PHẦN HAI 

TRÁI TIM CỦA SỰ TU TẬP 

1.- THIỀN TỌA 

Tư thế ngồi có gì đặc biệt không? Không, nếu ta nói về tư thế ngồi thông thường của mình. Nó chỉ là một cách tiện lợi để thân ta tạm trút gánh nặng khỏi đôi chân. Nhưng trong thiền tập, tư thế ngồi rất là quan trọng. 

Chúng ta có thể dễ dàng thấy được việc đó, chỉ cần nhìn qua hình tướng bên ngoài thôi. Ví dụ, ta không thể biết rằng một người nào đó đang hành thiền, nếu ta thấy người ấy đang nằm, đứng hoặc đi. Nhưng ta có thể nhận biết được ngay, nếu người ấy đang ngồi, nhất là trên sàn nhà. Nhìn từ bất cứ góc cạnh nào cũng vậy, tư thế ngồi thiền lúc nào cũng biểu tượng cho một sự tỉnh thức, mặc dù đôi mắt đang nhắm và gương mặt có nét tĩnh lặng và an lạc. Tư thế ngồi ấy rất vững vàng và hùng tráng như một ngọn thái sơn. Sự vững chãi ấy mạnh mẽ lắm, tỏa sáng vào bên trong và lan rộng ra chung quanh ta. Nhưng khi ta bị hôn trầm và thất niệm xâm chiếm, thì ngay giây phút ấy, tất cả những đức tính đó sẽ tiêu tan mất. Tâm ta bị sụp đổ bên trong và ngoài thân sẽ biểu lộ cho thấy tình trạng ấy. 

Ngồi thiền đòi hỏi một tư thế ngay thẳng và trang nghiêm, thường thường kéo dài trong một thời gian. Nhưng có được một tư thế vững vàng còn tương đối dễ, đó chỉ là giai đoạn đầu của một tiến trình khai mở liên tục nhiều thử thách này. Có thể bạn đã sẵn sàng để “đậu lại” chiếc xe thân của mình rồi, nhưng tâm bạn thì sao, giờ này bạn có biết nó đang làm gì và ở đâu không? Thiền tọa không phải chỉ có nghĩa là ngồi trong một tư thế đặc biệt, mặc dù việc ấy có một tác dụng rất lớn. Nó còn có nghĩa là tiếp nhận một tư thế đặc biệt cho tâm của mình nữa. Thiền tọa tức là tâm tọa. 

Một khi bạn ngồi xuống rồi, sẽ có rất nhiều đường lối để tiếp xúc với giây phút hiện tại. Tất cả đều đòi hỏi một sự chú ý có chủ định và không phán đoán. Chỉ có sự khác biệt là ta chọn đề mục gì và bằng cách nào. 

Phương pháp hay nhất và đơn giản nhất là bắt đầu với hơi thở của bạn, cảm nhận sự ra vào của hơi thở mình. Rồi từ đó, bạn có thể nới rộng ý thức của mình ra, để quan sát sự đến và đi của mọi việc, tính cách lòng vòng và máy móc của tư tưởng, cảm thọ, tri thức, cảm hứng, cũng như của thân và tâm. Nhưng muốn năng lực của định và niệm được phát huy đúng mức, nó cũng cần phải mất một thời gian. Và chừng ấy, ta sẽ có thể quán sát mọi đề mục mà không bị lạc hoặc dính mắc vào bất cứ một đối tượng đặc biết nào, hoặc bị chúng khống chế. Ðối với đa số chúng ta, nó đòi hỏi nhiều năm tu tập và còn tùy thuộc vào nhiệt tâm cũng như nghị lực của mình nữa. Vì vậy, lúc đầu ta nên ở với hơi thở của mình, xử dụng đó như là một mỏ neo đem ta trở về hiện tại những khi mình bị trôi dạt vào thất niệm. Bạn hãy thử thực tập trong vài năm xem sao! 

Thực tập: Mỗi ngày bạn nên dành ra một khoảng thời gian nhất định để ngồi thiền. Năm phút cũng được, hoặc là mười, hai mươi, ba mươi phút nếu bạn muốn. Ngồi xuống và quan sát giờ phút hiện tại phô bày, bạn không có một mục đích nào hết ngoài việc xử dụng trọn vẹn trong giây phút này. Xử dụng hơi thở như một dây neo giữ ta lại trong hiện tại. Tư tưởng của ta sẽ trôi dạt đó đây, tùy theo dòng nước và ngọn gió tâm, cho đến một lúc nào đó, sợi dây neo sẽ bị căng thẳng và kéo ta trở về. Chuyện này sẽ xảy ra rất thường. Ðừng nản lòng. Mau mắn đem sự chú ý của mình trở về với hơi thở mỗi khi nó lang thang. Bạn nên nhớ giữ cho thân mình ngay thẳng nhưng không phải là cứng đơ. Tưởng mình như là một ngọn núi vững vàng. 

2.- NGỒI XUỐNG CHỖ CỦA MÌNH 

Mỗi khi bạn bước đến tọa cụ của mình, bạn nên có một ý niệm về hành động ngồi xuống chỗ của mình. Việc ấy sẽ giúp bạn rất nhiều trong sự tu tập. Ngồi thiền rất khác với hành động ngồi xuống thông thường hàng ngày của ta. Khi ta ngồi thiền, hành động ngồi xuống chỗ ấy của mình, tự nó có một năng lượng rất lớn, cả trong việc chọn lựa chỗ ngồi cũng như chánh niệm về thân. Tư thế ấy biểu tượng cho một sự cứng rắn, vươn thẳng, mặc dù là ta đang ngồi xuống. Nó mang một ý thức tôn trọng về nơi chốn cũng như sự sắp xếp của thân và tâm trong giây phút hiện tại. 

Mỗi khi chúng ta ngồi xuống chỗ của mình, mặc dù ý thức được năng lượng của nó, nhưng ta cũng đừng bao giờ để quá bận tâm về nơi chốn cũng như thư thế ngồi của mình. Thật ra, trong nhà hoặc ở ngoài trời, chúng cũng có những “địa điểm năng lực” đặc biệt. Nhưng với một thái độ ngồi xuống chỗ của mình, ta có thể ngồi xuống ở bất cứ một nơi nào, với bất cứ một tư thế nào, ta vẫn có thể cảm thấy an ổn. Khi nào ta có thể duy trì chánh niệm về thân, tâm, nơi chốn cũng như tư thế của mình, và vẫn giữ được một sự bình thản, không mong ước, chừng ấy và chỉ có chừng ấy, ta mới thực sự là ngồi thiền. 

3.- NHÂN PHẨM 

Khi diễn tả về tư thế ngồi thiền của mình, tôi nghĩ danh từ thích hợp nhất là nhân phẩm. 

Mỗi khi ngồi xuống thiền, tư thế của ta thường nói với ta một việc gì đó. Nó có một sự phát biểu riêng của nó. Ta có thể nói rằng,tư thế ngồi thiền tự chính nó là thiền tập. Nếu ta ngồi xiêu vẹo, nó phản chiếu một sự thiếu năng lượng thụ động và không được trong sáng. Nếu chúng ta ngồi thẳng cứng đơ, là ta đang bị căng thẳng, dụng công hoặc cố gắng quá sức. Trong những khóa tu thiền, mỗi khi tôi xử dụng danh từ “nhân phẩm” để nhắc nhở các thiền sinh, như là “ngồi sao cho biểu lộ được nhân phẩm của mình”, tôi để ý thấy mọi người lập tức sửa lại tư thế người cho được thẳng hơn. Nhưng họ không hề gồng cứng người. Gương mặt họ thoải mái, hai vai xuôi xuống, đầu, cổ và lưng cùng nằm trên một đường thẳng. Xương sống đứng thẳng ra từ xương chậu, biểu lộ năng lượng. Ðôi khi những người ngồi trên ghế có khuynh hướng nhích tới trước,tách ra khỏi lưng dựa một cách tự nhiên, khi nghe lời nhắc nhở của tôi. Mọi người dường như ai cũng lập tức ý thức được cảm nhận về nhân phẩm trong họ, và làm sao để biểu lộ nó. 

Tôi nghĩ, thỉnh thoảng chúng ta phải cần được nhắc nhở rằng, mình bao giờ cũng có nhân phẩm, tư cách và xứng đáng. Nhiều khi chúng ta quên mất điều ấy, có lẽ vì những thương tích trong quá khứ, hoặc vì sự bất định trong tương lai. Tôi không tin rằng, mình cảm thấy không xứng đáng vì tự ở mình. Chúng ta đã được giúp đở rất nhiều trong việc gầy dựng cái mặc cảm tự ty ấy. Từ thuở còn thơ, ta đã được dạy bằng trăm ngàn cách khác nhau và chúng ta học rất nhanh. 

Vì vậy, mỗi khi ta ngồi xuống tọa cụ và tự nhắc mình ngồi với nhân phẩm, là chúng ta đang trở lại với một tự tánh nguyên vẹn. Hành động đó tự nó là một lời tuyên bố sấm sét. Bạn có thể tin chắc rằng nội tâm bạn sẽ lắng nghe. Còn bạn thì sao, bạn có biết lắng nghe không? Chúng ta có sẵn sàng tiếp nhận những kinh nghiệm trực tiếp của giây phút hiện tại này không? 

Thực tập: Hãy ngồi xuống sao cho biểu lộ nhân phẩm của mình trong chừng ba mươi giây. Ghi nhận những cảm giác của bạn. Hãy thử đứng với nhân phẩm. Ðôi vai của bạn như thế nào? Xương sống và đầu của bạn ra sao? Ði một cách có tư cách, có nhân phẩm nghĩa là đi như thế nào? 

4.- TƯ THẾ 

Khi ta ngồi với một chủ định vững vàng, tự thân ta sẽ biểu lộ được một nghị lực và niềm tin rất sâu sắc. Chúng tỏa chiếu vào bên trong lẫn bên ngoài ta. Một tư thế ngồi vững vàng đầy nhân phẩm, tự nó chính là một sự xác nhận của giải thoát, của tính chất hòa hài, của vẻ đẹp và sự phong phú của cuộc sống. 

Có khi bạn cảm nhận được những điều ấy, và cũng có khi là không. Những lúc ta cảm thấy buồn nản, mệt nhọc và bối rối, ngồi thiền cũng có thể giúp ta tiếp xúc được với sức mạnh cũng như giá trị của cuộc đời ta đang sống. Trong những giai đoạn khó khăn, nếu bạn có thể gom góp nghị lực lại để ngồi xuống thiền, cho dù trong một khoản thời gian ngắn, nó có thể giúp bạn lấy lại được cái cốt tủy của con người mình, nó nằm ngoài phạm trù của những sự thăng và trầm, giải thoát và trói buộc, sáng tỏ và mù mịt. Cái cốt tủy này có một liên hệ mật thiết với chánh niệm, nó không hề bị giao động theo tâm thức hoặc hoàn cảnh chung quanh ta. Nó giống như một tấm gương sáng, vô tư phản chiếu những gì xảy ra trước mắt. Nó ý thức được thực tại một cách sâu sắc, những gì đang làm cho đời ta xao động hoặc khống chế ta. Biết rằng mọi việc rồi sẽ thay đổi, nó tĩnh lặng như một tấm gương sáng trong giờ phút hiện tại – quan sát việc gì đang xảy ra, ôm ấp sự có mặt của chúng, cỡi ngọn sóng của một thực tại đang biểu lộ như những ngọn sóng của hơi thở mình. Và vững tin rằng, không chóng thì chầy, ta cũng sẽ tìm được phương cách đối phó, hòa giải và vượt thoát ra được hết. Ta không có một cố gắng nào khác hơn là chỉ quan sát chúng, để cho mọi việc như là, và sống thật trọn vẹn trong mỗi phút mỗi giây. 

Thiền quán không phải là một cố gắng đi trốn tránh những khó khăn hoặc vấn đề của cuộc sống, không phải là ta đi tìm một trạng thái dững dưng hoặc chối bỏ nào hết. Trái lại, ta lúc nào cũng biết duy trì chánh niệm và sẵn lòng trực diện với những đau đớn, bối rối và mất mát, nếu chúng là những gì đang chi phối thực tại. Chúng ta tìm hiểu vấn đề bằng một đường lối rất đơn giản, là để cho nó có mặt trong tâm, cùng với hơi thở và giữ một tư thế ngồi thật vững chãi. 

Trong truyền thống Zen, thiền sư Shunryu Suzuki có nói: “Trạng thái tâm có mặt khi bạn ngồithiền vững vàng tự nó là giác ngộ… Tư thế ngồi không phải chỉ là một phương tiện để ta đạt đến một trạng thái chân thật của tâm. Ngồi trong tư thế ấy tự nó chính là một trạng thái chân thật của tâm”. Vì vậy, khi ngồi xuống thiền là ta đã tiếp xúc được với chân tánh của mình rồi. 

Thế cho nên, khi ta tập ngồi thiền, điều tiên quyết là phải ngồi sao cho thân được vững vàng, tỏa sáng, nói lên được sự có mặt của mình, rằng ta sẵn sàng tiếp nhận bất cứ một sự việc gì xảy ra trong giây phút hiện tại. Ðó là một thái độ vô trước và một sự vững vàng không lay chuyển, như một tấm gương sáng, chỉ biết phản chiếu, hoàn toàn trống không, tiếp nhận và cởi mở. Thái độ nằm trong tư thế của ta, ngay trong cách ngồi của ta. Tư thế ấy chính là hiện thân của thái độ. 

Vì vậy, nhiều người thấy rằng, hình ảnh một ngọn núi giúp họ rất nhiều trong sự phát triển định và niệm trong thiền tập. Nó khơi dậy những đức tính như là hướng thượng, to tát, hùng tráng, không lay chuyển và có gốc rễ, giúp ta mang những đức tính ấy trực tiếp vào tư thế và thái độ của mình. 

Chúng ta nên nhớ luôn luôn mời gọi những đức tính ấy vào trong sự thiền tập của mình. Sự kiên trì thực tập sẽ giúp ta thể hiện được nhân phẩm, sự tĩnh lặng và an lạc trong bất cứ một hoàn cảnh nào. Nó có thể mang lại cho ta một nền tảng vững chắc, xác thực để duy trì chánh niệm và bình lặng, ngay cả trong những giờ phút căng thẳng và xáo động nhất. Nhưng chỉ khi nào ta thật sự thực tập, thực tập và thực tập. 

