PHẦN BA 

TINH THẦN CHÁNH NIỆM 

1.- NGỒI CẠNH ÁNH LỬA HỒNG 

Ngày xưa, sau khi mặt trời lặn khuất, nguồn ánh sáng duy nhất mà con người còn lại, ngoại trừ ánh trăng và những vì sao lấp lánh trên cao, là lửa. Trải qua hàng triệu năm, loài người chúng ta đã ngồi quanh những đống lửa, nhìn vào ánh lửa bập bùng cháy, màu đỏ than hồng, với bóng tối và không gian cô lạnh phía sau lưng. Có lẽ những phương pháp thiền tập chính thức đã được phát xuất từ đây chăng? 

Lửa là một niềm an lạc của chúng ta, nó là nguồn gốc của nhiệt lượng, của ánh sáng và sự bảo vệ – dù nguy hiểm, nhưng nếu cẩn trọng, nó có thể kềm chế được. Ngồi cạnh đống lửa sau một ngày mệt nhọc, đem lại cho ta một sự thoải mái. Trong vùng không gian ấm áp và ánh sáng bập bùng, chúng ta có thể kể cho nhau nghe những câu chuyện và nói về ngày vừa qua. Hay ta cũng có thể ngồi yên, nhìn hình ảnh trong tâm mình phản chiếu trong ngọn lửa biến đổi không ngừng, một vùng tỏa sáng của thế giới mầu nhiệm. Lửa làm bóng tối trở nên bớt đáng sợ, nó giúp ta cảm thấy an ổn và bảo đảm hơn. Lửa rất đáng được tín cẩn, nó có tác dụng làm ta yên tâm, phục hồi, trầm tư và cũng rất thiết yếu cho sự sinh tồn của ta. 

Nhưng tiếc thay, trong cuộc sống ngày nay chúng ta đã đánh mất đi sự thiết yếu đó, và cùng với nó là những cơ hội để tạo nên sự tĩnh lặng cho ta. Trong thế giới xô bồ ngày nay, những đống lửa không còn là thực tiễn nữa. Khi hoàng hôn buông xuống, ta chỉ cần đơn giản bật lên một công tắc đèn. Chúng ta có thể thắp sáng thế giới này lên bao nhiêu cũng được, và rồi lại tiếp tục với những sinh hoạt, với những bận rộn của mình. Cuộc sống ngày nay không còn cho phép ta có thì giờ cho chính mình nữa, trừ khi ta biết cương quyết nắm bắt nó. Chúng ta không còn bị bắt buộc phải tạm gát lại những gì đang làm, vì trời không còn ánh sáng… chúng ta mất đi giờ phút mỗi tối ấy để sống chậm lại và ngưng nghỉ những sinh hoạt ban ngày. Ngày nay, chúng ta rất hiếm còn được những cơ hội quý báu để cho tâm mình tĩnh lặng xuống bên cạnh một đống lữa hồng. 

Thay vào đó, vào mỗi cuối ngày chúng ta ngồi chung quanh một chiếc máy truyền hình, một năng lượng điện tử xanh yết ớt, so với sự sáng ngời của lửa. Chúng ta chịu khuất phục dưới sự oanh tạc tới tấp của những âm thanh và hình ảnh, chúng phát xuất từ đầu óc của kẻ khác, và tràn ngập tâm ta bằng những tin tức vớ vẩn, với những cuộc thám hiểm, náo động và tham vọng của kẻ khác. Máy truyên hình cướp mất đi phần không gian ít ỏi còn lại trong ngày của ta, mà có thể để dành cho sự tĩnh lặng. Nó nuốt hết thời gian, không gian và sự yên lặng của ta, là một thứ thuốc mê đưa ta vào một trạng thái thụ động vô ý thức. Báo chí hàng ngày cũng thế. Tự chúng không phải là xấu, nhưng vì ta thường cho phép chúng cướp đi những giờ phút quý báu mà ta có thể xử dụng để sống trọn vẹn hơn. 

Nhưng sự thật thì ta không cần phải đầu hàng trước những mê hoặc, cám dỗ của những thú vui và sự ồn ào bên ngoài như thế. Chúng ta có thể phát triển những thói quen nào có thể giúp ta trở về tiếp xúc lại với niềm ao ước sâu xa của mình, về một cái gì ấm áp, tĩnh lặng và an lạc. Khi ta ngồi với hơi thở của mình, thí dụ thì đó cũng giống như là ngồi bên một đống lửa hồng vậy. Và khi nhìn sâu vào hơi thở, ta cũng có thể thấy được ít nhất những gì trong ánh lửa, những phản ảnh của các ý nghĩ đang nhảy múa trong tâm. Nó cũng tỏa ra một sức ấm. Và nếu thật sự ta không cố gắng để đạt một điều gì hết, chỉ đơn giản cho phép mình được có mặt nơi đây, trong giờ phút này, như nó là, chúng ta sẽ có thể dễ dàng bắt gặp lại được một sự tĩnh lặng cổ xưa nào đó, người ta đã kinh nghiệm được khi ngồi bên một ánh lửa hồng. 

2.- HÒA ÐIỆU 

Trong khi tôi vừa quẹo vào bãi đậu xe của bệnh viện, trên bầu trời đã có hàng trăm con vịt trời bay ngang qua. Chúng bay thật cao, tôi không hề nghe tiếng kêu gọi đàn của chúng. Ðiều đầu tiên tôi nhận thấy là rõ ràng chúng biết chúng đang đi về đâu. Chúng bay về hướng Tây Bắc và nhiều đến nỗi đội hình của chúng kéo dài đến tận phía trời Ðông, khi ánh sáng bình minh tháng mười một rạng rỡ nơi chân trời. Nhìn con vịt trời đầu tiên bay ngang qua, cảm xúc vì vẻ đẹp quý phái của chúng, tôi lấy đại giấy bút trong xe ra, vội vã ghi lại đội hình của chúng bằng cái nhìn và nét vẽ vụng về của tôi. Vài nét bút vội vàng cũng là đủ… chút nữa thôi chúng sẽ biến mất khỏi bầu trời. 

