấp-Cô-Độc gần thành Xá-Vệ (Sāvatthi).

Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ Jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā Bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi.

Khi ấy, có vị Trời chiếu hào-quang xinh đẹp, làm cho trọn cả Kỳ-Viên sáng ngời rực-rỡ, vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, đảnh lễ đức Thế Tôn xong rồi, đứng tại chỗ nên đứng.

Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā Bhagavantaṃ gāthāya ajjabhāsi:

Khi đã đứng yên, vị Trời ấy bèn bạch với đức Thế Tôn, bằng lời kệ rằng:

Bahū devā manussā ca,
Maṅgalāni acintayuṃ,
Ākaṅkhamānā soṭṭhānaṃ,
Brūhi maṅgalamuttamaṃ.

Tất cả Chư Thiên cùng nhơn loại, đều cầu mong được những hạnh phúc và cố tìm xét những điều hạnh phúc. Bạch đức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng Bác ái, giảng giải về những hạnh phúc cao thượng. Đức Thế Tôn tùy lời hỏi mà giảng rằng:

Asevanā ca bālānaṃ,
Paṇḍitānañca sevanā,
Pūjā ca pūjanīyānaṃ,
Etammaṅgalamuttamaṃ.

Một: tư cách không xu hướng theo kẻ dữ.
Hai: tư cách thân-cận các bậc Trí tuệ.
Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao-thượng.

Paṭirūpadesavāso ca,
Pubbe ca katapuññatā,
Attasammāpaṇidhi ca,
Etammaṅgalamuttamaṃ.

Một: tư cách ở trong nước nên ở.
Hai: tư cách của người đã làm được việc lành để dành khi trước.
Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Bāhusaccañca sippañca,
Vinayo ca susikkhito,
Subhāsitā ca yā vācā,
Etammaṅgalamuttamaṃ.

Một: nết hạnh của người được nghe nhiều học rộng.
Hai: sự suốt thông phận sự của người xuất gia và tại gia.
Ba: Điều học mà người đã thọ trì được chín-chắn.
Bốn: lời mà người nói ra được ngay thật,
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Mātāpitu upaṭṭhānaṃ,
Puttadārassa saṅgaho,
Anākulā ca kammatā,
Etammaṅgalamuttamaṃ.

Một: nết hạnh phụng sự Mẹ.
Hai: nết hạnh phụng sự Cha.
Ba: sự tiếp độ Vợ Con.
Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Dānañca dhammacariyā ca,
Ñātakānañca saṅgaho,
Anavajjāni kammāni,
Etammaṅgalamuttamaṃ.

Một: nết hạnh bố thí.
Hai: nết hạnh ở theo Phật Pháp.
Ba: sự tiếp độ quyến thuộc.
Bốn: những nghề vô tội.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Āratī viratī pāpā,
Majjapānā ca saññamo,
Appamādo ca dhammesu,
Etammaṅgalamuttamaṃ.

Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi.
Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu.
Ba: sự không dể duôi Phật Pháp.
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Gāravo ca nivāto ca,
Santuṭṭhī ca kataññutā,
Kālena dhammassavanaṃ,
Etammaṅgalamuttamaṃ.

Một: sự tôn kính bậc nên tôn kính.
Hai: nết hạnh khiêm nhượng.
Ba: tri túc đến của đã có.
Bốn: nết hạnh biết đền ơn người.
Năm: nết hạnh tùy thời nghe Pháp.
Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Khantī ca sovacassatā,
Samaṇānañca dassanaṃ,
Kālena dhammasākacchā,
Etammaṅgalamuttamaṃ.

Một: sự nhịn nhục.
Hai: nết hạnh người dễ dạy.
Ba: nết hạnh được thấy được gặp các bậc Sa-Môn.
Bốn: nết hạnh biện luận về Phật Pháp.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Tapo ca brahmacariyañca,
Ariyasaccāna dassanaṃ,
Nibbānasacchikiriyā ca,
Etammaṅgalamuttamaṃ.

Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác.
Hai: nết hạnh hành theo Pháp cao thượng.
Ba: nết hạnh thấy các Pháp Diệu-đế.
Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết-bàn.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Phuṭṭhassa lokadhammehi,
Cittaṃ yassa na kampati,
Asokaṃ virajaṃ khemaṃ,
Etammaṅgalamuttamaṃ.

Một: tâm không xao động vì Pháp thế gian.
Hai: không có sự uất ức.
Ba: dứt khỏi tình dục.
Bốn: lòng tự tại.
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng.

Etādisāni katvāna,
Sabbatthamaparājitā,
Sabbattha sotthiṃ gacchanti,
Tantesaṃ maṅgalamuttaman’ti.

Tất cả Chư Thiên và nhơn loại, nếu được thật hành theo những điều hạnh phúc như thế, là người thắng quá trong mọi nơi, thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi. Chư Thiên nầy! Các người nên tin rằng cả 38 điều hạnh phúc ấy, là hạnh phúc cao thượng.

 -ooOoo-

 

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app