Bạn nên nhớ một điều này, ta không nên nghĩ rằng mình biết thế nào là có chánh niệm, và chỉ để dành để đối phó với những biến cố quan trọng mà thôi. Vì khi những biến cố lớn xảy ra, với một năng lượng rất mạnh, chúng sẽ lập tức tràn ngập và lấn áp ta, luôn cả những ý tưởng ngây ngô, thơ mộng về tĩnh lặng, vế thế nào là có chánh niệm. Thiền tập là một tiến trình từ tốn, chậm rãi và nhiều tự chủ, như là trồng cây, san bằng núi, tát cạn biển. Nó là công việc của giây phút này và cũng là của trọn một đời người, tất cả chỉ là một mà thôi. 

5.- TA LÀM GÌ VỚI ÐÔI BÀN TAY? 

Trong thân ta có những luồng năng lượng rất tinh tế. Chúng đã được kẻ vạch, học hỏi và xử dụng trong những truyền thống tu tập như là thiền định và Du già (Yoga) từ hàng mấy ngàn năm nay. Bằng trực giác, chúng ta biết rằng mỗi tư thế của mình biểu lộ một trạng thái đặc biệt, và chúng tỏa chiếu vào bên trong cũng như ra bên ngoài ta. Ngày nay người ta thường gọi đó là “ngôn ngữ của thân”. Nhìn bề ngoài một người, ta có thể đọc được thứ ngôn ngữ ấy, ta có thể biết được người ấy nghĩ gì về chính họ. Chúng ta lúc nào cũng truyền phát đi các tin tức ấy cho bất cứ những ai biết tiếp nhận chúng. 

Nhưng ở đây, tôi muốn nói đến giá trị của việc ý thức được ngôn ngữ của chính bản thân mình. Ý thức ấy có một khả năng xúc tác, làm phát triển sự chuyển hóa cũng như sự tăng trưởng của ta. Trong truyền thống Du già, bộ môn có liên quan đến những tư thế đặc biệt của thân được gọi là Ấn, tức là Mudra. Nói chung mọi tư thế của thân đều có thể là Ấn, vì mỗi cái đều có mang một biểu tượng và một năng lượng đặc biệt. Nhưng Ấn thường được dùng để nói đến những gì tinh tế hơn là tư thế của toàn thân. Chúng được dùng để diễn tả vị thế của đôi bàn tay, và còn được gọi là thủ ấn. 

Nếu có dịp bước vào một tu viện Phật giáo và quan sát những hình tượng Phật và các vị Bồ tát, bạn sẽ nhận thấy rằng trong hàng trăm tư thế thiền định khác nhau, đứng, nằm hoặc ngồi, đôi bàn tay của các ngài cũng còn được đặt trong những vị thế khác nhau. Trong tư thế ngồi thiền, đôi khi hai bàn tay được đặt trên đầu gối, lòng bàn tay úp xuống; đôi khi một bàn tay hoặc cả hai bàn tay ngửa lên; đôi khi có một ngón tay chạm xuống đất, trong khi bàn tay kia đưa lên. Cũng có khi hai bàn tay để trong lòng bắp vế, bàn tay này ngửa lên, nằm trong lòng bàn tay kia, hai đầu ngón tay cái khẽ chạm vào nhau, làm thành một hình bầu dục như quả trứng, đó được gọi là vũ trụ ấn. Có khi hai bàn tay được chấp vào nhau để trước ngực như hình một đóa sen. Tư thế này được dùng để chào nhau, ta kính nhận được Phật tính ở nơi người đối diện. 

Những thủ ấn này, mỗi cái đều mang một năng lượng khác nhau. Bạn có thể tự thử nghiệm lấy việc ấy trong sự thiền tập của mình. Bạn hãy thử ngồi với đôi bàn tay úp xuống để trên đầu gối. Ghi nhận tính chất tự chế của nó. Ðối với tôi, tư thế này biểu lộ rằng ta không tìm kiếm thêm một việc gì nữa, mà chỉ tiêu thụ những gì mình đã có. 

Nếu bạn thử xoay lòng bàn tay lên trời, lẽ dĩ nhiên là trong chánh niệm, bạn có thể sẽ cảm nhận được một sự thay đổi nơi vùng năng lượng trong thân. Ðối với tôi, tư thế này biểu tượng cho một sự tiếp nhận, cởi mở với năng lượng từ bên trên. Những năng lượng ấy là của trí tuệ, thanh tịnh và từ bi. 

Mọi vị thế của đôi bàn tay ta đều là những thủ ấn, vì chúng đều mang theo một năng lượng, dù tinh tế hay là hiển lộ. Ví dụ năng lượng của một nắm tay chẳng hạn. Mỗi khi ta tức giận, bàn tay ta thường có khuynh hướng nắm chặt lại. Có một số người thực hành thủ ấn này một cách vô ý thức, rất nhiều lần trong đời sống của họ. Nó tưới tẩm cho những hạt giống giận dữ và bạo động trong ta mỗi khi ta làm việc ấy. Và rồi mỗi ngày cây sân hận của ta càng lúc sẽ trở nên xanh tươi hơn, mạnh mẽ hơn. 

Lần tới, nếu bạn thấy mình nắm chặt bàn tay lại vì một cơn giận nào đó, bạn hãy giữ chánh niệm và chú ý đến thái độ của ta được biểu lộ trong cái nắm tay ấy. Cảm nhận được sự căng thẳng, căm giận, khích động và sợ hãi đang có mặt nơi đó. Rồi trong cơn giận của mình, như là một thử nghiệm, nếu người làm cho ta giận có mặt nơi đó, bạn hãy mở rộng đôi bàn tay mình ra, chấp lại trước ngực làm thành hình một đóa sen. Lẽ dĩ nhiên người ấy sẽ ngẩn ngơ, chẳng biết bạn dang làm trò gì! Ghi nhận chuyện gì xảy đến cho cơn giận và nổi đau của bạn, trong khi bạn giữ tư thế này, dù chỉ trong giây phút. 

Tôi nhận thấy rằng, mỗi khi thử làm việc ấy, tôi không thể nào duy trì cơn giận được nữa. Việc đó không có nghĩa là cơn giận của ta không bao giờ là chánh đáng. Nhưng vì sẽ có nhiều cảm xúc khác tham dự vào, giúp ta kiểm soát và hòa giải được cơn giận ấy – như là lòng từ bi, thương hại đối với người kia, và có lẽ nhờ một sự hiểu biết minh triết hơn. Ta ý thức được rằng, mọi việc đều có liên hệ chằng chịt với nhau, cái này dẫn đến cái kia, có thể một nguyên nhân vô tư nào đó đưa đẩy đến một kết quả bị hiểu lầm là có ác ý. Và rồi từ đó si mê cộng thêm vào si mê, tham sân cộng thêm với tham sân, ta không còn thấy đâu là ánh sáng nữa. 

Khi thánh Gandhi bị ám sát vì một phát súng kề sát bên, ngài đã chấp hai tay lại và hướng về kẻ giết ngài, thốt lên một câu thần chú rồi nhắm mắt. Những năm dài tu tập thiền định và Du già, được hướng dẫn bởi bộ kinh Bhagavad Gita, đã đem lại cho thánh Gandhi một thái độ vô trước, không dính mắc vào bất cứ một việc gì, ngay cả chính sự sống của mình. Nó đã cho phép ngài được tự do chọn bất cứ một thái độ nào ngài muốn, ngay cả trong lúc mạng sống của mình đang bị cướp đoạt đi. Thánh Gandhi không chết trong sự giận dữ hoặc là bất ngờ. Ngài bao giờ cũng ý thức rằng mạng sống mình luôn luôn đang bị đe dọa. Nhưng ngài dám làm theo chí hướng và niềm tin của mình. Thành Gandhi là một biểu tượng cho đức từ bi. Ngài sống cho lý tưởng tự do của cả chánh trị lẫn tôn giáo. Sự an ninh cá nhân, ngài không bao giờ lấy đó làm trọng. Bao giờ ngài cũng dám hy sinh. 

Thực tập: Hãy tập ý thức được những phẩm tính của các cảm xúc tinh tế khác nhau, ta có trong một ngày và trong suốt thời gian ngồi thiền. Ðặc biệt chú ý đến đôi bàn tay của bạn. Vị thế của chúng có tạo nên một sự khác biệt nào không? Ghi nhận rằng, khi ta có chánh niệm về thân thì ta cũng sẽ có chánh niệm về tâm. 

Khi bạn thực tập tiếp xúc với đôi bàn tay của mình trong lúc ngồi thiền, ghi nhận xem nó ảnh hưởng đến sự xúc chạm của bạn trong đời sống hằng ngày ra sao? Mọi việc, từ mở một cánh cửa cho đến ôm hôn một người thân, đều đòi hỏi sự xúc chạm. Trong ngày, biết bao nhiêu lần bàn tay ta đã mở một cánh cửa mà không hề có ý thức, không có một cảm giác nào hết. Lần tới, nếu bạn có ôm hôn một người thân, đừng để cho nó trở thành một hành động máy móc, phải biết có mặt trọn vẹn và thật lòng. 

6.- XẢ THIỀN 

Những giây phút chót trong giờ ngồi thiền, cũng có những khó khăn riêng của chúng. Chánh niệm của ta có thể trở nên dễ duôi, và mong chờ cho đến hết giờ. Thái độ của ta trong lúc này rất là quan trọng. Chính những giai đoạn chuyển tiếp này là một sự thử thách cho ta, làm sao giữ cho chánh niệm được sâu sắc hơn và nới rộng được phạm vi của nó. 

Vào lúc cuối giờ ngồi thiền, nếu bạn không cẩn thận và thiếu ý thức, có thể bạn sẽ bắt qua làm chuyện khác mà không hề biết giờ thiền của mình đã chấm dứt ra sao, hoặc như thế nào? Giai đoạn chuyển tiếp ấy đối với bạn sẽ chỉ là một bóng mờ. Bạn có thể dùng ngọn đèn chánh niệm soi sáng tiến trình này, bằng cách tiếp xúc với những ý nghĩ và sự thúc đẩy là đã đến giờ xả thiền. Dù bạn đã ngồi yên một giờ đồng hồ hoặc chỉ dăm ba phút, có thể sẽ có một cảm giác thật mạnh nói với bạn rằng: “Thôi! bấy nhiêu đó đủ rồi”. Hoặc là bạn hé mắt nhìn đồng hồ và thấy rằng đã đến giờ xả thiền. 

Trong giờ thiền tọa, thử xem bạn có thể ghi nhận được ý nghĩ đầu tiên thức đẩy mình đi nghĩ không. Và tiếp theo đó sẽ có nhiều ý nghĩ tương tự khởi lên, càng lúc càng mạnh mẽ hơn. Mỗi khi ghi nhận được chúng, hãy thở vài giây và tự hỏi: “Ai là người đã đủ rồi?” Hãy cố gắng nhìn sâu vào những gì nằm đằng sau những tư tưởng ấy. Có phải chúng chỉ là những mệt mỏi, buồn chán, đau đớn, bồn chồn, nóng nảy; hay thật sự là lúc ta nên đi nghỉ? Nhưng dù gì đi nữa, thay vì máy móc đứng dậy đi làm việc khác, bạn hãy quán chiếu câu hỏi ấy, và có chánh niệm về những cử động xả thiền của mình, như bất cứ một đề mục nào khác trong giờ thiền tập. 

Sự thực tập này còn có thể giúp ta phát huy chánh niệm trong bất cứ một hoàn cảnh nào đòi hỏi một sự hoàn tất, chấm dứt và bắt đầu khởi sự một công việc mới. Nó có thể đơn giản và ngắn ngủi như là tiếp xúc với cử động đóng cửa của mình, hoặc phức tạp và đau đớn như một đoạn đời nào đó của ta vừa đi qua. Ta rất dễ đóng cửa một cách máy móc, vì hành động ấy tầm thường quá, không nghĩa lý gì so với những đại sự khác. Nhưng cũng chính vì nó tầm thường mà khi ta thực tập đóng cánh cửa trong chánh niệm, nó lại có tác dụng phát khởi và làm sâu sắc thêm sự bén nhạy, khả năng tiếp xúc với thực tại, cũng như hóa giải những thói quen vô ý thức của ta. 

Trong đời sống cũng thế, sự thất niệm cũng có thể len lỏi vào những giây phút chuyển tiếp nghiêm trọng nhất trong đời ta, như là tuổi già hoặc giờ phút hấp hối. Và trong lãnh vực này chánh niệm cũng có một năng lượng chữa trị rất lớn. Vì không dám trực diện với những cảm xúc đau đớn – cho dù đó là buồn nản, tủi hổ, thất vọng, sân hận, hoặc có thể là vui sướng, thỏa mãn – ta có thể vô tình đi lẫn trốn trong đám mây mù của sự tê lặng. Nơi đó, ta không cho phép mình được cảm giác một cái gì hết, hoặc ý thức được những gì mình đang cảm xúc. Như một vầng mây mù, thất niệm trùm phủ những giây phút quan trọng nhất, sâu sắc nhất, trong cuộc đời chúng ta. Nó che mờ hết những cơ hội có thể giúp ta thấy được sự vận hành của luật vô thường, tiếp xúc được với tự tánh vô ngã, với điều bí mật của sự nhỏ nhoi, mong manh và tạm thời của hiện hữu, cũng như giúp ta được bình thản trước những đổi thay không thể nào tránh được. 

Trong các thiền viện theo truyền thống Zen, những giờ thiền đường được chấm dứt bằng một tiếng động lớn, do hai thanh gỗ đánh mạnh vào nhau. Không có một tiếng chuông thanh nhẹ, dịu dàng báo hiệu giờ xả thiền. Thông điệp ấy ở đây là sự cắt ngang – đã đến lúc chúng ta tiếp sang việc khác. Nếu bạn đang mơ mộng gì đó khi tiếng gõ vang lên, dù một chút thôi, âm thanh ấy sẽ làm bạn giật mình và giúp bạn thấy rằng mình đã không thật sự có mặt trong giờ phút hiện tại. Nó nhắc nhở ta giờ phút ngồi thiền đã qua rồi, và bây giờ là một giây phút mới, ta phải đối diện lại từ đầu. 