Hàng trăm con vịt trời bay theo đội hình chữ V, nhưng có nhiều con khác bay theo một sự sắp xếp phức tạp hơn. Ðường bay của chúng hạ xuống thấp rồi lại cất cánh lên cao trong một sự hòa điệu rất duyên dáng, giống như một tấm vải lụa uốn mình trong gió. Rõ ràng là những con vịt trời có truyền thông với nhau. Vì hình như mỗi con đều biết rõ vị trí của nó, thuộc nơi đâu và phải ở nơi nào trong đội hình phức tạp và biến đổi thường xuyên ấy. 

Tôi cảm thấy mình rất có phước được chứng kiến hình ảnh ấy. Giây phút này là một món quà rất quý báu. Tôi đã được phép nhìn thấy và được chia xẻ một cái gì tôi biết rất là quan trọng, không phải là lúc nào ai cũng có được. Một phần là sự hoang dã của chúng, một phần là sự hòa điệu, trật tự và vẻ đẹp mà chúng biểu hiện. 

Trong khi tôi chứng kiến hành trình ấy, kinh nghiệm thông thường về thời gian của tôi chợt dừng lại. Cách sắp xếp của những con vịt trời, mà các nhà khoa học gia thường gọi là “hỗn loạn”, cũng giống như sự cấu tạo của những khối mây hoặc hình dáng của cây cối. Nơi đó có một trật tự, và bên trong tàng chứa một sự vô trật tự, nhưng cũng một cách rất là có trật tự. Ðối với tôi thì hình ảnh đó là một món quà tặng ký diệu và nhiệm mầu. Ngày hôm nay, trong khi đi đến sở làm, thiên nhiên đã biểu lộ cho tôi thấy tính tự nhiên của vạn vật trong một lãnh vực nhỏ bé, nhắc cho tôi nhớ rằng cái biết của con người không có là bao, và chúng ta ít khi biết tán thưởng sự hòa hợp trong vạn vật, hoặc là có thể nhận diện được chúng. 

Chiều nay, về nhà đọc tờ báo hàng ngày, tôi nhận thấy cái hậu quả tàn khốc của việc đốn cây khai thác những khu rừng già trên vùng cao nguyên ở miền nam nước Phi Luật Tân. Hậu quả ấy đã hiển lộ khi trận bảo dữ đi ngang qua vào cuối năm 1991, khi vùng đất trơ trọi, không còn khả năng giữ nước lại, đã để mặc cho một khối lượng nước lớn gấp bốn lần bình thường, đổ tràn ngập xuống vùng đồng bằng, làm chết đuối hàng ngàn người dân nghèo. Bạn đừng bao giờ nói rằng: “Tại nó xảy ra như vậy!” Vấn đề là nhiều khi chúng ta không dám chấp nhận trách nhiệm của mình ở trong đó. Khinh thường sự hòa hợp của thiên nhiên là một sự liều lĩnh lớn! 

Tính chất hòa điệu của thiên nhiên bao giờ cũng có mặt ở chung quanh ta và trong ta. Ý thức được việc ấy sẽ mang lại cho ta một hạnh phúc lớn. Nhưng ta chỉ biết tán thưởng khi nó không còn nữa, hoặc trong ký ức mà thôi. Như cơ thể ta chẳng hạn, nếu mọi việc đều bình thường, ta sẽ không bao giờ để ý đến. Không nhức đầu, ít khi nào là một vấn đề để ta chú tâm đến. Những khả năng như đi, đứng, nhìn, nghe, suy nghĩ… thường thì chúng ít cần đến sự săn sóc của ta, vì vậy chúng hay bị nhòa lẫn vào vùng không gian của sự tự động máy móc và vô ý thức. Chỉ có sự đau đớn, sợ hãi hoặc mất mát mới có thể đánh thức ta dậy và mang thực tại trở về với sự chú tâm của ta. Nhưng đến chừng ấy thì không dễ gì ta còn có thể nhận thấy được sự hòa hợp nữa! Không khéo ta còn lại bị lôi cuốn theo sự động loạn, nó như một dòng suối chảy xiết, như một thác nước đổ, một chặn đường gian nan trong dòng sông của cuộc sống. Cũng như một người nào đó nói: “Bạn không biết những gì mình đang có, trừ khi bạn đã đánh mất nó đi…” 

Khi tôi bước xuống xe, trong lòng tôi cúi đầu cảm tạ những người khách lữ hành trên cao ấy, vì đã mang lại cho vùng trời của một bệnh viện văn minh và hiện đại này, một liều thuốc tươi mát của miền thiên nhiên hoang dã. 

Thực tập: Hãy vén lên tấm màn vô ý thức và cảm nhận một sự hòa hợp trong giây phút hiện tại này. Bạn có thấy nó trong những áng mây, trong bầu trời, con người, thời tiết, trong thực phẩm, trong thân ta, và trong hơi thở này không? Hãy nhìn và nhìn vào cho thật kỹ đi, ngay ở đây và trong lúc này! 

3.- BUỔI SÁNG SỚM 

Mặc dù ông không sở làm để đến, cũng không có con cái để săn sóc và đưa đến trường, không có lý do nào bên ngoài bắt ông phải dậy sớm, nhưng khi sống tại Walden, ông Thoreau có thói quen thức dật thật sớm để xuống tắm ở hồ vào lúc mặt trời mọc. Ông làm vì những lý do nội tại, như là một giới luật tâm linh: “Ðó là một sư tu tập và là một trong những việc mà tôi có khiếu nhất”. 

