TIỂU SỬ TÓM TẮT NGÀI ĐẠI TRƯỞNG LÃO TAM TẠNG VIII BHADDANTA VAṀSAPĀLĀLAṄKĀRA – TIPIṬAKADHARA, TIPIṬAKAKOVIDA, DHAMMABHAṆḌĀGĀRIKA
(Bậc thông Thuộc Tam Tạng, Bậc Thấu Suốt Tam Tạng, Bậc Giữ Gìn Kho Tàng Pháp Bảo)
Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng thứ VIII Bhaddhanta Vaṁsapālālaṅkāra là một trong 14 vị Tam Tạng xuất hiện trong thế giới đương đại tại Myanmar, và là 1 trong 10 vị Tam Tạng hiện đang còn sống, dạy dỗ, hoằng pháp và lãnh đạo tinh thần Phật giáo Theravāda tại Myanmar nói riêng và thế giới nói chung.
Theo tuần tự xuất hiện của 14 vị Tam Tạng, Ngài là bậc xuất hiện thứ 8, nên các Phật tử Việt Nam thường cung kính gọi Ngài với danh xưng tắt là Ngài Tam Tạng VIII.
Sau đây là một số nét sơ lược về tiểu sử của Quý Ngài:
Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng thứ VIII Bhaddhanta Vaṁsapālālaṅkāra sinh vào thứ tư, ngat 03 tháng 11 năm 1965, Ngài là con trai của cụ ông U Kyaw và cụ bà Daw Chin Myaing ở làng Khwet Khwin, thị xã Myin Mu, tỉnh Sagaing – một trung tâm Phật Giáo lâu đời thuộc miền trung Myanmar.
Năm 1984 Ngài thọ đại giới tỳ khưu tại chùa Pajjotāyon, thị trấn Hman Kin thuộc cố đô Mandalay. Thầy tế độ là Ngài Nāgavaṁsa ở chùa Pajjotāyon thuộc thị trấn Mon-ywa, và thí chủ hộ độ xuất gia là gia đình ông U Pho Hmi và bà Daw Shwe Nyunt tại Mandalay.
Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng thứ VIII Bhaddhanta Vaṁsapālālaṅkāra đã theo học với nhiều danh Tăng lỗi lạc, như thầy tế độ là Ngài Nāgavaṁsa và các Đại đức giáo thọ ở chùa Pajjotāyon, Ngài Đệ Nhất Tam Tạng Mingun Sayadaw, và tiến sĩ danh dự văn học Pāli – Ngài Kumārabhivaṁsa Sayadaw (hiện là Tăng Thống của Hội đồngTăng già Phật giáo Myanmar) ở chùa Bamaw thuộc tỉnh Mandalay.
Sau khi hoàn tất chương trình Phật học Pariyatti-sāsanālaṅkāra (chương trình Phật học cho sadi ưu tú) và học trình Dhammācariya (giảng sư), Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng thứ VIII Bhaddhanta Vaṁsapālālaṅkāra đã tham gia chương trình thi Tam Tạng do chính phủ Myanmar tổ chức và bảo trợ. Trải qua 15 năm, từ năm 1985 đến năm 1999, Ngài đã thông thuộc (thi học thuộc lòng) và thấu suốt (thi viết kèm với Chú Giải và Phụ Chú Giải) Tam Tạng Tipiṭakapāli nên năm 1999, Chính Phủ Myanmar dâng tặng Ngài danh bằng Tam Tạng, cờ, lọng và khuôn dấu với biểu tượng 3 cây lọng tượng trưng cho Tam Tạng. Ngoài ra, Chính Phủ cũng dâng đến Ngài cùng 2 người theo hộ độ Ngài các loại vé thượng hạng của tàu hoả, tàu thuỷ, xe, máy bay và tứ vật dụng hàng tháng.
Là một Bậc Thông Thuộc Thấu Suốt Tam Tạng sau 15 năm nỗ lực không ngừng, Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng thứ VIII Bhaddhanta Vaṁsapālālaṅkāra đã tiếp tục công việc hoằng Pháp của Ngài Đệ Nhất Tam Tạng Mingun Sayadaw với trọng trách thư ký trong ban lãnh đạo của trung tâm đào tạo Tam Tạng “Mingun Tipiṭaka Nikāya” thuộc tỉnh Sagaing. Ngài hiện là viện chủ của trung tâm đào tạo Tam Tạng này.
