TRƯỞNG LÃO KỆ

PHẨM THỨ NHÌ

131.

  1. “Ước muốn lắng nghe làm tăng trưởng việc lắng nghe, việc lắng nghe là sự làm tăng trưởng cho tuệ, nhờ tuệ biết được ý nghĩa, ý nghĩa, đã được biết, là nguồn đem lại an lạc.
  2. Nên lui tới các chỗ trú ngụ xa vắng. Nên thực hành việc thoát khỏi các sự ràng buộc. Nếu không đạt được sự thích thú tại nơi ấy, thì nên sống ở hội chúng, bản thân được bảo vệ, có niệm.”

Đại đức trưởng lão Mahācunda đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Mahācunda.

132.

  1. “Các chúng sanh nào, với sự ra sức thô bạo, áp bức con người bằng hành động có liên quan đến sự ép buộc và bằng nhiều cách thức khác nhau, những kẻ ấy cũng bị gánh chịu y như thế, bởi vì nghiệp không bị tiêu hoại.
  2. Người làm hành động nào, tốt lành hoặc xấu xa, (sẽ) là người thừa tự của chính điều ấy, của chính hành động mà họ tạo ra.”

Đại đức trưởng lão Jotidāsa đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Jotidāsa.

133.

  1. “Ngày và đêm trôi qua mau, mạng sống đi đến sự tiêu hoại. Tuổi thọ của con người bị cạn kiệt, tựa như nước ở những dòng nước nhỏ.
  2. Và trong khi làm các hành động xấu xa, kẻ ngu không thấu hiểu, về sau có sự đắng cay cho gã, bởi vì quả thành tựu của việc ấy là xấu xa.”

Đại đức trưởng lão Heraññakāni đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Heraññakāni.

134.

  1. “Giống như người sau khi leo lên khúc gỗ nhỏ thì có thể đắm chìm ở đại dương, tương tự như thế sau khi đi đến với kẻ biếng nhác, người có cuộc sống tốt đẹp cũng đắm chìm; vì thế nên tránh xa kẻ biếng nhác có sự tinh tấn thấp kém ấy.
  2. Nên sống với các bậc sáng suốt, sống tách ly, thánh thiện, có bản tính cương quyết, chứng thiền, thường xuyên có sự nỗ lực tinh tấn.”

Đại đức trưởng lão Somacitta đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Somacitta.

135.

  1. “Con người bị vướng bận với con người, con người bị phụ thuộc vào chính con người, con người bị quấy rầy bởi con người, và con người quấy rầy con người.
  2. Vậy kẻ ấy có lợi ích gì với con người, hoặc với con người đã được sanh ra? Nên đi, sau khi rời bỏ con người ấy, kẻ đã quấy rầy nhiều người.”

Đại đức trưởng lão Sabbamitta đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Sabbamitta.

136.

  1. “Người đàn bà tên Kāḷī cao to, có dáng vóc như con quạ, bẻ gãy cái đùi, rồi cái đùi kia, bẻ gãy cánh tay, rồi cánh tay kia, bẻ gãy cái đầu tựa như cái hũ đựng sữa chua, bà ấy ngồi xuống, sắp chung lại.
  2. Đúng vậy, kẻ nào ngu xuẩn, không biết, rồi tạo ra mầm tái sanh, còn tiếp tục đi đến khổ đau nhiều lần nữa. Vì thế, trong khi biết (vậy) không nên tạo ra mầm tái sanh. Mong rằng tôi chớ nằm xuống thêm lần nữa, với đầu bị vỡ tan.”

Đại đức trưởng lão Mahākāḷa đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Mahākāḷa.

137.

  1. “Vị cạo đầu, trùm lên y hai lớp, có lợi lộc về cơm ăn, nước uống, vải vóc, và giường nằm, có nhiều kẻ ganh tỵ.
  2. Sau khi biết được điều bất lợi này, (biết được) nỗi sợ hãi lớn lao trong các sự tôn vinh, vị tỳ khưu, có sự nhận lãnh ít ỏi, không bị tham đắm, đi du hành, có niệm.”

Đại đức trưởng lão Tissa đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Tissa.

138.

  1. “Ở khu rừng Pācīnavaṃsa, những người con trai dòng Sakya có cùng chí hướng, sau khi dứt bỏ những của cải không phải là ít ỏi, thích thú với vật được bỏ vào bình bát do sự khất thực.
  2. Có sự nỗ lực tinh tấn, có bản tính cương quyết, thường xuyên có sự ra sức vững chãi, sau khi từ bỏ niềm vui ở thế gian, các vị thích thú với niềm vui trong Giáo Pháp.”

Đại đức trưởng lão Kimbila đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Kimbila.

139.

  1. “Do sự tác ý không theo đúng đường lối, tôi đã bị vướng bận với việc trang sức. Và tôi đã tự kiêu, chao đảo, và bị khổ sở bởi sự luyến ái ở các dục.
  2. Nhờ vào đức Phật, vị thân quyến của mặt trời, vị thiện xảo về phương pháp, sau khi thực hành theo đúng đường lối, tôi đã đưa tâm ra khỏi hữu.”

Đại đức trưởng lão Nanda đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Nanda.  

140.

  1. “Những người khác ca ngợi vị ấy, nếu bản thân chưa được định tĩnh, thì những người khác ca ngợi sai lầm, bởi vì bản thân chưa được định tĩnh.
  2. Những người khác chê trách vị ấy, nếu bản thân khéo được định tĩnh, thì những người khác chê trách sai lầm, bởi vì bản thân khéo được định tĩnh.”

Đại đức trưởng lão Sirimā đã nói những lời kệ như thế.

Kệ ngôn của trưởng lão Sirimā.

Phẩm thứ nhì.

*****

TÓM LƯỢC PHẨM NÀY

“Vị Cunda, vị Jotidāsa, và vị trưởng lão Heraññakāni, vị Somamitta, vị Sabbamitta, vị Kāla, vị Tissa và vị Kimbila, vị Nanda, và luôn cả vị Sirimā là mười vị trưởng lão có đại thần lực.”

–ooOoo–

—-

Bài viết trích từ cuốn “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ“, Tỳ-khưu Indacanda Dịch Việt
* Link tải sách ebook: “Kinh Điển Tam Tạng – Tiểu Bộ – Trưởng Lão Kệ” ebook
* Link thư mục ebook: Sách Tỳ-khưu Indacanda
* Link tải app mobile: Ứng Dụng Phật Giáo Theravāda 

* Thuộc TRƯỞNG LÃO TĂNG KỆ - TIỂU BỘ - TẠNG KINH - TAM TẠNG TIPITAKA | Dịch Việt: Tỳ Khưu Indacanda | Nguồn Tamtangpaliviet.net

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app