Benjamin Franklin cũng đã từng ca tụng những đức tính như sức khỏe,giàu có và sáng suốt mà ta có thể đạt được nhờ biết dậy sớm, trong câu cách ngôn nổi tiếng của ông. Nhưng ông không chỉ nói suông mà còn thực hành nữa. 

Việc dậy sớm không có nghĩa là ta sẽ có thêm thì giờ để dồn nhét thêm những bận rộn, công việc vào một ngày của mình. Sự thật ngược lại như thế. Ta sẽ có dịp để thưởng thức sự tĩnh lặng và cô tịch của giờ phút ấy, và có thể xử dụng thời gian đó để mở rộng tâm thức, để quán niệm, để thật sự có mặt và cố ý không làm gì hết. Sự an bình, bóng tối, bình minh và tĩnh lặng – tất cả những điều đó giúp cho buổi sáng sớm là một thời gian đặc biệt cho sự thực tập chánh niệm. 

Hơn nữa, thức dậy sớm sẽ giúp cho ta có cơ hội làm chủ được một ngày. Nếu bạn có thể bắt đầu một ngày với một chánh niệm vững vàng, thì khi bạn cần phải đi đây đó làm việc, chắc chắn hành động của bạn sẽ được phát xuất từ chính sự vững vàng và tĩnh lặng đó. Bạn sẽ có thể duy trì được một chánh niệm vững chãi, một sự an lạc và quân bình trong nội tâm trọn cả ngày, cho dù công việc và trách nhiệm có nặng nề đến đâu. Một ngày chắc chắn sẽ được tốt đẹp hơn, nhất là khi bạn không phải vội vã nhảy ra khỏi giường và lao đầu ngay vào những đòi hỏi của cuộc sống. 

Việc thức dậy sớm mỗi buổi sáng có một năng lực rất to tác, nó ảnh hưởng vô cùng sâu đậm tới cuộc sống của ta, cho dù ta có thực tập chánh niệm hay không. Chỉ cần nhìn mặt trời bình minh mọc mỗi sáng tinh sương, tự nó cũng là một tiếng chuông tĩnh thức cho ta rồi. 

Nhưng tôi khám phá ra rằng, buỗi sáng sớm là một thời gian rất kỳ diệu để thực hành thiền tập. Chưa có ai thức dậy hết. Sự nào nhiệt của thế giới cũng chưa thật sự bắt đầu. Tôi bước ra khỏi giường và thường thường bỏ ra chừng một giờ cho chính mình, để không làm gì hết. Sau hai mươi tám năm trời, nó vẫn chưa mất đi sức quyến rũ đối với tôi. Thỉnh thoảng, cũng có lúc tôi cảm thấy khó mà dậy sớm, thân hoặc tâm tôi bị dằn co. Nhưng giá trị ở chỗ tôi vẫn cứ làm, cho dù mình có thích hay không. 

Một trong những đức tính chánh của sự thực tập đều đặn là ta sẽ đạt được một thái độ xả bỏ đối với những trạng thái nhất thời của tâm ý. Ta cương quyết thức dậy sớm ngồi thiền mỗi ngày, cho dù mình cảm thấy muốn hay không. Sự thực tập ấy giúp ta có một tiêu chuẩn cao hơn – nhắc nhở ta về sự quan trọng của chánh niệm, và sự cám dỗ của thói quen sống trong thất niệm, vô ý thức của mình. Việc dậy sớm để thực tập không làm gì hết, tự nó cũng là một quá trình tôi luyện. Quá trình ấy phát ra một nhiệt lực đủ nóng để sắp xếp lại những hạt nguyên tử trong con người của mình, tạo nên một hàng rào pha lê vững chắc để bảo vệ thân tâm, một hàng rào giữ cho ta được thành thật và nhắc nhở rằng, cuộc sống này còn nhiều việc to tát hơn là sự thành đạt của mình. 

Kỷ luật ấy sẽ giữ cho ta được vững vàng, không bị lệ thuộc vào phẩm chất của ngày hôm qua và những việc gì sẽ xảy ra trong ngày hôm nay. Tôi luôn cố gắng bỏ ra chút thì giờ để thực hành thiền tập, cho dù chỉ trong vài phút, vào những ngày có biến cố vui buồn lớn, khi tâm tôi và hoàn cảnh chung quanh hoàn toàn bị náo động, khi có nhiều việc cần phải làm và cảm xúc dâng cao. Ðược như thế, tôi mới có thể thật sự cảm nhận được ý nghĩa của những giây phút ấy, và đôi khi có thể lèo lái vượt qua được. 

Khi ta thực tập chánh niệm vào buổi sáng sớm, là ta tự nhắc nhở mình rằng, mọi việc luôn luôn thay đổi, những điều tốt xấu sẽ đến rồi đi và ta lúc nào cũng có khả năng biểu lộ được một bình diện bất biến, của trí tuệ và an lạc, dù phải đối mặt với bất cứ một tình trạng nào. Mỗi sáng tinh sương ta thức dây sớm để thực hành thiền tập là một biểu hiện của bình diện ấy. Ðôi khi tôi nói về nó như là một cái gì rất “thông thường”, nhưng sự thật thì khác rất xa! Chánh niệm là những gì ngược hẳn lại với thói quen thường lệ của mình. 