Trong những truyền thống khác, một tiếng chuông êm nhẹ thường được dùng để báo hiệu vào cuối giờ hành thiền. Âm thanh trầm ấm của tiếng chuông cũng có khả năng mang ta trở về với hiện tại và nhắc nhở nếu ta đang sống trong thất niệm. Vì vậy, vào cuối giờ ngồi thiển, một âm thanh êm nhỏ cũng tốt, mạnh cũng tốt. Cái nào cũng chỉ để nhắc nhở ta phải có mặt trọn vẹn trong giây phút chuyển tiếp này, sự chấm dứt nào cũng phải là một sự bắt đầu, điều đó mới thật sự là quan trọng, như trong kinh Kim Cương có nói: “Giữ một tâm không chấp trước vào bất cứ một cái gì hết” (Tâm vô sở trụ). Và chỉ đến chừng ấy, chúng ta mới có thể thấy được chân tướng của mọi vật, và tiếpxúc với chúng bằng một cảm xúc và một tuệ giác trọn vẹn. 

Thị dĩ thánh nhân,
Xử vô vi chi sự.
Hành bất ngôn chi giáo,
Vạn vật tác yên nhi bất từ.
Lão Tử, Ðạo Ðức Kinh 

Dịch: 

Vậy nên, thánh nhân, 
Dùng vô vi mà xử sự. 
Dùng bất ngôn mà dạy dỗ, 
Ðể cho vạn vật nên mà không cản. 

Thực tập: Hãy giữ chánh niệm, chú ý đến việc bạn chấm dứt giờ ngồi thiền của mình như thế nào. Dù trong bất cứ một tư thế nào – đi, đứng, nằm, ngồi – “Ai là người xả thiền”, bằng cách nào, ra sao và vì sao? Ðừng bao giờ phán xét nó hoặc chính bạn – chỉ quan sát thôi và cố gắng tiếp xúc với sự chuyển tiếp từ việc này sang việc khác. 

7.- NÊN NGỒI THIỀN BAO LÂU? 

Hỏi: Tôi nên ngồi thiền bao lâu? 
Ðáp: Làm sao tôi biết được! 

Câu hỏi người ta hỏi tôi nhiều nhất là họ nên ngồi thiền trong bao lâu! Lúc tôi mới khởi sự đem thiền tập áp dụng vào áp dụng cho những bệnh nhân trong nhà thương, chúng tôi đã cảm thấy rằng, điều quan trọng là họ cần phải được thực tập ngồi thiền trong một thời gian tương đối dài, ngay từ lúc mới bắt đầu. Vì tôi tin vào nguyên tắc là, nếu bạn đòi hỏi nhiều ở người ta, hoặc là yêu cầu họ tự đòi hỏi họ nhiều, thì bạn sẽ thu gặt được nhiều. Còn ngược lại, nếu bạn đời hỏi một chút thôi, bạn sẽ chẳng thu lượm được bao nhiêu. Chúng tôi yêu cầu mọi người phải thực tập khoảng bốn mươi lăm phút mỗi ngày ở nhà. Tôi nghĩ là bốn mươi lăm phút lâu đủ để cho ta có thể tĩnh lặng xuống và giữ chánh niệm, và có lẽ ít nhất cũng kinh nghiệm được mùi vị của một sự buông thả hoàn toàn và một cảm giác lành mạnh. Và thời gian ấy cũng lâu đủ để cho ta có cơ hội tiếp xúc lại với những cảm thọ mà ta muốn trốn tránh. Vì trong cuộc sống hàng ngày, chúng thường khống chế đời ta và cướp đi khả năng tĩnh lặng và chánh niệm của ta. Chúng là những sự buồn chán, bất an, nóng nảy, sợ hải, lo lắng, mơ mộng, tưởng nhớ, đau đớn, mệt mỏi và đau khổ. 

Và kết quả là quyết định ấy của chúng tôi rất đúng! Hầu hết những người tham gia chương trình của chúng tôi đều sẵn sàng thay đổi nếp sống của họ, và chuyện ấy không phải dễ, để ngồi thiền mỗi ngày bốn mươi lăm phút, ít nhất là trong vòng tám tuần liên tiếp. Và đa số người vẫn còn tiếp tục giữ được lối sống mới ấy. Sau một thời gian, không những nó trở nên dễ dàng hơn, mà còn cần thiết hơn, nó trở thành một sợi dây cấp cứu của họ. 

Những khuôn mẩu đó cũng có bề trái của nó. Những gì là thử thách nhưng có thể thực hành được đối với một người vào giai đoạn này của cuộc đời, có thể gần như là bất khả trong một giai đoạn khác, cũng cùng với một người ấy. Ý niệm về “dài” và “ngắn”, chúng tương đối vô cùng. Một người mẹ với những đứa con nhỏ, chắc chắn là không thể nào có được bốn mươi lăm phút để làm bất cứ một việc gì. Nhưng có phải là nó có nghĩa bà ta sẽ không thể thực hành thiền được hay chăng? 

Nếu cuộc đời bạn đang ở giữa một cơn khủng hoảng bất tận, hoặc bạn đang sống trong một xáo trộn về xã hội và kinh tế, có lẽ bạn sẽ không có tâm thần đâu mà ngồi thiền lâu, cho dù có thì giờ chăng nữa. Sẽ có chuyện này chuyện nọ xảy ra làm ngăn trở, nhất là khi bạn nghĩ rằng mình phải bỏ bốn mươi lăm phút mỗi ngày để không làm gì hết. Và sống trong một gian nhà chật chội, đông người ở, cũng có thể là một chướng ngại cho sự tu tập hàng ngày của mình. 

Ta không thể hy vọng rằng các sinh viên y khoa có thể đều đặn bỏ ra một khoảng thời gian dài nhàn rỗi mỗi ngày, cũng như những người phải làm việc trong các hoàn cảnh hoặc tình trạng khẩn cấp. Và đối với những người chỉ tò mò nhưng không hề cương quyết thực tập, không muốn hy sinh những tiện nghi, an nhàn và thời giờ của mình, thì cũng vậy thôi. 

Vì vậy, đối với những ai muốn đạt được một sự quân bình trong đời sống, thì sự linh động không những là hữu ích mà còn rất cần thiết. Ta nên nhớ rằng, thiền tập không có dính dáng gì đến thời giờ. Năm phút ngồi thiền cho đúng đắn cũng có thể thâm sâu bằng hoặc hơn bốn mươi lăm phút. Sự tinh chuyên của bạn quan trọng hơn vấn đề thời gian. Vì khi ngồi thiền là chúng ta bước ra khỏi giờ phút thông thường và thể nhập vào giây phút hiện tại, nơi đó không có kích thước của không gian và thời gian. Vì vậy, nếu bạn có ý muốn thực hành, dù một chút thôi, việc đó cũng đủ là quan trọng. Ta cần phải nhen nhúm và nuôi dưỡng chánh niệm cho thật cẩn thận. Nó cần phải được bảo vệ khỏi những ngọn gió lớn của cuộc sống xô bồ, của một tâm hồn bất an và đau khổ. Cũng như là một ngọn lửa nhỏ cần phải được che chở, trú tránh những cơn mưa to và gió lớn. 

Nếu lúc đầu bạn có thể thực tập chánh niệm được trong năm phút hoặc một phút thôi, cũng là tốt đẹp lắm rồi. Nó có nghĩa là bạn đã ý thức được giá trị của sự dừng lại, của việc chuyển từ hoạt động sang sinh động. 

Khi chúng tôi hướng dẫn thiền tập cho các sinh viên y khoa, để giúp họ đối phó với sự căng thẳng và đôi khi là những thương tích gây ra bởi nền giáo dục y khoa hiện đại, hoặc cho những thể thao gia muốn luyện tâm cũng như thân để đạt được một thành quả cao, hoặc cho những bệnh nhân trong các y viện, còn cần phải tập nhiều thứ khác ngoài thiền tập, hoặc cho những nhân viên trong các lớp cấp tốc, chúng tôi không bao giờ nhấn mạnh về việc phải ngồi bốn mươi lăm phút mỗi ngày. Chúng tôi chỉ đòi hỏi việc ấy với những bệnh nhân của mình, hoặc những ai đã sẵn sàng thay đổi lối sống của họ vì một lý do riêng nào đó. Vì vậy, chúng tôi chỉ khuyên họ thực tập mỗi ngày mười lăm phút, hoặc là mỗi ngày hai ba lần nếu họ có điều kiện. 

Nếu nhìn kỹ một chút ta sẽ thấy rằng, trong chúng ta rất ít có ai – cho dù làm nghề gì hoặc đang ở trong hoàn cảnh nào – mà lại không thể bỏ ra mười lăm phút mỗi ngày được. Nếu mười lăm phút không được thì mười phút, năm phút. 

Bạn nhớ không, trong toán học, một đường thẳng dài một thước có vô số những điểm, và trong một đường dài một tấc cũng có vô số bấy nhiêu điểm. Nếu vậy thì có bao nhiêu là những phút chốc trong khoảng thời gian mười lăm, hoặc năm, mười hay bốn mươi lăm phút? Chúng ta sẽ có rất nhiều thời giờ, nếu ta chỉ cần biết thực tập chánh niệm trong những phút chốc này thôi. Bạn hãy luôn duy trì ý muốn thực tập và nắm lấy cơ hội – vào bất cứ thời điểm nào – và tiếp xúc nó với thật trọn vẹn bằng một ý thức sáng tỏ. Thời gian thực tập dài hay ngắn cũng đều tốt cả, nhưng đôi khi ngồi “lâu” cũng chẳng đem lại lợi ích gì, nếu ta có những khó khăn hoặc sự bực bội lớn trong sự tu tập của mình. Tốt hơn ta nên tiến bước một cách thật từ tốn theo khả năng của mình, còn hơn là sẽ không bao giờ nếm được mùi vị của chánh niệm và tĩnh lặng, chỉ vì những chướng ngại quá to tát. Hành trình ngàn dặm thật sự bắt đầu bằng một bước của ta. Khi chúng ta quyết định cất bước đầu tiên ấy – hay trong trường hợp này là ngồi xuống trong chốc lát – ta sẽ có thể tiếp xúc được với thời gian vô tận trong ngay giây phút này đây. Mọi quả trái tu tập của ta bắt nguồn từ một hành động đó, và chỉ từ đó mà thôi. 

Khi người thật sự muốn tìm tôi, người sẽ thấy tôi ngay tức thì – tôi hiện hữu trong căn nhà nhỏ bé nhất của thời gian. — Kabir. 

Thực tập: Bạn hãy thử ngồi trong những thời gian dài, ngắn khác nhau. Xem chúng có ảnh hưởng gì đền sự thực tập của mình. Sự tập trung của ta có bị suy giảm theo thời gian không? Bạn có bị mắt kẹt trong việc “phải” còn cố gắng bao lâu nữa không? Sự bất an có bao giờ khởi lên không? Tâm ta có phản ứng hoặc quan tâm quá đáng không? Ta có cảm thấy mệt mỏi? Lo âu? Buồn chán? Thúc hối? Buồn ngủ? Nếu bạn mới tập ngồi, bạn có thấy những thắc mắc như là “Cái này thiệt là vô ích” hoặc “Mình làm như vầy không biết có đúng không đây?” hoặc là “Không biết mình có những cảm giác như vậy là đúng không?” 

Những cảm thọ ấy, chúng khởi lên ngay tức thì hay là sau khi bạn ngồi một thời gian? Bạn có thể xem chúng như là những trạng thái khác nhau của tâm thức không? Bạn có thể quan sát chúng mà không phán xét, không phản ứng, cho dù chỉ trong một thời gian ngắn không? Nếu bạn có thể trải chiếu ra đón mời chúng, quan sát chúng, để cho chúng được như là, bạn sẽ có thể học được những gì là chân thật và không thay đổi trong bạn. Và những gì vững vàng sẽ càng thêm vững vàng, khi chúng được nuôi dưỡng bằng sự bền vững và tĩnh lặng trong ta. 

8.- KHÔNG CÓ MỘT LỐI DUY NHẤT 

Ði cấm trại với gia đình ở một vùng rừng núi Teton, trong khi leo trèo lúc nào tôi cũng thấy khâm phục khả năng giữ thăng bằng của chúng ta. Mỗi bước chân ta đặt xuống đều cần phải có một nơi nào đó để nương tựa. Khi trèo lên hoặc leo xuống những tảng đá to, những triền dốc cao, những con đường mòn khúc khuỷu, bàn chân ta lúc nào cũng phải lập tức quyết định cho ta về những chi tiết như là phải bước xuống nơi đâu, bằng cách nào, ở góc cạnh nào, mạnh hay nhẹ, bằng đầu hay gót chân, nghiêng hay thẳng. Mấy đứa con tôi không bao giờ đứng lại hỏi: “Ba ơi! con phải đặt chân nơi đâu? Con nên bước lên tảng đá này hay tảng đá kia?” Chúng nó chỉ cứ việc làm mà thôi. Và tôi nhận thấy chúng khám phá ra lối riêng của chúng – chúng biết phải đặt chân xuống nơi nào và không nhất thiết là phải giống hệt như tôi. 

Ðiều ấy nói với tôi rằng, bàn chân của ta biết chọn lựa được đường lối cho nó. Quan sát mỗi bước chân của mình, tôi khám phá ra rằng bàn chân ta có thể đặt xuống theo không biết bao nhiêu là vị thế khác nhau và trong giây phút ngắn ngủi ấy, nó quyết định chọn một vị thế duy nhất rồi chịu hết sức nặng lên trên đó. Sau đó nó lập tức bỏ ngay, để cho bàn chân sau chọn lựa bước kế tiếp và ta tiến tới. Những sự việc ấy xảy ra không cần đến sự suy nghĩ của ta, ngoại trừ một vài địa điểm hiểm hóc, đòi hỏi chút kinh nghiệm và sự phán xét. Cũng có lúc tôi phải đưa tay ra nâng đở đứa con gái út. Nhưng đó chỉ là những trường hợp ngoại lệ, chứ không phải là luật chung. Thông thường, ta không bao giờ cần phải nhìn xuống và suy nghĩ về mỗi bước chân của mình. Chúng ta chỉ cần coi chừng, nhìn tới trước và đầu óc ta sẽ ghi nhận hết tất cả, nó quyết định nhanh chóng, chỉ cho ta biết phải đặt chân xuống như thế nào để thích ứng với địa thế bên dưới trong ngay lúc đó. 

