TRƯỞNG LÃO KỆ

PHẨM THỨ NĂM

41.

  1. “Những tia sét đánh xuống khe núi ở giữa hai ngọn núi Vebhāra và Paṇḍava, nhưng người con trai của bậc Vô Tỷ như thế ấy, đã đi đến khe núi, tham thiền.”

Đại đức trưởng lão Sirivaḍḍha đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Sirivaḍḍha.

42.

  1. “Này (các cháu) Cālā, Upacālā, Sīsūpacālā, các con hãy sống, có niệm. Vị đi đến với các con (có trí tuệ) tựa như người xuyên thủng sợi tóc.”

Đại đức trưởng lão Khadiravaniyarevata đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Khadiravaniyarevata.

43.

  1. “Khéo được giải thoát! Khéo được giải thoát! Lành thay, tôi khéo được giải thoát khỏi ba vật cong queo; tôi được giải thoát khỏi những cái liềm, tôi được giải thoát khỏi những cái cày, tôi được giải thoát khỏi những cái cuốc. Nếu chúng ở ngay đây, ở ngay đây, thì cũng quá đủ rồi, quá đủ rồi. Này Sumaṅgala, hãy tham thiền. Này Sumaṅgala, hãy tham thiền. Này Sumaṅgala, hãy sống, không xao lãng.”

Đại đức trưởng lão Sumaṅgala đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Sumaṅgala.

44.

  1. “Mẹ ơi, họ khóc người đã chết, hoặc người đang sống mà không được thấy. Mẹ ơi, trong khi mẹ nhìn thấy con đang còn sống, tại sao mẹ lại khóc cho con?”

Đại đức trưởng lão Sānu đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Sānu.

45.

  1. “Cũng giống như con bò giống tốt lành, sau khi sẩy chân, nó đứng lên lại. Tương tự như thế, (xin các ngài hãy ghi nhận tôi là thuần chủng, là người con trai chính thống của đức Phật) đã đạt được sự nhận thức, là đệ tử của đấng Chánh Đẳng Giác.”[4]

Đại đức trưởng lão Ramaṇīyavihārī đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Ramaṇīyavihārī.

46.

  1. “Vì lòng tin, tôi đã xuất gia, rời nhà sống không nhà. Niệm và tuệ của tôi được tăng trưởng, và tâm khéo được định tĩnh. (Này Ác Ma,) ngươi hãy tự tạo ra các hình dáng theo ý muốn, ngươi sẽ không bao giờ khiến ta run sợ.”

Đại đức trưởng lão Samiddhi đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Samiddhi.

47.

  1. “Kính lễ Ngài, đức Phật anh hùng. Ngài đã được giải thoát về mọi mặt. Trong khi sống trong sự ban bố của Ngài, con sống, không có lậu hoặc.”

Đại đức trưởng lão Ujjaya đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Ujjaya.

48.

  1. “Kể từ khi tôi đã xuất gia, rời nhà sống không nhà, tôi không biết đến sự suy tư không thánh thiện, gắn liền với sân hận.”

Đại đức trưởng lão Sañjaya đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Sañjaya.

49.

  1. “Dẫu cho những tiếng kêu inh ỏi của loài chim và những tiếng động của loài khỉ, tâm ấy của tôi không xao động, bởi vì sự ưa thích cô độc của tôi.”

Đại đức trưởng lão Rāmaṇeyyaka đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Rāmaṇeyyaka.

50.

  1. “Mặt đất đẫm nước, gió thổi, tia sét di chuyển ở bầu trời. Các suy nghĩ của tôi lắng xuống, tâm của tôi khéo được định tĩnh.”

Đại đức trưởng lão Vimala đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Vimala.

Phẩm thứ năm.

*****

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

“Vị Sirivaḍḍha, trưởng lão Revata, vị Sumaṅgala, vị có tên Sānu, và vị Ramaṇīyavihārī, vị Samiddhi, vị Ujjaya, vị Sañjaya, vị trưởng lão Rāmaṇeyya ấy, và vị Vimala có sự từ bỏ ô nhiễm.”

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

* Thuộc TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ - TIỂU BỘ - TẠNG KINH - TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Tỳ Khưu Indacanda | Nguồn Tamtangpaliviet.net

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app