Nếu bạn còn chần chư chưa muốn thức dậy sớm hơn một tiếng, thì bạn có thể thử nửa tiếng, mười lăm phút, hoặc năm phút thôi cũng được. Tinh thần mới là quan trọng. Năm phút thực tập chánh niện vào mỗi buổi sáng cũng có thể rất giá trị. Và chỉ cần hy sinh năm phút của giấc ngủ thôi, cũng có thể giúp ta thấy được cái tính mê ngủ của mình. Ta thấy rằng, mình phải cần bao nhiêu là sự tự chủ và quyết tâm để có được một chút thì giờ, để tỉnh thức mà không làm gì hết. Vì dù sao đi nữa, cái tâm suy nghĩ của ta có trăm ngàn lý do chính đáng để khất lại ngày sau, như là ta đâu có thật sự đạt được cái gì, sáng hôm nay cũng chẳng có gì quan trọng lắm, và có lẽ lý do thật sự hơn hết là, tại sao mình không ngủ thêm một chút nữa cho khỏe rồi ngày mai hãy bắt đầu? 

Muốn vượt qua những trở ngại trong tâm mà ta đã biết trước ấy, ta cần phải tự quyết định vào đêm hôm trước rằng, mình sẽ thức dậy cho dù có nghĩ gì đi chăng nữa. Ðó cũng là hương vị đặc biệt của đức tự chủ và thật sự có chủ đích. Ta làm vì đã tự hứa với mình và ta sẽ làm vào giờ đã ấn định, cho dù một phần của tâm ta có ưa thích hay không. Sau một thời gian, sự tu tập ấy sẽ trở thành một phần của con người ta. Ðây chỉ đơn giản là một lối sống mới mà ta đã chọn. Nhưng nó không có nghĩa là “phải làm”, vì ta không hề bó buộc mình. Những giá trị cũng như hành động của ta đã thay đổi, thế thôi. 

Nếu bạn chưa sẵn sàng để thức dậy sớm, hoặc là có chăng đi nữa, bạn bao giờ cũng có thể xử dụng giây phút vừa thức giấc của mình, bất cứ lúc nào, như là giây phút của chánh niệm, giây phút đầu tiên của một ngày mới. Ngay trước khi bạn cử động, hãy cố gắng tiếp xúc với hơi thở của mình. Cảm giác thân mình đang nằm trên giường. Thẳng người ra. Và bạn hãy tự hỏi: “Tôi có tỉnh chưa? Tôi có biết rằng tôi được ban tặng cho một ngày mới không? Tôi có tỉnh thức để nhận lãnh nó không? Việc gì sẽ xảy ra trong ngày hôm nay? Ngay bây giờ tôi cũng chẳng biết. Mặc dù tôi đang suy nghĩ về việc gì cần phải làm, tôi có thể nào mở rộng ra với cái không biết này không? Tôi có thấy ngày hôm nay là một cuộc khám phá mới không? Tôi có nhận thấy rằng thời gian này có đầy đủ hết mọi tiềm năng không?” 

Buổi sáng là những khi tôi tỉnh thức và bên trong tôi có một bình minh… Chúng ta phải biết học cách tỉnh thức ấy và giữ cho mình được tỉnh thức, không phải bằng những phương tiện máy móc, nhưng là bằng một sự mong đợi bất tận vào một bình minh sẽ không hề bỏ quên ta, dù ta đang đắm chìm trong một giấc ngủ say. Tôi không còn biết đến một sự kiện nào đáng khích lệ hơn là cái khả năng chắc chắn của con người nâng cao sự sống của mình bằng một nỗ lực có ý thức. Khả năng vẽ lên một bức tranh, tạc một bức tượng, tạo nên một vài đối tượng mỹ thuật, là cao đẹp lắm. Nhưng nếu ta có thể tạc hoặc vẽ được cái bầu không khí và môi trường mà ta nhìn xuyên qua, khả năng ấy còn tuyệt diệu hơn, vượt bực nữa… Làm sao để ảnh hưởng được phẩm chất của một ngày, đó mới là một nghệ thuật cao quý. — Thoreau, Walden. 

Thực tập: Bạn hãy tự hứa với mình và cương quyết thức dậy sớm hơn thường lệ. Làm bấy nhiêu thôi cũng sẽ thay đổi được đời bạn. Hãy để thời gian ấy, dù dài hay ngắn, là thời gian để sống, để tỉnh thức. Bạn không muốn bỏ gì vào khoảng thời gian này hơn là chánh niệm và ý thức. Không cần phải lo nghĩ về những việc cần phải làm trong ngày và sống “trước” hiện tại của mình. Ðây là lúc của sự vô thời gian, của tĩnh lặng hiện tại, và có mặt với chính mình. 

Và khi vừa thức dậy, trước khi bước chân xuống giường, bạn hãy tiếp xúc với hơi thở của mình, ý thức những cảm giác trong thân, ghi nhận mọi ý nghĩ và cảm xúc đang có mặt, hãy dùng chánh niệm soi sáng giây phút này. Bạn có cảm nhận được hơi thở của mình không? Bạn có ý thức được sự bình minh trong mỗi hơi thở vào? Bạn có biết tán thưởng cảm giác hơi thở đang ra vào tự do nơi thân trong giây phút này không? Tự hỏi mình: “Bây giờ, tôi có thật sự tỉnh thức chưa?” 