Nhưng điều đó không có nghĩa là sẽ không có những bước sai trật. Lúc nào ta cũng phải thật cẩn thận và cảm nhận sự thăng bằng của mình. Mắt và óc ta rất tinh nhuệ, chúng có thể nhận định được tình hình trong nháy mắt và ra chỉ thị chi tiết cho toàn thân, tứ chi và bàn chân ta, khiến cho quá trình đặt một bước chân trên mặt đất lởm chởm là một cử động cân bằng vô cùng kỳ diệu, mặc dù với chiếc ba lô nặng nề trên lưng cũng như đôi giày bốt dưới chân. Trong ta lúc nào cũng sẵn có một năng lực của chánh niệm. Ðịa thế khó khăn đã khơi nó dậy trong ta. Và nếu bạn có leo trên cùng một con đường vài chục lần đi chăng nữa, mỗi lần những bước chân của bạn sẽ hoàn toàn khác biệt nhau. Mỗi bước chân của bạn sẽ khai mở được cái tính chất duy nhất đặc biệt của giây phút hiện tại. 

Thiền tập cũng tương tự như thế. Thật ra không có một “phương pháp đúng” nào duy nhất hết, mặc dù trên con đường này cũng có những địa thế nguy hiểm mà ta cần phải cẩn trọng. Ðiều hay nhất là ta nên đối diện với mỗi giây phút bằng một sự tươi mới, vì sự phong phú của nó tùy thuộc vào vào trình độ tỉnh thức của ta. Ta hãy nhìn cho thật sâu sắc và rồi buông bỏ, bước sang giây phút kế tiếp, không hề bám víu những gì đã qua. Nhờ đó mỗi giây phút đều có thể tinh khôi, mỗi hơi thở là một sự bắt đầu mới, một sự buông bỏ mới, một thực tại mới. Cũng như khi ta bước qua một địa thế gập ghềnh, nơi đây không hề có vấn đề ta “cần phải làm gì”. Sự thật trên con đường tu tập này có biết bao nhiêu chuyện cho ta quan sát và học hỏi, nhưng điều đó không thể ép buộc được. Ta không thể bắt người khác phải tán thưởng cảnh mặt trời hoàng hôn trên đồng lúa vàng, hay ánh trăng trên núi. Tốt nhất là trong những giây phút đó ta không nên nói gì hết. Hãy thật sự có mặt trọn vẹn với sự to tát ấy, và hy vọng rằng người khác cũng có thể nhìn thấy được trong sự tĩnh lặng của giây phút hiện tại. Mặt trời hoàng hôn và ánh trăng non có thể tự chúng diễn tả được, bằng một ngôn ngữ riêng, trên một tấm phong riêng. Sự thinh lặng đôi khi tạo nên một khoảng không gian cho những gì sinh động được lên tiếng. 

Cũng vậy, trong thiền tập, tốt nhất là ta cứ giữ gìn và tôn trọng những kinh nghiệm trực tiếp của mình, và đừng lo nghĩ hoặc thắc mắc không biết những gì ta cảm nhận, nhìn thấy hoặc suy nghĩ có đúng không! Sao bạn không tự tin vào kinh nghiệm của mình trong giây phút này, như là bạn đã đặt niềm tin nơi bàn chân có thể giữ cho mình được thăng bằng khi leo trên những tảng đá cheo leo? Nếu bạn biết giữ một niềm tin khi đối diện với những hoàn cảnh bấp bênh, cũng như cái thói quen muốn được một thẩm quyền nào khác chứng nhận cho kinh nghiệm của mình, bạn sẽ thấy được một cái gì rất sâu sắc xảy ra trên con đường tu tập. Bàn chân và hơi thở sẽ dạy cho bạn biết đặt những bước chân cẩn trọng tiến tới trong chánh niệm, biết an trú trong mỗi giây phút, và dù đến một nơi nào ta cũng sẽ cảm thấy hạnh phúc. Còn một ơn phước nào cao quý hơn nữa phải không bạn? 

Thực tập: Khi ngồi thiền bạn hãy chú ý đến những ý nghĩ khởi lên như là “Mình thực hành có đúng không?”, “Không biết những cảm thọ này là đúng hay sai?” “Không biết có phải mình sẽ có những kinh nghiệm như vầy không?” Và thay vì tìm cách trả lời những câu hỏi ấy, bạn hãy nhìn sâu hơn vào giây phút hiện tại. Hãy nới rộng ý thức của bạn ra trong giây phút hiện tại này. Giữ câu hỏi của bạn dưới ánh sáng chánh niệm và theo dõi hơi thở của mình. Tin tưởng ở giây phút này. “Chỉ có vậy thôi” cho dù cái “như vậy” đó là bất cứ một sự kiện gì hoặc ở một nơi nào. Trong giây phút hiện tại này, bạn hãy nhìn cái “như vậy” đó cho thật sâu, và giữ được chánh niệm liên tục. Hãy để cho giây phút này khơi mở sang giây phút khác mà không phân tích, không phán xét, ghét bỏ hoặc nghi ngờ. Bạn chỉ cần theo dõi và ôm ấp nó, cởi mở ra, biết chấp nhận và để cho nó như là. Ngay bây giờ đây. Chỉ có một bước này thôi. Chỉ có giây phút này thôi. 

9.- BÀI THIỀN TẬP: CON ÐƯỜNG NÀO LÀ CỦA TÔI? 

Chúng ta thường bảo những đứa con của mình, không phải là lúc nào nếu muốn gì là chúng sẽ được nấy, và đôi khi ta còn ngụ ý rằng việc chúng đòi hỏi là sai quấy. Và khi chúng hỏi “Sao vậy má?” hoặc “Sao vậy ba?”, sau một hồi giải thích loanh quanh, có lẽ chúng ta sẽ đáp: “Con không cần hiểu. Mai mốt chừng nào lớn lên con sẽ biết!” 

Nhưng bạn có thấy việc đó là hơi bất công không? Vì người lớn chúng ta nhiều khi cũng có một thái độ y hệt như những đứa con nít vậy! Ta có khác gì với chúng đâu mà lắm khi lại còn ít thành thật và cởi mở hơn chúng nữa. Giả sử ta có thể làm theo sở ý của mình thì sự việc sẽ ra sao? Bạn có nhớ những chuyện cổ tích, trong đó nhân vật chánh được ba lời ước, bạn có nhớ cuối cùng họ đã đau khổ vì chúng đến đâu không? 

Những người dân ở tiểu bang Maine, Hoa Kỳ, nổi tiếng với câu trả lời: “Bạn không thể nào đi đến chốn ấy từ nơi này được”, mỗi khi có ai hỏi đường. Nói về phương hướng của cuộc sống thì ta có thể đổi câu ấy thành “Bạn chỉ có thể đi đến nơi ấy, nếu bạn đang thực sự có mặt ở nơi này”, thì có lẽ chính xác hơn. Có bao nhiêu người trong chúng ta ý thức được sự thật ấy? Chúng ta có biết con đường của mình là gì không? Và giả sử ta có được bất cứ những gì mình muốn, chúng ta sẽ giải quyết được một vấn đề nào không? Hay chỉ là những ước muốn phát xuất từ thất niệm chỉ đem lại cho ta thêm những rối rắm và đau khổ mà thôi. 

Sự thật ở đây có một câu hỏi rất thú vị là: “Con đường của ta đó là gì?”, vì chúng ta ít khi chịu ngồi lại chiêm nghiệm đời mình cho sâu xa. Có bao giờ bạn tự hởi mình: “Tôi là ai?”, “Tôi đang đi về đâu?”. “Tôi đang đi trên con đường nào?”, “Hướng tôi đi đây, có đúng cho tôi không?”, “Nếu bây giờ tôi có thể chọn một con đường thì tôi sẽ đi về hướng nào?”, “Sự khao khát, hoài mong của tôi là gì?”. “Tôi thật sự yêu thích những gì?” 

Câu hỏi “Con đường của tôi là gì?” là một đề mục thiền tập rất tuyệt hảo. Chúng ta không cần phải tìm câu trả lời, hoặc nghĩ rằng phải có một câu trả lời duy nhất. Tốt nhất là đừng nên suy nghĩ gì hết. Thay vậy, cứ bền bỉ nêu lên thắc mắc ấy, và để cho câu trả lời tự chúng đến rồi đi. Cũng giống như mọi việc khác trong thiền tập, chúng ta chỉ cần theo dõi, lắng nghe, ghi nhận, để yên,buông bỏ và tiếp tục tự hỏi “Con đường của tôi là gì?”. “Tôi là ai?” 

Mục đích ở đây là cởi mở ra với những gì mình không biết, cho phép mình được tự nhận rằng “Tôi không biết”. Và thử hoà nhập vào cái không biết đó một chút, từ tốn, thay vì đi tự trách móc mình. Dù sao đi nữa thì ngay trong giây phút này, có thể đó là thực tại của ta, là mình không biết gì hết. 

Những câu hỏi thuộc loại này, tự chúng sẽ dẫn dắt ta đến những cánh cửa mới, đến những sự hiểu biết, viễn ảnh và hành động mới. Những thắc mắc ấy, sau một thời gian tự chúng sẽ có một sức sống riêng. Nó thấm nhập vào da thịt ta và thở ra một luồng sinh khí mới, nhiệt tình mới vào sự vô vị, nhàm chán và lề lối thường ngày của ta. Và câu hỏi ấy sẽ “hành xử” ta, thay vì ngược lại. Tôi nghĩ, đây là một phương cách rất hay để khám phá ra con đường nào thật sự nằm gần trái tim ta nhất. Dù sao đi nữa thì cuộc sống này bao giờ cũng là một hành trình của những bậc anh hùng, nhưng nó sẽ còn được cao thượng thêm bội phần nếu ta biết sống trong chánh niệm và dám hỏi, dám liều. Là một con người, bạn chính là nhân vật chánh, là vị anh hùng chánh cho hành trình huyền thoại của một câu chuyện thần tiên. Nam hay nữ gì cũng vậy thôi, hành trình này là đường bay giữa sanh và tử, là một kiếp người. Không ai có thể thoát ra khỏi cuộc mạo hiểm này được bao giờ? Có chăng là chúng ta chỉ hành xử khác nhau mà thôi. 

Chúng ta có thể tiếp xúc được với tiến trình khai mở của cuộc sống mình không? Ta có dám đối diện với những thử thách trên con đường đi tìm chúng để tự thử nghiệm mình, để trưởng thành, để hành động có trách nhiệm, để tự phán, để khám phá ra con đường nào là của mình, và trên hết, quan trọng hơn cả, là để thật sự sống. 

10.- THIỀN NÚI 

Là núi vững vàng. — Nhất Hạnh. 

Trong thiền tập, núi có thể dạy ta rất nhiều. Hình ảnh về ngọn núi có một ảnh hưởng rất sâu đậm trong mọi truyền thống văn hóa. Những ngọn núi là những nơi chốn thiêng liêng. Từ ngàn xưa người ta thường đi vào những ngọn núi để tầm đạo, để tự nuôi dưỡng mình. Ngọn núi là một biểu tượng cho trục quay chính của quả đất (núi Meru), cho nơi cư ngụ của các vị thần (núi Olympus), cho nơi con người đã tiếp nhận những điều răn cũng như khế ước từ thượng đế (núi Sinai). Những ngọn núi thường được coi là thiêng liêng, chúng là hiện thân của một sự khiếp sợ và hòa hợp, khắc nghiệt và uy nghi. Nhô lên cao đồ sộ trên hành tinh này, những ngọn núi mời gọi và áp đảo ta, chỉ bằng mỗi sự hiện diện của chúng. Tự thể của núi vô cùng vững mạnh, cơ bản là đá. Ðá tảng, đá rắn chắc. Núi là một nơì ta có thể nhìn thấy bao quát hết tất cả. Ta có thể tiếp xúc được với sự rộng lớn của thế giới thiên nhiên, và giao điểm với cái gốc rễ, tuy mong manh nhưng rất kiên trường, của sự sống. Những ngọn núi đã đóng một vai trò rất quan trọng trong lịch sử, cũng như thời tiền sử của con người. Ðối với những người dân lành, núi bao giờ cũng là mẹ cha, là thần bảo vệ, thần che chở và là đồng minh của họ. 

Trong thiền tập, đôi khi ta cũng có thể vay mượn những hình ảnh có tính chất kỳ diệu này của núi và xử dụng chúng để tăng cường sự chú tâm của ta, cũng như duy trì giây phút hiện tại trong một sự thanh thản và đơn sơ cơ bản. Hình ảnh một ngọn núi giữ trong tâm và thân có thể làm tươi mới lại con người của ta, nó nhắc nhở ta vì sao mình phải ngồi thiền, việc làm ấy có ý nghĩa gì, mỗi khi ta ngồi xuống và an trú trong thế giới của sự vô hành (non-doing). Núi là một biểu tượng tinh hoa cho một sự hiện hữu và tĩnh lặng vĩnh cửu. 

Bạn có thể thực tập thiền quán về núi như sau, hoặc sửa đổi một chút cho thích hợp với ý niệm cá nhân của bạn về núi và ý nghĩa của nó. Bài thiền tập này bạn có thể thực hành trong bất cứ một tư thế nào, nhưng tôi thấy hiệu quả nhất là khi tôi ngồi xếp bằng trên sàn nhà, lúc ấy thân tôi nhìn và cảm thấy giống như một ngọn núi vững vàng, bên trong lẫn bên ngoài. Sống trên một ngọn núi hoặc gần ngọn núi cũng hữu ích, nhưng không là cần thiết. Vì chính cái hình ảnh trong nội tâm mới thật sự là nguồn năng lượng. 

