TRƯỞNG LÃO KỆ

PHẨM THỨ SÁU

51.

  1. “Trời mưa giống như (đang hát) bài hát hay, cái cốc nhỏ của tôi đã được lợp, thoải mái, kín gió, và tâm của tôi khéo được định tĩnh. Như vậy, này ông Trời, nếu ông muốn, ông hãy đổ mưa.”

Đại đức trưởng lão Godhika đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Godhika.

52.

  1. “Trời mưa giống như (đang hát) bài hát hay, cái cốc nhỏ của tôi đã được lợp, thoải mái, kín gió, và tâm khéo được định tĩnh ở thân. Như vậy, này ông Trời, nếu ông muốn, ông hãy đổ mưa.”

Đại đức trưởng lão Subāhu đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Subāhu.

53.

  1. “Trời mưa giống như (đang hát) bài hát hay, cái cốc nhỏ của tôi đã được lợp, thoải mái, kín gió, tôi sống ở nơi ấy, không xao lãng. Như vậy, này ông Trời, nếu ông muốn, ông hãy đổ mưa.”

Đại đức trưởng lão Valliya đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Valliya.

54.

  1. “Trời mưa giống như (đang hát) bài hát hay, cái cốc nhỏ của tôi đã được lợp, thoải mái, kín gió, tôi sống ở nơi ấy, không người thứ hai. Như vậy, này ông Trời, nếu ông muốn, ông hãy đổ mưa.”

Đại đức trưởng lão Uttiya đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Uttiya.

55.

  1. “Sau khi làm cái cốc kích thước bằng chiếc kiệu vuông, tôi đã đi sâu vào khu rừng Añjana. Ba Minh đã được thành tựu, lời dạy của đức Phật đã được thực hành.”

Đại đức trưởng lão Añjanavaniya đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Añjanavaniya.

56.

  1. “(Người canh ruộng hỏi:) ‘Ai trong chòi?’ (Vị trưởng lão đáp:) ‘Trong chòi là vị tỳ khưu, có tham ái đã lìa, có tâm khéo được định tĩnh. Này đạo hữu, ông hãy biết như vầy, cái chòi đã được ông làm là không có vô ích.’”

Đại đức trưởng lão Kuṭivihārī đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Kuṭivihārī.  

Dutiyakuṭivihārittheragāthā.

57.

  1. “Đây là cái cốc cũ, ngài mong mỏi cái cốc khác mới. Này vị tỳ khưu, ngài hãy dẹp bỏ ước muốn về cái cốc, cái cốc mới là khổ thêm lần nữa.”  

Đại đức trưởng lão Kuṭivihārī thứ nhì đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Kuṭivihārī thứ nhì.

58.

  1. “Cái cốc của tôi là đáng yêu, vật thí của niềm tin, làm thích ý. Này các cô, tôi không có nhu cầu với các cô gái, đối với những ai có nhu cầu, các cô hãy đi đến nơi ấy.”

Đại đức trưởng lão Ramaṇīyakuṭika đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Ramaṇīyakuṭika.

59.

  1. “Vì lòng tin, tôi đã xuất gia, cái cốc của tôi đã được làm ở trong rừng. Tôi không xao lãng, và có sự tinh cần, có sự nhận biết rõ, có niệm.”

Đại đức trưởng lão Kosalavihārī đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Kosalavihārī.

60.

  1. “Những ý định ấy đã thành tựu cho tôi, với mục đích ấy tôi đã đi vào cái cốc. Tôi đã bỏ ngã mạn tiềm ẩn, tôi sẽ đi đến minh và giải thoát.”

Đại đức trưởng lão Sīvali đã nói lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Sīvali.

Phẩm thứ sáu.

*****

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

“Vị Godhika, và vị Subāhu, vị Valliya, vị ẩn sĩ Uttiya, trưởng lão Añjanavaniya, hai vị Kuṭivihārī, và vị Ramaṇīyakuṭika, vị tên Kosala, và vị Sīvali.”

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

* Thuộc TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ - TIỂU BỘ - TẠNG KINH - TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Tỳ Khưu Indacanda | Nguồn Tamtangpaliviet.net

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app