4.- TIẾP XÚC TRỰC TIẾP 

Chúng ta ai cũng mang theo mình những hình ảnh và ý niệm về thực tại. Ða số chúng được thu thập từ người khác, từ những lớp học, từ sách đã đọc, hoặc từ truyền hình, ra dô, báo chí, từ nền văn hóa nói chung. Chúng cho ta một ấn tượng về những sự vật chung quanh mình và về việc gì đang xảy ra. Và kết quả là chúng ta chỉ nhìn thấy tư tưởng của mình hoặc của kẻ khác, thay vì là những gì đang thực sự hiện diện ngay trước mặt hoặc bên trong ta. Chúng ta ít khi nào chịu tìm kiếm hoặc xét lại cảm nhận của mình, vì ta tự cho rằng mình đã biết và hiểu hết tất cả. Và vì vậy ta tự đóng kín mình lại, không còn biết đến sự kỳ diệu và sinh động của những cuộc gặp gỡ mới. Không khéo chúng ta có thể quên rằng, sự tiếp xúc trực tiếp là một cái gì có thể được. Ta sẽ không còn tiếp xúc được với những gì là cơ bản nhất, mà không hề hay biết Chúng ta có thể sống trong một thực tại huyễn mộng do mình tạo nên, mà không hề ý thức được sự mất mát, một hố sâu, khoảng cách không cần thiết ngăn cách ta với kinh nghiệm của mình. Không ý thức được việc ấy, ta suốt đời sẽ là một kẻ nghèo nàn về tâm linh. Và khi ta tiếp xúc trực tiếp được với thế giới chung quanh mình, sẽ có những sự kiện nhiệm mầu xảy ra. 

Viki Weisskopf, một người hướng dẫn và cũng là một người bạn của tôi, một nhà vật lý học nổi tiếng, có kể lại một câu truyện rất sâu sắc về sự tiếp xúc trực tiếp: 

Vài năm trước đây, tôi có nhận được lời mời đến giảng thuyết tại đại học đường Arizona ở Tucson. Tôi rất vui mừng và chấp nhận ngay, vì đây là một cơ hội tốt để viếng thăm đài thiên văn trên đỉnh Kitts Peak, nơi đó có một kính thiên văn rất mạnh, mà tôi từng mơ ước sẽ có dịp được xử dụng thử. Tôi yêu cầu trường đại học sắp xếp cho tôi một buổi viếng thăm đài thiên văn này, để tôi có thể quan sát những vì tinh tú qua chiếc kính viễn vọng ấy. Nhưng họ trả lời rằng việc ấy không thể thực hiện được, vì chiếc kính viễn vọng lúc nào cũng được xử dụng để chụp hình và cho những sinh hoạt nghiên cứu khác, không có thì giờ cho việc quan sát khơi khơi như vậy. Nếu vậy, tôi viết thư trả lời, là tôi sẽ không đến giảng thuyết được. Chừng vài ngày sau, tôi được báo tin cho hay rằng, mọi việc đã được sắp xếp theo lời yêu cầu của tôi. Một buổi tối trời trong thật đẹp, chúng tôi lái xe lên núi. Những vì sao và dãy Ngân hà sáng lóng lánh trên cao, tôi có cảm tưởng gần đến nỗi mình có thể với tay lên bắt được. Tôi vào căn nhà mái vòm của đài thiên văn và nói với người chuyên viên điều khiển chiếc kính viễn vọng bằng máy điện tử, tôi muốn được quan sát Thổ tinh và một số thiên hà khác. Thật là một niềm vui lớn khi được nhìn bằng chính đôi mắt mình, với đầy đủ hết những chi tiết mà tôi chỉ có thể thấy trước đó qua hình ảnh. Trong khi say mê quan sát, tôi chợt để ý rằng căn phòng bắt đầu có đông người tụ tập, và họ chờ nhau để đến phiên được nhìn vào chiếc viễn vọng kính như tôi. Tôi được kể rằng, những nhà thiên văn này làm việc nơi đây, nhưng họ chưa bao giờ có cơ hội để trực tiếp nhìn vào đối tượng mà họ đang nghiên cứu. Tôi chỉ có thể hy vọng rằng, lần gặp gỡ này, sẽ giúp họ ý thức được tầm quan trọng của những tiếp xúc trực tiếp như thế. 

Thực tập: Nhớ rằng cuộc sống của mình cũng thú vị và nhiệm mầu như là mặt trăng và những vì tinh tú. Cái gì đứng giữa bạn và kinh nghiệm trực tiếp với sự sống của bạn? Bạn có thể làm gì để thay đổi được khoảng cách ấy? 

5.- BẠN CÒN MUỐN NÓI THÊM ÐIỀU GÌ VỚI TÔI KHÔNG? 

Lẽ dĩ nhiên, sự tiếp xúc trực tiếp cũng rất là quan trọng trong mối tương quan giữa bác sĩ và bệnh nhân. Chúng tôi cố gắng hết sức để giúp các sinh viên y khoa hiểu được sự quan hệ này, để họ khỏi bỏ chạy trong kinh hoàng vì nó có dính líu đến tình cảm cá nhân, cũng như đòi hỏi một khả năng biết lắng nghe thật sâu sắc. Chúng tôi nhắc nhở các bác sĩ tập sự nên đối xử với bệnh nhân của mình như là con người, chứ không phải là một bài toán về chứng bệnh, hoặc cơ hội để họ thử nghiệm sự phán đoán và chữa trị của mình. Có biết bao nhiêu chuyện có thể chen vào giữa sự tiếp xúc trực tiếp của ta. Và có rất nhiều bác sĩ đã thiếu sự huấn luyện này trong lãnh vực y khoa của họ. Họ vẫn không ý thức được tính chất quan trọng của một sự truyền thông hữu hiệu, cũng như sự chăm sóc đối với bệnh nhân. Chúng ta thường nghĩ ràng mình lo cho sức khỏe của bệnh nhân, nhưng thật ra là ta chỉ lo lắng cho bệnh tình của họ. Và dù ta có chăm sóc gì chăng nữa, nó vẫn là một sự thiếu thốn lớn, nếu đối tượng của ta bị loại bỏ ra ngoài chương trình. 