Hãy tưởng đến một ngón núi nào đẹp nhất mà bạn biết hoặc nghe nói, hoặc có thể tưởng tượng ra được, một ngọn núi rất thân thiết với bạn. Trong khi bạn tập trung vào hình ảnh hoặc cảm nhận về ngọn núi này trong tâm, hãy ghi nhận vóc dáng của nó, đỉnh núi kiêu hảnh, chân núi ăn sâu vào gốc rễ đất đá của mặt địa cầu, những triền núi thoai thoải hoặc có dốc cao. Bạn hãy ghi nhận tính chất đồ sộ của nó, sự bất động của nó, vẻ đẹp của nó khi đứng gần hoặc nhìn từ xa – một vẻ đẹp tỏa phát từ một dấu hiệu và hình tướng cá biệt, và cùng một lúc biểu hiện được tính chất “núi” của nó, quá vượt lên trên mọi hình tướng khác. 

Có thể ngọn núi của bạn có tuyết phủ trên đỉnh và cây xanh mọc trên những triền núi thấp. Có thể nó có một đỉnh nhô cao nổi bật, cũng có thể là một dãy nhiều chóp núi, hoặc một vùng cao nguyên chót vót. Dù có hình dạng nào cũng được, bạn hãy ngồi và thở với hình ảnh của ngọn núi ấy, quan sát nó và ghi nhận những đặc tính của nó. Khi nào cảm thấy sẵn sàng, bạn hãy thử mang thân bạn và hình ảnh ngọn núi trong tâm trở thành một. Ðầu của bạn là đỉnh núi cao, vai và hai tay là triền núi và hai chân là chân núi, trụ vững vàng trên tọa cụ. Bạn hãy kinh nghiệm trong thân một cảm giác nâng cao, cột trụ, sừng sững, những đặc tính của núi, sâu xa trong đường xương sống của bạn. Hãy tự trở thành một ngọn núi biết thở, không lay chuyển trong sự tĩnh lặng của mình, có mặt hoàn toàn – vượt ra ngoài ngôn ngữ và tư tưởng, một sự hiện diện vững vàng, có gốc rễ và an trụ. 

Và bạn cũng ý thức rằng trong ngày khi mặt trời đi ngang qua bầu trời, ngọn núi vẫn ngồi yên đấy. Ánh sáng, bóng tối và màu sắc thay đổi theo từng giây phút, trong sự tĩnh lặng bất động của núi. Một người bình thường cũng có thể nhận thấy được sự thay đổi ấy qua mỗi giờ. Sự kiện này đã tạo nên những kiết tác của nhà danh họa Claude Monet. Ông đã có sáng kiến dựng nhiều khung vải để vẽ và diễn tả sự sống của một tĩnh vật, theo mỗi giờ, từ khung vải này sang khung vải khác, khi ánh sáng, bóng tối và màu sắc chuyển hóa thành những ngôi thánh đường, dòng sông hoặc ngọn núi, đánh thức được cái nhìn của người xem. Ánh sáng thay đổi, ngày chuyển sang đêm, đêm chuyển sang ngày, và ngọn núi vẫn cứ ngồi yên đấy, đơn sơ hiện hữu. Nó giữ sự thinh lặng, bất động, trong khi bốn mùa chuyển tiếp nhau, thời thiết thay đổi trong từng phút giây, từng ngày tháng. Sự yên tĩnh bất chấp hết mọi đổi thay. 

Vào mùa hè, núi không có tuyết, có chăng là trên đỉnh cao hoặc bên những tảng đá lởm chởm che khuất ánh mặt trời. Vào mùa thu, núi phủ một chiếc áo sặc sở đủ màu lá chín; vào mùa đông là một tấm mền của tuyết và băng đá. Ở mùa nào cũng vậy, có nhiều lúc ngọn núi bị khuất trong mây và sương mù, hoặc có những cơn mưa đá đổ trút xuống. Những khách du lịch ghé qua, đôi khi thất vọng vì không nhìn thấy rõ được ngọn núi, nhưng đối với núi thì không có gì khác biệt – dù thấy hay không thấy, nắng hay mưa, nóng cháy hay lạnh căm, nó vẫn ngồi yên đó hiện hữu. Những ngày có trận bảo dữ kéo ngang qua, không gian bị vùi dập trong tuyết, mưa và gió ở một cuồng độ kinh khiếp, dù vậy núi vẫn ngồi yên lặng trải qua tất cả. Rồi mùa xuân về, chim lại hót vang trên cây, những cành khô trổ màu xanh non, hoa nở rộ trên những đồng cỏ cao và bên triền núi, những dòng suối ngập tràn nước mát từ những khối tuyết đang tan. Trải qua hết mọi biến cố, núi vẫn tiếp tục ngồi yên, không hề lay chuyển bởi thời tiết, bởi những gì xảy ra trên bề mặt, bởi thế giới bên ngoài. 

Và khi ta ngồi yên với hình ảnh ấy trong tâm, chúng ta cũng sẽ là hiện thân của cùng một sự tĩnh lặng và vững chãi bất lay động, giữa những biến đổi của cuộc đời. Trong cuộc sống cũng như trong thiền tập, chúng ta sẽ luôn luôn kinh nghiệm được bản chất thay đổi của thân tâm và của thế giới chung quanh ta. Ta kinh nghiệm những giai đoạn sáng tỏ và tối tăm, cũng như những màu sắc rực rỡ cùng sự tẻ nhạt vô vị. Chúng ta sẽ kinh nghiệm những cơn bảo dữ với nhiều cường độ khác nhau, của thế giới bên ngoài cũng như trong đời sống và tâm hồn ta. Trong sự vùi dập của cơn gió lớn, sự lạnh căm của những trận mưa ào ạt, chúng ta sẽ chịu đựng những thời gian đen tối và đau đớn, cũng như sẽ nếm hưởng những giây phút an lạc và nâng cao. Và biểu hiện bề ngoài của ta cũng thay đổi luôn, cũng như một ngọn núi theo thời tiết của chính nó. 

Khi ta thực tập như một ngọn núi trong khi ngồi thiền, ta có thể nối liền được với sức mạnh và sự vững vàng của núi, cũng như tiếp nhận đó làm của mình. Ta có thể xử dụng những năng lượng đó để trợ giúp cho công phu tu tập, giúp ta tiếp xúc được mỗi giây phút bằng chánh niệm, tĩnh lặng và sáng tỏ. Chúng ta nên nhớ rằng, những ý nghĩ, cảm thọ, những trận bảo cảm xúc và sự khủng hoảng của mình, ngay cả bất cứ một biến cố nào xảy đến cho ta, chúng cũng chỉ giống như là thời tiết trên núi. Chúng ta thường hay có khuynh hướng quan trọng quá, nhận khổ đau là của mình, nhưng thật ra tự tính của chúng hoàn toàn không của riêng một ai. Nhưng điều đó không có nghĩa là ta nên xem thường hoặc chối bỏ những thời tiết đổi thay trong cuộc sống. Chúng phải được đối diện tôn trọng, cảm nhận, và được soi sáng dưới ngọn đèn chánh niệm, vì nếu không cẩn trọng chúng có thể tiêu diệt ta. Ðược như vậy, ta sẽ có thể tiếp xúc được với một sự thinh lặng, an tĩnh và trí tuệ rất sâu sắc, ngay giữa những cơn giông tố của cuộc đời. Núi có thể dạy cho ta rất nhiều, nếu ta biết lắng nghe. 

Nhưng dù sao đi nữa, bạn cũng nên nhớ rằng, thiền tập về núi chỉ là phương tiện, là ngón tay chỉ hướng cho ta đi. Chúng ta cần phải nhìn, rồi đi tới. Mặc dù hình ảnh một ngọn núi có thể giúp ta được trở nên vững vàng hơn, nhưng con người bao giờ cũng phức tạp và thú vị hơn núi nhiều. Chúng ta là những ngọn núi biết thở, biết di động, biết hát ca. Chúng ta có thể cùng một lúc vừa cứng như đá, rắn chắc bất động, lại vừa mềm mại, dịu dàng và trôi chảy. Trong ta có sẵn một tiềm năng rất rộng lớn. Chúng ta có thể nhìn và cảm nhận. Ta có thể ý thức và hiểu. Ta có thể học hỏi, trưởng thành, và có thể chữa lành những vết thương, nhất là khi ta biết học cách lắng nghe sự hòa điệu của mọi vật và duy trì được tính chất vững vàng của núi qua mọi thăng trầm của cuộc sống. 

Chúng điểu cao phi tận,
Cô vân độc xứ nhàn.
Tương khan lưỡng bất yếm,
Chỉ hữu Kính Ðình Sơn. 
— Lý Bạch. 

Bầy chim cao bay mất, 
Thơ thẩn một áng mây 
Ngồi một mình với núi 
Chỉ còn Kính Ðình Sơn. 

Thực tập: Trong khi bạn ngồi thiền, hãy giữ hình ảnh ngọn núi này trong tâm. Thử khám phá công năng của nó, trong việc làm tăng gia khả năng giúp ta an trú trong tĩnh lặng, cũng như giúp ta ngồi thiền lâu hơn, hoặc có thể ngồi đối diện với những khó khăn, khổ đau, bảo tố hay sự tẻ nhạt trong tâm. Bạn hãy tự hỏi, ta đã học được gì từ những kinh nghiệm thiền tập này. Bạn có thể nhận thấy được một chút gì chuyển hóa nơi thái độ của bạn, đối với những sự thay đổi trong cuộc sống không? Bạn có thể giữ được hình ảnh ngọn núi với mình trong đời sống hằng ngày không? Bạn có nhận thấy được những ngọn núi nơi người khác không và cho phép chúng có được một hình tướng riêng, vì mỗi ngọn núi đều cá biệt. 

11.- THIỀN MẶT HỒ 

Nước tĩnh lặng chiếu. — Nhất Hạnh. 

Hình ảnh một ngọn núi chỉ là một trong nhiều phương tiện có thể hỗ trợ cho sự tu tập của ta, và giúp cho nó được thêm sinh động và cơ bản. Những hình ảnh về cây cối, sông nước, mây trời cũng có thể rất hữu dụng. Hình ảnh ấy có thể làm nhận thức về sự tu tập của ta được thêm phần thâm sâu và rộng mở. 

Có người kinh nghiệm rằng hình ảnh về mặt hồ tĩnh lặng có một công dụng rất đặc biệt trong thiền tập. Bởi vì hồ là một khối nước mở rộng, hình ảnh ấy có quan hệ với tư thế nằm, mặc dù ta có thể thực hiện trong khi ngồi cũng được. Chúng ta biết rằng, nguyên lý của nước rất cơ bản như yếu tố đất đá, và tự tánh của nước còn mạnh mẽ hơn, vì nó có thể làm mòn đá. Ngoài ra, nước còn có một đặc tính tiếp thu rất kỳ diệu. Nó tự phân ra để tiếp nhận bất cứ một vật gì, và rồi tự hòa nhập lại. Nếu bạn lấy một cây búa đập vào núi hoặc tảng đá, dù chúng có cứng rắn đến đâu, thật ra vì sự rắn chắc ấy, đá sẽ bị mẻ hoặc vỡ ra. Nhưng nếu bạn dùng búa để đập biển hoặc hồ, cuối cùng bạn chỉ đạt được một cây búa rĩ sét. Ðức hạnh của nước biểu thị trong việc đó. 

Bạn có thể xử dụng hình ảnh của một mặt hồ để thực hành thiền tập. Hãy tưởng tượng trong tâm một mặt hồ, một vùng nước rộng nằm yên trong một chỗ trũng lớn trên mặt đất. Bạn biết rằng nước bao giờ cũng chảy xuống chỗ thấp. Nó luôn tìm nơi yên nghỉ và muốn được chứa đựng. Mặt hồ của bạn có thể cạn hoặc sâu, xanh dương hoặc xanh lá cây, vẩn đục hoặc trong veo. Những khi không có gió, mặt hồ hoàn toàn phẳng lì. Như một tấm gương nó phản ảnh cây cỏ, trời mây, đá núi, trong một giây phút ngắn ngủi, nó tàng chứa hết mọi sự vật trong đó. Những khi gió nổi lên, mặt hồ khởi sóng, từ những gợn lăn tăn đến những làn sóng nhấp nhô. Lúc ấy sự phản ảnh rõ rệt không còn nữa. Nhưng ánh nắng vẫn có thể lấp lánh và nhảy múa trên đầu những ngọn sóng, long lanh như những hạt ngọc châu. Khi đêm đến, ánh trăng lại về khiêu vũ trên mặt hồ, và nếu nước tĩnh lặng, nó sẽ phản chiếu những dáng dấp của cây cỏ trong bóng đêm. Mùa đông về, mặt hồ có thể đông cứng, nhưng bên dưới sự sống và sinh động vẫn dẫy đầy. 

Khi bạn thiết lập được một hình ảnh của mặt hồ trong tâm rồi, bạn hãy cho phép mình trở thành là một với mặt hồ ấy, khi bạn nằm xuống hoặc ở trong tư thế ngồi thiền. Bạn hãy duy trì năng lượng của mình bằng chánh niệm, bằng một sự mở rộng và bằng tình thương đối với chính mình, cũng giống như nước trong hồ được cất chứa bởi sự tiếp thu và chấp nhận của mặt đất. Bạn hãy thở với hình ảnh của mặt hồ trong tâm, cảm nhận thân của nó là thân bạn, cho phép tâm bạn được mở rộng và tiếp nhận, phản chiếu bất cứ một vật gì đến gần. Kinh nghiệm giây phút hoàn toàn tĩnh lặng ấy, khi cả hai – vật phản chiếu và mặt nước – hoàn toàn được rõ rệt, và những giây phút khi mặt hồn bị xao động, bập bềnh, vật phản ảnh và đáy sâu bị mờ khuất. Trải qua mọi biến đổi, khi bạn an trú trong thiền định, hãy đơn giản ghi nhận những trò chơi của các năng lượng khác nhau trong tâm, như là tư tưởng, cảm thọ, sự thúc đẩy và phản ứng nhất thời, chúng đến rồi đì như những ngọn sóng lăn tăn. Bạn hãy ghi nhận ảnh hưởng của chúng, như khi bạn quan sát những năng lượng khác nhau thay phiên khiêu vũ trên mặt hồ: gió, sóng, ánh sáng, bóng tối, màu sắc, mùi hương… 

Những ý nghĩ và cảm thọ của bạn có làm mặt hồ chao động không? Bạn có phiền việc ấy không? Bạn có chấp nhận những gợn sóng, những lao xao là một phần nét tự nhiên của hồ nước, của sự kiện là ta có một bề mặt không? Bạn có thể nào thấy rằng, mình không những chỉ là mặt hồ, mà còn là toàn thể khối nước nữa? Vì vậy cho nên, bạn cũng là sự tĩnh lặng bên dưới mặt nước, nó chỉ kinh nghiệm một chút chao động, cho dù mặt hồ bên trên có nhấp nhô sóng gió đến đâu. 