– Năm 40 tuổi (2005) với những công hạnh hoằng Pháp không mệt mỏi của Ngài, Chính Phủ Myanmar đã kính dâng lên Ngài danh hiệu Tipiṭakadhara Dhammabhaṇḍāgārika (Bậc Thông thuộc Tam Tạng, Bậc giữ gìn kho tàng pháp bảo của Đức Phật Gotama) Đây cũng là danh hiệu tột cùng trong Pháp học Phật giáo (Pariyattisāsana).
Từ khi trở thành Bậc Thông Thuộc Thấu Suốt Tam Tạng cho đến nay, Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng thứ VIII Bhaddhanta Vaṁsapālālaṅkāra vừa đảm trách công việc đào tạo Tăng tài ở Phật học viện Mingun Tipiṭaka Nikāya vừa đi hoằng Pháp trong và ngoài nước. Đặc biệt, Ngài đã thành lập bệnh viện mắt để chữa trị và mang lại ánh sáng cho bao người thiếu may mắn tại tỉnh Sagaing và các tỉnh thành lân cận.
Tại bệnh viện chuyên khoa mắt này, bệnh nhân có thể đến khám và chữa mắt các ngày trong tuần (trừ thứ Ba). Trong khoảng 4 năm từ ngày thành lập, bệnh viện này đã khám và chữa trị các bệnh về mắt cho hơn 50,000 bệnh nhân. Với đội ngũ bác sĩ chuyên khoa mắt thiện nguyện từ các nước Nepal, Thailand, Mỹ, Úc và Lào, bệnh viện đã đạt giải nhất trong quá trình trị liệu mắt tại Nam Á.
Ở thời điểm hiện tại, Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng thứ VIII Bhaddhanta Vaṁsapālālaṅkāra đang thành lập thêm một bệnh viện đa khoa và các công trình xây dựng trong bệnh viện này đang trong giai đoạn hoàn thiện. Việc đem lại lợi ích cho cộng đồng là một trong những phương diện hoằng dương Phật pháp được biểu hiện qua từ bi và trí tuệ. Chắc chắn bệnh viện đa khoa này sẽ là nơi mà các Phật tử, các nhà hảo tâm và các nhà từ thiện có cơ hội vun bồi công đức và phục vụ cộng đồng, xã hội ngày một tươi sáng hơn.
Thật diễm phúc cho những ai được diện kiến, đảnh lễ, cúng dường, hộ độ, nghe pháp, hành thiền và thân cận với một bậc Đa văn xuất chúng như vậy.
Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng thứ VIII Bhaddhanta Vaṁsapālālaṅkāra – Bậc thông Thuộc Tam Tạng, Bậc Thấu Suốt Tam Tạng, Bậc Giữ Gìn Kho Tàng Pháp Bảo
Do nhờ oai lực của tất cả các thiện pháp mà con đã có được, cầu mong cho tất cả các hạng chúng sinh hiểu đúng được lời dạy của Đấng Pháp Vương, là Pháp vốn đưa đến hạnh phúc Niết Bàn, chứng ngộ được Niết Bàn vô ưu, vô não và tối thượng thông qua con đường Bát Chánh Đạo trong sạch và an vui.
Nguyện phước thiện thanh cao cung kính đón rước, đảnh lễ cúng dường Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng thứ VIII Bhaddhanta Vaṁsapālālaṅkāra này của con sẽ là nhân lành, là duyên tốt dẫn dắt con chứng ngộ Niết Bàn, Pháp giải thoát khổ sinh tử luân hồi.
Nguyện phước thiện thanh cao này của con hãy là nhân duyên lành để thoát khỏi những điều ô nhiễm ngủ ngầm nơi tâm trong ngày vi lai.
Con xin chia và hồi hướng phần phước thiện thanh cao cung kính đón rước, đảnh lễ cúng dường Ngài Đại Trưởng Lão Tam Tạng thứ VIII Bhaddhanta Vaṁsapālālaṅkāra đến tất cả chúng sanh đồng đều nhau cả.
Con xin thành tâm hồi hướng, chia phần phước đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng sinh từ cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh, nhân loại, chư thiên trong các cõi trời dục giới, chư phạm thiên trong các cõi trời sắc giới… tất cả quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện pháp thí thanh cao này, cầu mong quý vị thoát mọi sự khổ, sự an lạc lâu dài.
Nguyện cho Chánh Pháp được trường tồn, nguyện cầu cho tất cả chúng sinh tôn kính Pháp, nguyện cho mưa thuận gió hòa.
Xin quý vị đồng thanh nói lời hoan hỉ:
Sādhu! Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Lành thay!
Tuệ Ân tổng hợp dựa trên bản dịch và biên sọan của Bhante Thiện Đức Kusalaguṇa
Ảnh: Tuệ Ân & các nguồn khác