Má tôi có kinh nghiệm này, về việc không tìm ra một bác sĩ nào thật sự quan tâm về nỗi lo lắng của bà. Bà rất bực tức kể lại rằng, có một lần bà bị giải phẩu xương hông, và được thay vào bằng hông nhân tạo. Sau một thời gian, bà vẫn không thể đi đứng bình thường được và rất đau đớn. Má tôi đã gọi vị bác sĩ giải phẩu của mình nhiều lần để than phiền. Cuối cùng bà được hẹn để vào gặp ông ta. Vị bác sĩ sau khi nghiên cứu tấm ảnh quang tuyến X, bảo rằng mọi sự đều rất tốt đẹp, và không hề nghĩ đến chuyện khám nghiệm lại cái hông và chân bằng xương bằng thịt của bà, mặc dù bà than phiền rất nhiều lần. Tấm ảnh chụp bằng quang tuyến X đủ để thuyết phục vị bác sĩ là má tôi không hề có lý do gì để đau đớn hết, mặc dù bà rất là khổ sở. 

Các bác sĩ có thể vô ý thức đi trốn phía sau những dụng cụ, máy móc y khoa, hoặc những thử nghiệm và danh từ kỷ thuật chuyên môn của họ. Họ rất ngại khi tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân như là một con người, một cá nhân với đầy đủ lo âu và sợ hãi, nỗi quan tâm và thắc mắc, dù có nói ra hoặc thinh lặng. Có thể họ nghi ngờ khả năng của mình, vì đây là một lãnh vực mới chưa từng được thăm dò. Một phần cũng có thể vì họ không quen đối diện với những tư tưởng, sự sợ hãi, nỗi quan tâm và nghi ngờ của chính họ, cho nên đối với những gì của người khác, chúng cũng rất là đe dọa. Và cũng có thể họ cảm thấy mình không có thì giờ để mở ngõ cho những chiếc đê sắp vỡ tuôn ấy, hoặc là tự ngờ khả năng đối phó thích ứng của mình. Nhưng điều mà những bệnh nhân cần, rất đơn giản, là sự lắng nghe và có mặt của ta, biết coi con người là quan trọng, chứ không phải chỉ có căn bệnh mà thôi. 

Với ý định đó, chúng tôi dạy những sinh viên y khoa của mình, một trong nhiều điều khác, là hỏi câu khiêu gợi sự trả lời nơi người nghe: “Ông hay bà còn có điều gì muốn nói thêm với tôi không?” sau mỗi cuối giờ phỏng vấn. Chúng tôi khuyến khich họ nên ngừng lại, và im lặng một chút, hoặc lâu hơn nữa nếu cần thiết, cho bệnh nhân có được một khoảng không gian tâm linh để xét lại nhu cầu của mình, và cũng như họ thật sự nghĩ gì. Những điều này rất ít khi nào các bệnh nhân chịu đề cập tới ngay lần đầu, lần thứ hai, hoặc có lẽ là sẽ không bao giờ, nếu họ cảm thấy vị bác sĩ không biết lắng nghe hoặc quá vội vã. 

Trong một khóa huấn luyện các nhân viên chuyên khoa về phương pháp phỏng vấn bệnh nhân, chúng tôi được chiếu cho xem một cuốn phim nói về những cuộc phỏng vấn của các sinh viên y khoa với bệnh nhân của mình, được thu hình để học hỏi. Cuốn phim gồm có nhiều cuộc phỏng vấn của các sinh viên y khoa khác nhau, nhưng chỉ gom chiếu lại phần họ hỏi bệnh nhân mình câu chót: “Ông hay bà còn có thêm điều gì muốn nói với tôi không?” Trước khi được cho xem cuốn phim tài liệu này, chúng tôi được yêu cầu hãy cẩn thận ghi nhận việc gì thật sự xảy ra. 

Xem đến đoạn phim thứ ba, tôi phải cố gắng lắm mới khỏi lăn ra đất mà cười. Hầu như trong tất cả đoạn phim, các sinh viên y khoa đều thực hành đúng những gì mình đã được dạy, là chấm dứt buổi phỏng vấn với câu hỏi chót: “Ông hay bà còn có thêm điều gì muốn nói với tôi không?”, nhưng chính họ lại lắc đầu trong khi đặt câu hỏi ấy, như gián tiếp nói với bệnh nhân mình rằng: “Thôi đủ rồi, làm ơn đừng kể thêm gì nữa hết”. 

Vì vậy, ta không bao giờ có thể dấu diếm được bất cứ điều gì. Ta phải thật sự biết lắng nghe. 

6.- THẨM QUYỀN CỦA BẠN 

Lúc mới vào làm việc tại bệnh viện, tôi được phát cho ba chiếc áo khoác dài màu trắng, bên ngoài có hàng chữ “Dr. Kabat-Zinn/Phân khoa y học” được thêu thật đẹp trên túi áo. Và chúng được treo phía sau cánh cửa văn phòng tôi từ mười lăm năm nay, chưa bao giờ được dùng tới. 

Ðối với tôi, những chiếc áo trắng này là một biểu tượng mà tôi không bao giờ cần đến trong ngành của mình. Tôi đoán có lẽ chúng cần thiết cho các vị bác sĩ, giúp làm gia tăng thêm cái hào quang thẩm quyền của họ và nhớ đó tạo một ảnh hưởng tốt đối với các bệnh nhân. Và cái hào quang ấy lại càng gia tăng bội phần, nếu họ có thêm một chiếc ống nghe (stethoscope) treo lủng lẳng ngoài túi áo. Những vị bác sĩ trẻ tuổi đôi khi nghiên cứu nghệ thuật này rất kỹ, họ cố đeo chiếc ống nghe làm sao cho thật tự nhiên trên cổ, và gác ra phiá sau lưng ngang vai. 