Cũng vậy, trong thiền tập cũng như trong cuộc sống hằng ngày, bạn nên nhớ rằng, mình không phải chỉ là một nội dung của những tư tưởng và cảm thọ, mà còn là khối chánh niệm mênh mông bất lay chuyển, nằm bên dưới bề mặt của tâm thức nữa. Trong lúc thiền quán về mặt hồ, chúng ta ngồi với ý muốn giữ hết mọi cá tính của tâm và thân trong chánh niệm và bằng sự chấp nhận. Cũng giống như hồ nước được ôm ấp, gìn giữ và cất chứa bởi mặt đất, nó phản chiếu mặt trời, ánh trăng, cây cỏ, mây trôi, bóng chim bay và được vuốt ve bởi những làn gió nhẹ, làm khơi dậy một vẻ đẹp lóng lánh, nét sinh động và tinh túy của nó. 

Vào những ngày của tháng chín hoặc tháng mười, hồ Walden là một tấm gương toàn diện của rừng núi. Không có gì lại đẹp đến thế, thanh tịnh đến thế, và lại cùng một lúc rộng lớn như thế, như là một hồ nước, ngẫu nhiên nằm trên mặt địa cầu. Trời nước. Nó không cần đến hàng rào. Quốc gia thăng trầm không làm nó ô uế. Nó là một tấm gương, không một viên đá nào có thể làm nứt vỡ được, một vẻ trong sáng không bao giờ bị mờ tối, thiên nhiên lúc nào cũng trau chuốt nó, không một cơn bảo, một bụi bặm nào có thể làm nhạt nhòa bề mặt tươi mới của nó – một tấm gương mà mọi thứ bất tịnh rơi xuống đều bị chìm lắng, phủi quét bởi chiếc chổi ánh nắng vàng chói, – là một tấm vải lau bụi – không giữ lại một hơi thở nào thở lên trên ấy, nhưng lại gởi nó bay bổng lên như mây trôi trên cao, và phản chiếu trong lòng hồ tĩnh lặng. — Thoreau, Walden. 

Thực tập: Bạn hãy dùng hình ảnh mặt hồ để trợ giúp lúc ngồi hoặc nằm trong yên lặng, không đi đâu hết, được giữ gìn và ôm ấp trong chánh niệm. Ghi nhận những khi tâm ta suy tư, hoặc khi bị dính mắc. Ghi nhận sự tĩnh lặng bên dưới bề mặt. Hình ảnh này có nhắc nhở bạn một phương cách nào mới để ứng xử trong những tình cảnh rối loạn không? 

12.- THIỀN HÀNH 

Từng bước gió mát dậy, 
Từng bước nở hoa sen. — Nhất Hạnh. 

Tôi biết nhiều người có lúc cảm thấy khó ngồi thiền, nhưng họ lại đạt được một tâm định rất sâu khi đi thiền hành, dù cho bạn là ai, bạn không thể nào ngồi mãi được. Và có người nhận thấy rằng họ không thể nào ngồi yên giữ chánh niệm, khi trong tâm có một sự đau đớn, bồn chồn và giận dữ lớn. Nhưng họ lại có thể đi thiền hành với những cảm thọ ấy. 

Trong truyền thống tu tập ở các thiện viện, thời gian ngồi thiền và đi thiền hành được xen kẻ nhau. Ngồi hay đi gì cũng đều chung một phương pháp thực tập. Ðiều quan trọng là ta phải biết cách giữ gìn tâm ý của mình. 

Khi đi thiền hành, ta chú ý chính tiến trình đi của mình. Bạn có thể tập trung vào mỗi bước chân một cách trọn vẹn; hoặc bạn có chia nó ra thành từng động tác như: nhấc, bước, đạp; hoặc là chú ý đến sự chuyển động của toàn thân. Bạn cũng có thể dùng chánh niệm về hơi thở để đi kèm theo với mỗi bước chân của mình. 

Khi đi thiền hành, bạn không có một nơi nào để đến cả. Thường thì ta đi tới lui trên cùng một con đường nhỏ, hoặc đi theo một vòng tròn trong thiền đường. Thật vậy, khi ta không có một nơi nào để đến, ta sẽ dễ dàng có mặt ở hiện tại hơn. Bạn nghĩ xem, ta mong mỏi một nơi nào khác trên con đường làm gì, khi nó chỉ tới lui có vậy thôi! Vấn đề thử thách ở đây là bạn có thể thật sự có mặt với bước chân này không, với hơi thở này không? 

Bạn có thể thực tập đi thiền hành thật chậm hay nhanh cũng được. Những bước chân nhanh chậm tùy thuộc vào vận tốc của bạn. Sự thực tập ở đây là làm sao ta có thể tiếp nhận mỗi bước chân và có mặt trọn vẹn với nó. Việc ấy có nghĩa là ta phải cảm nhận được cảm giác của mình – nơi bàn chân, nơi toàn thân, nơi dáng đi, điệu bộ của ta, trong mỗi giây phút và trong trường hợp này, trong mỗi bước chân. Bạn nên nhớ rằng khi ta theo dõi những bước chân, là ta đang nhìn bằng tâm, chứ không phải là nhìn xuống đôi chân của mình. 

Cũng giống như trong khi ngồi thiền, sẽ có việc này, việc kia khởi lên để kéo sự chú ý của ta ra khỏi sự quan sát đơn thuần về những bước chân của mình. Và ta cũng sẽ đối xử với những tư tưởng, cảm thọ, sự thúc đẩy, ký ức và mong đợi, khởi lên trong khi đi thiền hành, giống y như khi ta đang ngồi thiền vậy. Vì thiền hành là sự di động của tĩnh lặng, là dòng chánh niệm đang lưu chuyển. 

Hay nhất là khi thực tập thiền hành, bạn nên chọn một nơi mà mình không phải thu hút sự chú ý của mọi người chung quanh nhiều quá, nhất là nếu bạn đi thật chậm. Những nơi thích hợp là trong phòng thiền của bạn, ngoài đồng cỏ, trên một con đường mòn trong rừng, hay ở bờ biển vắng cũng tốt. Khi bạn đẩy xe trong một siêu thị, bạn cũng có thể thực tập thiền hành, lúc ấy bạn đi chậm bao nhiêu cũng được. 

Và ngoài những lúc thực tập thiền hành nghiêm túc, bạn cũng có thể thực hành thoải mái nữa. Những lúc này không đòi hỏi bạn phải đi tới lui trên cùng một con đường, hoặc đi quanh theo một vòng tròn, nhưng là bước đi bình thường và tự nhiên. Bạn có thể đi trong chánh niệm trên hè phố, trong hành lang ở sở làm, đi dạo với người bạn, với một em bé. Bạn chỉ cần tự nhắc nhở rằng ta đang có mặt nơi thân của mình. Bạn tập cho mình có mặt trong giờ phút này, tiếp nhận mỗi bước chân khi nó khởi lên, chấp nhận mỗi giây phút khi nó đến. Những khi cảm thấy mình hơi vội vã hoặc trở nên thiếu kiên nhẫn, bạn đi chậm lại một chút. Việc ấy có thể giúp bạn bớt vội vàng, và nhắc nhở rằng hiện tại ta đang ở đây, khi nào ta đến một nơi nào khác thì ta sẽ có mặt ở đó. Nếu bạn bỏ lỡ nơi này, thì rất có thể bạn sẽ bỏ lỡ luôn nơi kia. Nếu nơi đây tâm bạn không được an ổn, thì khi bạn đã đến nơi kia rồi, lý do gì mà tâm bạn sẽ lại được an ổn. 

Thực tập: Hãy có chánh niệm về động tác đi bộ của mình, ở bất cứ một nơi nào. Bước chậm rãi lại một chút. Giữ ý thức nơi thân và trong giờ phút hiện tại. Biết ơn sự kiện là mình vẫn còn có thể đi được, trong khi nhiều người khác không có khả năng đó. Ý thức được rằng đó là một phép lạ và trong giây phút này đừng xem thường những cử động mầu nhiệm ấy của thân ta. Biết rằng, bạn đang đứng thẳng trên mặt của Mẹ đất. Bước đi trong tự tin và với nhân phảm, như người Navaho thường nói “bước đi trong cái hay vẻ đẹp” ở bất cứ nơi nào. 

Bạn cũng nên tập đi kinh hành nghiêm trang. Trước hoặc sau giờ ngồi thiền, bạn nên đi kinh hành. Duy trì một dòng chánh niệm liên tục giữa giờ ngồi thiền và lúc đi kinh hành. Nửa giờ hoặc mười phút cũng tốt. Bạn nên nhớ rằng, chúng ta không quan tâm đến thời giờ của đồng hồ. Nhưng bạn sẽ có thể học hỏi nhiều hơn, hiểu về thiền hành sâu sắc hơn, nếu bạn tự thách thức mình đừng ngừng lại khi vừa có một vài ý nghĩ đầu tiên muốn thôi! 

13.- THIỀN TẬP ÐỨNG 

Ta có thể học bài thiền tập đứng hay nhất là từ những cây cối chung quanh ta. Bạn hãy đứng gần một thân cây, hay tốt hơn nữa, trong tư thế một thân cây và nhìn chăm chú về một hướng nào đó. Cảm giác chân mình mọc rễ đâm sâu trong lòng đất. Cảm giác thân ta đong đưa nhẹ nhàng, vì nó lúc nào cũng như vậy, như cây trong gió mát. Ðứng yên một chỗ, tiếp xúc với hơi thở, uống vào những gì trước mặt ta, hoặc nhắm mắt lại và cảm nhận môi trường chung quanh mình. Cảm giác một thân cây nào gần với bạn nhất. Lắng nghe nó, cảm nhận sự hiện hữu của nó, tiếp xúc với nó bằng tâm và thân của ta. 

Bạn hãy xử dụng hơi thở để giúp mình có mặt với giây phút này… cảm giác thân ta đang đứng yên, thở, sống, trong mỗi giây phút. 

Khi thân và tâm ta bắt đầu báo hiệu có lẽ đã đến lúc nên bước đi, bạn hãy ở với tư thế đứng ấy thêm một chút nữa. Bạn nên nhớ, những cội cây có thể đứng yên nhiều năm, và đôi khi nếu may mắn, là nhiều đời. Thử xem ta có thể tiếp nhận được bài học về sự tĩnh lặng và về cách biết tiếp xúc từ chúng. Những thân cây lúc nào cũng xúc chạm với đất bằng thân và rễ, với không khí bằng thân và cành, với nắng và gió bằng những chiếc lá xanh. Mọi yếu tố của một thân cây đứng vững vàng đều biểu hiện được một sự tiếp xúc với môi trường chung quanh. Bạn hãy tự kinh nghiệm lấy bài tập đứng như một thân cây này, dù chỉ trong một thời gian ngắn. Cảm nhận sự tiếp xúc với không khí trên da ta, cảm giác của đôi bàn chân chạm trên mặt đất, âm thanh của thế giới chung quanh, vũ điệu của ánh sáng, của màu sắc và bóng dáng, vũ điệu của tâm ta. 

Thực tập: Bạn hãy tập đứng như vậy ở bất cứ một nơi nào,trong rừng, trên núi, bên bờ sông, trong phòng khách, hoặc khi đứng chờ xe buýt. Khi chỉ có một mình, bạn có thể mở vươn cánh tay ra trong nhiều vị thế khác nhau, như là cành và lá, rộng rãi, cởi mở, tiếp nhận và kiên nhẫn. 

14.- THIỀN TẬP NẰM 

Nằm xuống cũng là một phương pháp thiền tập rất hay, nếu bạn có thể giữ cho mình đừng bị rơi vào giấc ngủ. Và nếu bạn có ngủ đi chăng nữa, giấc ngủ của bạn sẽ yên nghỉ hơn. Bạn cũng có thể thức dậy theo cùng một lối đó, mang ánh sáng chánh niệm chiếu soi vào những giây phút đầu tiên, khi ta vừa tỉnh giấc. 

Trong tư thế nằm, bạn có thể buông thư toàn thân dễ dàng hơn ở bất cứ một tư thế nào khác. Hãy để cho thân bạn chìm lún xuống mặt giường, nệm, sàn nhà, hoặc mặt đất, cho đến khi những bắp thịt thôi không còn một cố gắng nhỏ nào để giữ thân bạn lại với nhau. Ðây là một trạng thái buông thư rất thâm sâu, ở lãnh vực của các bắp thịt và những tế bào thần kinh vận động (motor neuron) kiểm soát chúng. Và tâm bạn cũng sẽ lập tức trở nên tĩnh lặng theo, nếu bạn cho phép nó được mở rộng ra và tỉnh thức. 

Xử dụng thân để làm đối tượng quán chiếu trong thiền nằm là một đặc ân lớn. Bạn có thể bắt đầu bằng cách cảm giác toàn thân, từ đầu cho đến chân, thở và tỏa phát ra hơi ấm, ôm phủ lấy con người của mình. Trong khi toàn thân ta thở, toàn thân ta sống. Và khi ta có chánh niệm về thân, ta sẽ thu hồi lại chủ quyền của mình đối với cơ thể, như là một cứ điểm chánh và sức sống của ta. Bạn hãy tự nhắc nhở rằng “ta”, bất cứ ta là ai, không phải chỉ là một nhân vật nào ở trong đầu mình. 