Nhưng trong một y viện chuyên khoa về ngành làm giảm sự căng thẳng (stress reduction clinic), thì chiếc áo trắng là một chướng ngại rất lớn. Tôi đã phải làm việc tối đa để phản ảnh những cái tên mà người ta đã đặt cho tôi, như là “Ông Thoải Mái”, hoặc “Bác sĩ Biết Hết Tất Cả”, hoặc là “Ông Tình Thương và Trí Tuệ”. Một trong những điểm chính yếu của việc xử dụng chánh niệm để giảm sự căng thẳng – là khuyến khích và thách thức người ta trở thành nguồn thẩm quyền của chính họ, biết chịu trách nhiệm về cuộc đời, về thân thể và hạnh phuc của mình. Thật ra mỗi người chúng ta bao giờ cũng là nguồn thẩm quyền của chính mình, nếu ta biết ý thức được những gì đang xảy ra trong ta và chung quanh ta. Vì vậy, ta cần phải học hỏi rất nhiều về con người ấy – những gì ta cần biết để tăng trưởng, để chữa lành vết thương và để có thể chọn lựa hữu hiệu trong cuộc sống. Và những gì ta cần học hỏi lúc nào cũng nằm trong tầm tay ta, hay nói đúng hơn là nằm ngay nơi đây trong hơi thở của mình. 

Muốn có một sự sống lành mạnh và an lạc, ta cần phải biết lắng nghe cẩn thận hơn và tin tưởng vào những gì mình nghe thấy. Bạn có nghe được những thông điệp của cuộc đời bạn không? Chúng bao giờ cũng là những thành tố còn thiếu sót trong khoa y học, Chúng tôi thường khuyên các bệnh nhân nên có niềm tin và phải biết tự đóng góp vào cho sự lành mạnh của chính họ. Chúng tôi gọi đó là “huy động nguồn nội lực của bệnh nhân”, để giúp họ tự chữa thương, hoặc để có thể đối phó thích ứng hơn, nhìn sáng tỏ hơn, cứng rắn hơn, dám đặt vấn đề hơn và xử sự khôn khéo hơn. Lẽ dĩ nhiên, nó không thể hoàn toàn thay thế cho sự chăm sóc của ngành y khoa chuyên môn được. Nhưng nó là một bổ sung rất cần thiết, nếu bạn muốn sống một cuộc sống lành mạnh thật sự – nhất là trong một hệ thống y tế còn rất nhiều khiềm khuyết này. 

Phát triển được thái độ ấy có nghĩa là ta làm chủ được đời mình, và từ đó ta sẽ chấp nhận thẩm quyền của mình hơn. Nó đòi hỏi một điều là ta cần phải biết tin tưởng nơi ta. Mà buồn thay, nhìn cho sâu, đa số chúng ta lại không có được sự tự tin đó. 

Năng lực của chánh niệm có thể mang lại cho ta niềm tin ấy, nó chữa lành được mặc cảm tự ti của ta. Vì thật ra tự ti chỉ là một đánh giá sai lầm, một nhận thức không đúng về thực tại. Bạn có thể thấy được rất rõ điều này khi nhìn sâu vào cơ thể mình, hoặc là theo dõi hơi thở trong khi thiền tập. Bạn sẽ nhanh chóng khám phá ra rằng cơ thể mình cũng là một phép lạ. Trong mỗi giây phút, nó thực hiện biết bao nhiêu là kỳ công, mà không cần đến sự cố gắng của ta. Vấn đề tự ti phần lớn bắt nguồn từ những ý nghĩ đã bị tô màu bởi quá khứ. Ta có thói quen đi tìm kiếm những khiếm khuyết của mình và phóng đại chúng lên to tướng. Và cũng lúc ấy, ta lại xem thường những đức tính tốt của mình, hoặc đôi khi không thèm biết gì đến chúng. Có lẽ chúng ta vẫn còn bị vướng kẹt trong những vết thương sâu đậm của quá khứ, và vô tình quên đi hoặc không hề ý thức được rằng mình cũng có nhiều đức tính rất hay, rất đẹp khác nữa. Vết thương xưa tuy quan trọng, nhưng những tính tốt của ta cũng quan trọng không kém, như là tình thương, lòng từ ái của ta đối với người khác, tuệ giác của cơ thể, khả năng suy nghĩ và phân biệt của ta. Và chúng ta có một khả năng phân biệt, nhận thức, thương yêu, cao thượng hơn là mình nghĩ. Dù vậy, thay vì có một cái nhìn quân bình, chúng ta thường bị kẹt trong thói quen tạo ấn tượng rằng, người khác bao giờ cũng hay ho và tốt đẹp, còn ta thì lúc nào cũng thua kém. 

Tôi cảm thấy rất ngại ngùng khi người chung quanh đưa tôi lên quá cao. Tôi cố gắng phản chiếu lại những ấn tượng đó về tôi, hy vọng rằng người ta sẽ ý thức được việc làm ấy, để thấy rằng năng lượng tích cực của họ dành cho tôi thật ra là của chinh họ. Sự tích cực ấy là của họ. Nó là năng lượng của họ, và người ta nên giữ gìn lấy để xử dụng, cũng như nên biết ơn cái cội nguồn ấy. Tại sao họ lại phải cho đi sức mạnh của mình? Thú thật tôi không cần thêm gì nữa, tự tôi, tôi cũng đã có đủ vấn đề lắm rồi! 

Người ta thường đo lường lòng kính trọng của nhau bằng những gì kẻ khác có, mà không bằng những gì họ là… Không gì có thể đem lại cho bạn sự an lạc ngoại trừ bạn. — Ralph Valdo Emerson.