Bạn cũng có thể tập trung vào những vùng khác nhau trên thân theo một đường lối tự do hoặc theo một thứ tự có hệ thống, trong khi thực tập thiền nằm. Trong bệnh viện, chúng tôi giới thiệu thiền nằm đền các bệnh nhân qua phương pháp quán chiếu cơ thể (body scan) trong vòng bốn mươi lăm phút. Không phải ai cũng có thể ngồi thiền bốn mươi lăm phút ngay được, nhưng bất cứ ai cũng có thể thực hành phương pháp quán chiếu cơ thể được. Bạn chỉ cần nằm yên đó và cảm giác những phần khác nhau trong thân, và buông thư chúng. Phương pháp quán chiếu cơ thể theo một thứ tự, có nghĩa là chúng ta đi qua những phần trên thân theo một trật tự rõ rệt. Nhưng không có một phương cách nào là duy nhất. Bạn có thể bắt đầu quán từ đầu đến chân, hoặc từ chân đến đầu, hoặc từ bên này sang bên kia, thế nào cũng được. 

Một phương cách thực hành là bạn có thể tưởng tượng hơi thở của mình ra vào từ những phần khác nhau trong thân, như là bạn có thể thở vào từ những ngón chân, đầu gối, hoặc bàn tay của ta, và thở ra từ những nơi ấy. Khi nằm bạn cảm thấy sẵn sàng, trong hơi thở bạn có thể buông thả vùng thân ấy, cho phép nó tan biến trong tâm tưởng của mình và bạn rơi vào một sự tĩnh lặng với ý thức rộng mở. Tiếp đó, bạn có thể bước sang một vùng kế tiếp trên thân và bắt đầu tiếp xúc với nó bằng một hơi thở vào. Nếu được, càng nhiều càng tốt, bạn hãy để cho mọi hơi thở ra vào đều bằng mũi. 

Nhưng dù vậy, bạn không nhất thiết cần phải thực hành phương pháp quán chiếu cơ thể theo một thứ tự nào hết. Bạn có thể chú tâm vào bất cứ một vùng đặc biệt nào trên thân theo ý muốn, hoặc là khi chúng trở nên nổi bậc trong ý thức ta, có thể vì đau đớn hoặc có một vấn đề gì đó. Khi ta tiếp xúc với chúng bằng một sự cởi mở, chú tâm và chấp nhận, nó sẽ có một tác dụng chữa trị rất lớn. Nhất là nếu ta biết thực hành đều đặn, nó sẽ đem lại một sự dinh dưỡng sâu sắc cho những tế bào, những mô cơ, cũng như cho toàn thể thân tâm ta. 

Thiền nằm cũng là một phương pháp rất tốt để giúp ta tiếp xúc được với phần cơ thể cảm xúc của mình. Chúng ta có một trái tim tâm lý cũng như một trái tim vật lý. Khi chúng ta tập trung nơi vùng trung tâm của con tim, ta nên chú ý đến những cảm giác như là thắt chặt, nặng nề nơi ngực, và chú ý đến những cảm xúc như buồn rầu, cô đơn, thất vọng, tự ti, hoặc giận dữ, chúng có thể nằm bên dưới những cảm giác vật lý của thân. Chúng ta thường nói đến một con tim rạn vỡ, nặng nề hoặc chai đá, vì trong văn hóa của ta, con tim được xem như là trung tâm điểm của cảm xúc. Con tim cũng còn là một khơi điểm của tình yêu, của hạnh phúc và lòng từ ái, những cảm xúc ấy cũng cần được ta chú ý và tôn trọng như bất cứ một cảm xúc nào khác. 

Có một số phương pháp thiền quán, như là quán tâm từ, đặc biệt hướng về sự nuôi dưỡng một trạng thái cảm thọ đặc biệt trong tâm, để mở rộng và phát triển con tim huyền thoại ấy. Những đức tính như chấp nhận, tha thứ, từ bi, rộng lượng và đức tin sẽ được tăng trưởng và củng cố, bằng cách ta tập trung và khơi dậy những cảm xúc ấy như một đề mục chính của thiền tập. Nhưng những cảm xúc ấy cũng có thể được phát triển bằng sự nhận diện của ta, mỗi khi chúng phát khởi lên tự nhiên trong giờ thiền tập, và bằng sự tiếp xúc với chúng trong chánh niệm. 

Và những vùng khác trong cơ thể ta cũng mang những ý nghĩa đặc biệt, chúng có thể được quán chiếu trong khi thiền tập, trong tư thế nằm hoặc bất cứ ở một tư thế nào khác. Vùng đan điền có một tính chất tỏa sáng như mặt trời, có thể giúp ta tiếp xúc được với cảm giác yên ổn, vững vàng và sức sống, vì nó nằm ngay trung tâm trọng lực của thân. 

Vùng cổ họng phát âm lên được cảm xúc của ta, và nó có thể bị co thắt lại hoặc được mở rộng ra. Cảm xúc của ta đôi khi có thể bị “nghẹn lời”, mặc dù con tim đang rộng mở. Khi chúng ta có chánh niệm về vùng cổ họng của mình, ta có thể tiếp xúc được sâu xa hơn với lời nói và tính chất âm điệu của nó – như tốc độ, âm hưởng, cường độ, nặng nề hoặc nhẹ nhàng, ảnh hưởng đến người khác ra sao – cũng như nội dung của nó. 

Mỗi vùng trên cơ thể vật lý của ta đều có một cùng cơ thể cảm xúc tương tợ liên kết với nó. Chúng có một ý nghĩa rất sâu xa và thường thường là hoàn toàn nằm dưới bình diện ý thức của mình. Muốn được tiếp xúc phát triển, chúng ta cần phải liên tục khơi động, lắng nghe và học hỏi từ cơ thể cảm xúc này. Và phương pháp thiền nằm có thể giúp ích ta rất nhiều trong công việc ấy. 

Trong cuộc sống, chúng ta nằm xuống không biết bao nhiêu lần, vì thế phương pháp thiền nằm có thể mở cho ta một cánh cổng bước vào một thế giới mới của tâm thức. Trước khi ngủ, khì vừa thức dậy, trong lúc nghỉ ngơi hoặc nằm chơi, thiền nằm có thể giúp ta thực tập chánh niệm, mang hơi thở và thân ta lại với nhau thành một trong mỗi giây phút, làm tràn ngập thân ta với ý thức và sự chấp nhận, biết lắng nghe, tăng trưởng và buông thư. 

Thực tập: Trong khi nằm, bạn hãy chú ý đến hơi thở của mình. Cảm giác được nó đang di chuyển trong toàn thân. Ở với hơi thở tại những phần khác nhau trên cơ thể như bàn chân, cánh chân, đùi, bụng, ngực, lưng, vai, cánh tay, cổ, đầu, mặt, đỉnh đầu… Lắng nghe thật cẩn thận. Cho phép bạn cảm nhận bất cứ việc gì đang có mặt. Theo dõi những cảm giác trong cơ thể đang biến động và thay đổi. Theo dõi cảm xúc của mình về những sự biến động và thay đổi ấy. 

Bạn hãy thử thiền vào những lúc mình tự ý nằm xuống, chứ không phải chỉ khi đi ngủ. Thực tập trong khi nằm trên sàn nhà, vào những thời gian khác nhau. Thỉnh thoảng bạn thử thực tập trên những cánh đồng, ngoài bãi cỏ, dưới gốc cây… 

Hãy đặc biệt chú ý đến thân của mình khi bạn sắp rơi vào giấc ngủ và khi vừa mới thức dậy. Dù chỉ trong một vài phút thôi, bạn hãy vươn thẳng người, nằm trên lưng nếu có thể, và cảm giác toàn thân mình đang thở. Chú ý đặc biệt đến những phần nào đang có vấn đề trên thân bạn, và xử dụng hơi thở để mời chúng trở về hòa hợp và toàn vẹn với những bộ phận khác trên cơ thể. Luôn nhớ đến cái cơ thể cảm xúc của ta. Tôn trọng những trực giác của mình. 

15.- NẰM XUỐNG SÀN NHÀ MỖI NGÀY ÍT NHẤT MỘT LẦN 

Mỗi khi nằm xuống sàn nhà, tôi thường có một cảm giác đặc biệt như là thời gian tự nhiên dừng lại. Bạn có thể thực tập thiền nằm theo phương pháp quán chiếu cơ thể hoặc tập Hatha Yoga (bộ môn Yoga thể dục) trong chánh niệm. Chỉ cần nằm xuống trong một căn phòng, cũng có thể giúp tâm ta trở nên được trong sáng. Có lẽ vì tư thế nằm xuống sàn nhà quá xa lạ đối với chúng ta, nên nó phá vỡ những tập quán tâm thần khuôn mẫu của mình, và cho phép ta được bước vào giây phút hiện tại này qua cánh cửa thân mới vừa rộng mở. 

Trong môn Hatha Yoga, chúng ta được dạy phải tập có mặt trọn vẹn với thân của mình, phải ý thức được cảm giác, tư tưởng, và cảm thọ khác nhau khởi lên trong khi ta cử động, co giãn, hít thở, đứng yên trong một tư thế, hoặc đưa nhấc tay, chân và toàn thân. Người ta nói rằng tổng cộng có đến tám mươi ngàn tư thế Yoga căn bản khác nhau. Ta không bao giờ lo nghĩ đến chuyện hết còn những động tác để tập. Nhưng tôi kinh nghiệm rằng, tôi chỉ cần tập đi tập lại một số bài căn bản, độ chừng hai mươi tư thế khác nhau, sau một thời gian chừng vài năm, những động tác này mỗi lúc càng giúp tôi tiếp xúc được thâm sâu hơn với thân tôi và sự tĩnh lặng. 

Phương pháp Yoga này hòa nhập sự di động và tĩnh lặng vào nhau. Ðây là một phương pháp thực tập có tác dụng nuôi dưỡng rất lớn. Cũng như mọi sự tu tập chánh niệm khác, ta không phải cố gắng đi về đâu cả. Nhưng bạn có một chủ đích là mang cơ thể mình tới giới hạn cuối cùng của nó, trong giây phút này. Bạn thám hiểm những vùng nào trong thân có những cảm giác khó chịu cao độ nối liền với những động tác co giãn, đưa nhấc hoặc giữ thăng bằng, qua những vị thế khác thường của tay chân, đầu và thân. Và bạn đứng yên trong tư thế đó, trong một thời gian lâu hơn, trong khi ấy bạn chỉ cần thở và cảm giác thân mình. Bạn không cần phải vượt qua một giới hạn nào hết. Bạn không tranh tài với bất cứ một ai, và cũng không cần có mục đích cải tiến thân mình. Bạn cũng không cần phê phán cái hay dỡ của thân. Bạn chỉ cần an trú trong tĩnh lặng, trong phạm trù của mọi kinh nghiệm, nơi đó có những sự căng thẳng và khó chịu (thường thì chúng vô hại, nếu bạn đừng bắt cơ thể đi quá giới hạn của nó), và bạn sẽ cảm nhận được một sự bừng nở của giây phút hiện tại trong thân. 

Ðối với một hành giả kiên trì, họ sẽ không tránh khỏi nhận thấy rằng, cơ thể họ thích sự luyện tập đều đặn này và nó đang có một sự chuyển hóa. Sự thực tập này bao giờ cũng vừa có một tính chất “đang tiến triển”, và cùng một lúc nó cũng “chỉ là như vầy” thôi! Thật ra, ta không cần phải cố gắng gì hết, chúng ta chỉ làm những gì mình cần làm để có thể tiếp xúc được với tất cả, và tự sắp xếp cho mình được ngay ngắn cùng với sự co giãn của thân, tâm, sàn nhà và thế giới chung quanh. 

Thực tập: Mỗi ngày bạn nên nằm xuống sàn nhà và co giãn thân cũng như tâm trong chánh niệm. Dù chỉ ba hoặc bốn phút cũng được. Có mặt với hơi thở của mình, lắng nghe cơ thể mình đang muốn nói gì. Tự nhắc nhở rằng, cơ thể này là của ta trong ngày hôm nay. Bạn có thật sự tiếp xúc được với nó không? 

16.- KHÔNG THỰC TẬP CŨNG LÀ THỰC TẬP 

Ðôi lúc tôi cũng muốn nói rằng, khi ta không thực hành Yoga, nó cũng có một hiệu quả y như khi ta thực hành Yoga vậy. Nhưng tôi hy vọng bạn sẽ không hiểu lầm và nghĩ tôi nói rằng, thực hành hay không thực hành gì cũng vậy. Tôi chỉ muốn nói là mỗi khi bạn bỏ dở sự thực tập trong một thời gian, và bắt đầu thực hành trở lại, bạn sẽ cảm thấy sự khó khăn của nó. Vì vậy, đôi khi ta học rất nhiều qua sự trở lại thức tập, hơn là khi ta cứ tiếp tục làm thường xuyên. 

Lẽ dĩ nhiên, việc ấy chỉ đúng nếu bạn có thể nhận thấy những vấn đề như cơ thể ta đã trở nên cứng ngắc như thế nào như thế nào, tập một tư thế khó khăn ra sao, tâm ta trở nên bất an và đã không còn chịu ở với hơi thở như thế nào. Thật ra những việc ấy không khó gì mà không nhận thấy được, nhất là khi ta đang nằm trên sàn nhà, hai tay ôm chặt đầu gối, trong khi đầu nhấc lên cố chạm vào chúng. Nhưng trong đời sống hàng ngày, ta rất dễ bị thiếu ý thức về những khó khăn ấy. Yoga và sự sống là hai hình tướng khác nhau của cùng một việc. Vì vậy, bị lạc trong quên lãng và thất niệm đôi khi lại có thể dạy ta rất nhiều, hơn cả những khi ta lúc nào cũng giữ được chánh niệm. May mắn thay, đa số chúng ta không phải lo gì chuyện ấy, vì khuynh hướng thất niệm của ta bao giờ cũng mạnh mẽ vô cùng. Bạn nên nhớ rằng, chính ở chỗ ta biết tiếp xúc trở lại với chánh niệm mà trí tuệ phát sinh. 

Thực tập: Hãy ghi nhận sự khác biệt của cảm giác và cách đối phó với những khó khăn của ta, trong thời gian ta chuyên cần tu tập và trong thời gian ta dễ duôi, lơ là. Thử xem, nếu bạn có thể thấy được những hậu quả của các hành động thất niệm và vô ý thức, nhất là khi chúng phát sinh từ sự căng thẳng do công việc và đời sống hàng ngày. Bạn sống với thân mình ra sao, trong thời gian có thực tập và không thực tập? Thái độ vô hành của bạn như thế nào, bạn có nhớ gì về chúng không? Thiếu sự thực tập đều đặn đã ảnh hưởng gì đến khái niệm của bạn về thời gian cũng như về sự mong đạt kết quả? Nó ảnh hưởng đến những mối quan hệ của bạn như thế nào? Những thói quen vô ý thức của bạn, chúng từ đâu đến? Cái gì khơi động chúng? Bạn có khả năng giữ chánh niệm khi chúng khống chế bạn không, cho dù sự tu tập của bạn trong tuần này có mạnh hay yếu? Bạn có nhận thấy rằng, không tu tập là một hình thức tu tập đầy gian khổ không? 

17.- THIỀN QUÁN VỀ TÂM TỪ 

Không ai có thể hoàn toàn là một ốc đảo; 
Mỗi người là một phần của lục địa, 
của một cái chánh. 
Nếu một viên đất nhỏ li ti 
có thể bị biển cuốn trôi đi. 
Thì tất cả lục địa Âu Châu cũng sẽ bị thiếu sút, 
cũng như những bãi cát ở ven biển. 
Và những thuộc địa của bạn, 
của tôi cũng như thế; 
Bất cứ một cái chết nào 
cũng làm cho tôi mất mát, 
Vì tôi là một phần của loài người. 
Thế cho nên, 
đừng bao giờ bạn thắc mắc 
là chuông gọi hồn ai; 
Vì nó gọi linh hồn của chính bạn. — John Donne, Meditation XVII 

Ta rung động trước những nỗi khổ đau của kẻ khác, vì giữa tất cả chúng ta đều có một sự quan hệ. Chúng ta là hoàn toàn mà cũng vừa là một phần tử của một cái hoàn toàn khác to lớn hơn. Và nhờ vậy, ta có thể thay đổi được thế giới này bằng cách thay đổi chính mình. Nếu tôi trở thành một trung tâm điểm của tình thương và từ ái, tuy nhỏ nhoi nhưng rất đáng kể, thì trong giây phút này thế giới lại có thêm một hạt giống mới của tình thương và từ ái, mà nó đã không có trong vài giây trước đó. Sự kiện ấy có lợi ích cho tôi và cũng lợi ích cho người khác. 

Có lẽ bạn cũng nhận thấy rằng, không phải lúc nào chúng ta cũng là một trung tâm điểm của tình thương, ngay cả đối với chính mình. Sự thật, trong xã hội nhất là ở Tây phương, chúng ta đang có một cơn dịch của chứng bệnh tự ti mặc cảm, lúc nào cũng cho mình là thấp hèn và thua sút. Trong một buổi đối thoại với đức Ðạt Lai Lạt Ma, ở một khóa họp được tổ chức tại Dharamsala năm 1990, ngài lộ vẻ khó hiểu khi có một nhà tâm lý học Tây phương nói về vấn đề tự ti. Từ ngữ ấy phải được thông dịch sang tiếng Tây Tạng đôi ba lần, mặc dù ngài rất giỏi tiếng Anh. Ðức Ðạt Lai Lạt Ma không thể nào hiểu được ý niệm về tự ti. Và lúc hiểu được rồi, gương mặt ngài lộ một vẻ buồn rõ rệt, khi nghe nói có rất nhiều người Hoa Kỳ mang một mặc cảm thấp hèn và sút kém. 

Cảm xúc ấy hầu như không hề nghe nới tới ở những người Tây Tạng. Họ có đủ hết những khó khăn nghiêm trọng về các vấn đề tỵ nạn và bị đàn áp của một quốc gia thuộc thế giới thứ ba, nhưng trong đó không hề có mặc cảm tự ti. Nhưng mấy ai biết được việc gì sẽ xảy ra cho các thế hệ tương lai, khi họ được tiếp xúc với cái mà chúng ta gọi là “thế giới tiến bộ”. Có lẽ những người Tây phương đã quá tiến bộ về phương diện bên ngoài, nhưng bên trong của họ lại rất chậm tiến. Có thể chúng ta, những xã hội giàu có, lại đang sống trong sự nghèo túng. 

Nhưng bạn có thể hành động để cứu gỡ tình trạng nghèo khó này bằng phương pháp thiền quán về tâm từ. Cũng như thường lệ, nơi bắt đầu phải là ở chính ta. Bạn hãy mời gọi lòng từ ái,tính chấp nhận và thương yêu khơi hiện trong trái tim mình. Biết không, bạn sẽ phải thực hành việc ấy thật nhiều lần, nó cũng giống như khi ngồi thiền, bạn phải tiếp tục đem tâm mình trở về với hơi thở. Tâm ta không dễ gì chịu tuân phục, vì đôi khi những vết thương trong lòng rất sâu đậm. Nhưng bạn hãy cứ thử, như là một thí nghiệm trong khi thiền tập, một lúc nào đó hãy ôm mình trong chánh niệm và sự chấp nhận, cũng như bà mẹ ôm ấp một đứa con đang khóc, bằng một tình thương không bờ bến và vô điều kiện. Bạn có thể nào nuôi dưỡng sự tha thứ cho chính mình không, nếu không thể là cho kẻ khác? Bạn có thể nào cho phép mình được hạnh phúc trong giây phút hiện tại này không? Bạn đang cảm thấy an vui, sự kiện ấy có làm bạn khó chịu không? Nền tảng của hạnh phúc có hiện diện trong giờ phút này không? 

Phương pháp quán tâm từ có thể được thực hành như sau, nhưng bạn nên nhớ đừng bao giờ lầm lẫn chữ nghĩa với hành động. 

Bắt đầu bằng cách ngồi cho yên ổn trong thân và trong hơi thở. Kế tiếp,từ nơi com tim hoặc nơi bụng, mời gọi cảm xúc hoặc hình ảnh từ ái và thương yêu tỏa chiếu ra, cho đến khi nào nó tràn ngập con người của bạn. Cho phép bạn được ôm ấp bởi chánh niệm của chính mình. Bạn cũng xứng đáng được yêu thương và cưng chìu như bất cứ một đứa bé nào khác. Hãy để cho ý thức của bạn biểu lộ được cả hai năng lượng, lòng nhân từ của cha và lòng nhân từ của mẹ. Trong giây phút này, bạn hãy ghi nhận và tôn trọng con người của chính mình và ban cho ta một tình thương mà có lẽ ta đã thiếu khi còn thơ. Hãy để cho ta được phơi ấm trong năng lượng của tâm từ, hít nó vào và thở nó ra, như là có một sợi dây của sự sống, tuy bị hư hao lâu năm nhưng cuối cùng mang lại được cho ta một sự dinh dưỡng mà ta hằng thiếu thốn. 

Mời gọi cảm giác an lạc và chấp nhận đến khi có mặt trong bạn. Có người cảm thấy rất hữu ích khi thỉnh thoảng tự niệm thầm những lời như: “Cầu mong cho tôi không lo âu, không oán hận. Cầu mong cho tôi không phiền não. Cầu mong cho tôi được khỏe mạnh và an tịnh”. Nhưng bạn nên nhớ rằng, những lời ấy chỉ để khơi động tâm từ trong ta. Chúng là một cái giếng mong ước của ta – là những ý định muốn giải thoát ngay bây giơ, ít nhất là trong giây phút này, ra khỏi những khổ đau do ta tự tạo lấy, hoặc đã huân tập vì sợ hãi và thất niệm. 

Một khi bạn trở thành là một hiện thân của tình thương và ánh sáng từ ái tỏa chiếu suốt con người bạn, khi bạn có thể tự ôm ấp mình bằng lòng từ bi và sự chấp nhận, chừng ấy bạn có thể an trú ở nơi này mãi mãi, uống nguồn nước ngọt, tắm trong dòng suối mát, tự làm tươi mới thêm, tự nuôi dưỡng và vui sống hơn. Nó có thể là một phương pháp tu tập có tác dụng chữa thương rất lớn cho thân và tâm ta. 

Và bạn cũng có thể tiến thêm một bước nữa xa hơn. Sau khi đã thiết lập một trung tâm tươi mát trong ta, bạn có thể để cho sự thương yêu, từ ái đó tỏa chiếu ra bên ngoài và hướng nó về bất cứ một nơi nào bạn muốn. Trước hết, bạn có thể hướng nó đến những người ruột thịt trong gia đình. Nếu bạn có con, hãy giữ hình ảnh của chúng trong tâm, cầu chúc cho chúng luôn được may mắn, không bao giờ gặp những khổ đau không cần thiết, sẽ tìm được con đường đi của chúng trong cuộc đời, rằng chúng sẽ kinh nghiệm được tình thương và sự chấp nhận trong cuộc sống. Rồi kế đó, thực tập hướng tâm từ đến vợ hay chồng, anh em và những người thân thích. 

Bạn cũng có thể hướng tâm từ đến cha mẹ mình, dù các người đã mất hay còn sống, cầu chúc cho họ được may mắn, cầu chúc cho họ không cảm thấy cô đơn hoặc đau đớn, kính trọng họ. Nếu có thể và bạn cảm thấy nó lành mạnh và khai phóng, bạn hãy tìm một chỗ trong tim mình để tha thứ cho bậc cha mẹ, về những nỗi sợ hãi và khổ đau mà họ đã gây nên vì vô ý thức, vì những giới hạn của họ. 

Và chúng ta cũng không cần phải dừng lại ở đây. Bạn có thể phóng tiếp tâm từ đấn bất cứ một ai, đến những người mình biết và cả những người không quen biết. Nó có thể hữu ích cho những người ấy, nhưng chắc chắc là sẽ hũu ích cho ta, vì nó giúp ta trau luyện và mở rộng con người cảm xúc của mình. Sự mở rộng ấy mỗi lúc sẽ được già dặn hơn, khi ta có thể hướng tâm từ đến những người đang có khó khăn, đến những người đang có nhiều oan trái, và cả những ai đã đe dọa hoặc làm khổ mình. Bạn cũng có thể tập hướng tâm từ đến một nhóm người – như là những ai đang bị đàn áp, đang chịu khổ đau, cuộc sống đang bị kẹt giữa chiến tranh, bạo động hay căm thù. Bạn biết rằng, những người ấy không khác gì với mình, họ cũng có nhiều người thân yêu, cũng có hy vọng, cũng có một nhu cầu muốn được chở che, no ấm và tự do. Và bạn cũng có thể mở rộng tâm từ của mình ra để phủ trùm luôn cả trái đất này, đến sự huy hoàng cũng như nỗi đau thầm lặng của nó, trong dòng suối, con sông, không khí, đại dương, rừng núi, cây cỏ, thú vật, của chung hoặc riêng. 

Thật ra phương pháp quán tâm từ, cũng giống như sự sống này, nó không có một giới hạn tự nhiên nào hết. Vì đó là sự khai triển không ngừng của một ý thức về sự tương duyên và liên hệ của vạn vật với nhau. Và nó cũng là hiện thân của chính nó. Khi bạn có thể thương yêu một chiếc lá, một đóa hoa, một con chó, một nơi chốn, một người nào đó hoặc chính bạn, trong một giây lát, bạn sẽ tìm thấy được hết tất cả mọi người, mọi nơi chốn, mọi khổ đau, mọi hòa hợp trong chính giây phút ấy. Phương pháp tu tập của ta không phải là để cố gắng thay đổi một cái gì hoặc đạt đến một mục tiêu nào, mặc dù bề ngoài có vẻ như vậy. Thật ra chuyện ta làm là vén mở cho thấy những gì luôn luôn có mặt. Tình thương và lòng từ ái lúc nào cũng có mặt ở nơi đây, thật ra nó ở mọi nơi. Nhưng nhiều khi khả năng tiếp xúc và được tiếp xúc của ta, lại bị chôn vùi bên dưới những sợ hãi, khổ đau, những tham lam và sân hận, bên dưới một ý niệm sai lầm rằng ta là một cá thể độc lập và cô đơn. 

Khi ta khơi dây những cảm xúc từ ái ấy trong thiền tập, là chúng ta đang tự nới giãn để vượt ra khỏi những giới hạn và sự si mê của mình, cũng giống như trong Yoga, chúng ta nới giãn những sự chống cự của các bắp thịt, dây chằng và gân cốt. Và trong sự nới giãn đó, đôi khi rất đau đớn, chúng ta sẽ được mở rộng ra, trưởng thành, tự chuyển hóa mình và chuyển hóa được thế giới. 

Tôn giáo của tôi là lòng từ ái. — Ðạt Lai Lạt Ma. 

Thực tập: Trong sự tu tập của bạn, đến một lúc nào đó, bạn nên tiếp xúc với lòng từ ai bên trong mình. Thử xem bạn có thể nhìn xuyên qua được những chống đối của mình đối với phương pháp này, nếu có, hoặc những lý do về sự khó thương, khó được chấp nhận đối với mình. Bạn hãy xem chúng chỉ là những ý nghĩ. Bạn hãy thử nghiệm, cho phép ta được tắm trong sự ấm áp và tính chấp nhận của lòng từ ái, như một đứa trẻ thơ nằm êm ấm trong vòng tay của người mẹ hoặc cha. Kế đó, thử hướng nó đến những người khác và ra thế giới chung quanh. Phương pháp tu tập này không có giới hạn, và cũng như những phương pháp khác, nó sẽ được tăng trưởng và sâu sắc hơn nhờ sự chăm sóc thường xuyên, cũng như những cây lá trong một khu vườn được bón phân, tưới nước. Bạn nên nhớ rằng, ta không cố gắng để cứu giúp bất cứ một ai khác trên trái đất này. Ta chỉ cần giữ họ trong chánh niệm của mình, tôn trọng họ, cầu chúc họ được may mắn, mở rộng ra với nỗi đau đớn của họ với lòng từ bi và chấp nhận của ta. Nếu trong quá trình ấy, bạn cảm thấy sự tu tập đòi hỏi mình phải có một thái độ khác biệt trong cuộc sống, thì những hành động ấy cũng phải thể hiện được lòng từ bi và chánh niệm. 

(Hết Phần Hai).

-ooOoo-

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app