7.- NƠI BẠN ÐẾN LÀ BÂY GIỜ VÀ Ở ÐÂY 

Có bao giờ bạn nhận thấy rằng, mình không thể nào trốn tránh được bất cứ một vấn đề gì không? Rằng, không chóng thì chầy, những sự việc ta không muốn đối phó, cố gắng tránh né, hoặc phủ đậy lại và giả vờ như là chúng không hề có mặt, rồi một ngày kia sẽ bắt kịp ta – nhất là khi chúng có liên quan đến những tập quán hoặc nỗi sợ của mình. Chúng ta thường có một ý niệm lãng mạn rằng, nếu nơi này ta không vừa ý, ta chỉ cần đi sang nơi khác thì mọi việc tức khắc sẽ thay đổi. Nếu việc làm của ta không tốt, đổi việc khác. Nếu người bạn đời của ta không vừa ý, chọn người bạn đời khác. Nếu thành phố ta ở không tốt, dọn đi nơi khác. Nếu con cái của ta là một vấn đề, giao chúng cho người khác lo. Ta nghĩ rằng, cái lý do tạo nên sự đau khổ cho mình nằm ở bên ngoài – như việc làm, nơi chốn. hoàn cảnh hoặc người khác. Chúng ta tưởng rằng, khi ta đổi chỗ ở, thay hoàn cảnh, thì mọi việc sẽ tự động trở nên tốt đẹp hơn, và ta có thể bắt đầu trở lại và lập một cuộc đời mới. 

Nhưng quan niệm đó có một vấn đề mà ta quên, là lúc nào ta cũng mang theo khối óc và con tìm mình, và cái mà người ta gọi là nghiệp quả, ở bất cứ một nơi nào mà ta đến. Ta không bao giờ có thể trốn tránh được chính ta, cho dù có cố gắng bao nhiêu. Lý do gì bạn lại nghĩ rằng, sự việc sẽ có thể khác đi hoặc tốt đẹp hơn ở một nơi xa xôi nào đó? Sớm muộn gì những khó khăn xưa cũng sẽ phát khởi lên, nhất là khi chúng bắt nguồn từ tập quán suy nghĩ, quan sát và hành động của ta. Rất thường khi, cuộc sống của ta không còn sinh động, vì ta không còn biết sống nữa, vì chúng ta không dám nhận lãnh trách nhiệm về những việc xảy ra và đối phó với những khó khăn của mình. Chúng ta quên rằng, mình thật sự có thể đạt được một sự trong sáng, hiểu biết và chuyển hóa ngay giữa những gì là bây giờ và ở đây, cho dù chúng là bất cứ một vấn đề gì chăng nữa. Nhưng dù sau khi ta đem những khó khăn, vấn đề của mình đi đổ cho hoàn cảnh và kẻ khác, thì nó bao giờ cũng dễ dàng và ít đe dọa đối với cái tôi của mình hơn. 

Việc đi tìm lỗi, trách móc hoặc tin rằng ta cần một sự thay đổi ở bên ngoài, ta cần giải thoát ra những lực lượng đã giữ, ngăn chận không cho ta phát triển và có hạnh phúc, chuyện ấy rất là dễ. Ta cũng có thể tự trách mình, và dùng nó như là một phương cách tối hậu để trốn tránh trách nhiệm, cho rằng mình đã làm hư hao quá nhiều, và không có thể sửa chữa được nữa. Trong cả hai trường hợp, ta đều tin rằng mình không có khả năng sửa đổi và phát triển và ta cần phải thôi làm kẻ khác đau khổ bằng cách tự rút lui ra khỏi hoàn cảnh ấy. 

Sự tổn thương gây nên bởi cái nhìn sai lầm đó, có mặt khắp nơi trong cuộc sống. Hãy thử nhìn chung quanh mình, bạn có thấy những tình thân thuộc bị gãy đổ, gia đình sứt mẻ, con người mất hết hy vọng, những kẻ lang thang không gốc rễ, lạc loài, đi từ nơi này đến chốn nọ, từ công việc này sang công việc khác, từ mối tương quan này đến mối liên hệ kia, từ quan niệm giải thoát này đến quan niệm khác… với hy vọng mong manh rồi sẽ có một người nào đó, một công việc, một nơi chốn hoặc một quyển sách nào đó sẽ làm cho mọi việc trở nên tốt đẹp hơn. 

Thật ra, thiền tập tự nó không ban cho ta khả năng thoát được khỏi những thói quen ấy: đi tìm kiếm ở một nơi khác cho câu trả lời hoặc giải đáp cho những khó khăn của ta. Trong sự tu tập, đôi khi người ta cũng hay theo đuổi phương pháp này đến phương pháp nọ, hoặc từ một vị thầy này đến vị thầy khác, truyền thống này đến truyền thống khác, mong tìm kiếm một cái gì đó đặc biệt, một pháp môn tối thượng, một mối quan hệ cá biệt, một giây phút “giác ngộ” tạm thời nào đó có thể mở tung được cánh cửa giác ngộ. Nhưng việc ấy có thể trở thành một ảo vọng nguy hại, một cuộc đi tìm bất tận, để ta trốn tránh khỏi phải đối diện với những vấn đề đau đớn nhất. Ðôi khi vì sự sợ hãi và vì khao khác muốn có một vị tôn sư giúp đở, người ta thường bị vướng mắc vào những mối tương quan không lành mạnh. Họ sẵn sàng chịu lệ thuộc vào vị thầy của mình. Nhưng bạn nên nhớ rằng, dù cho một vị thầy tài giỏi đến đâu, cuối cùng bạn vẫn phải tự mình tu tập lấy, và sự tu tập ấy phải bắt nguồn từ chính sự sống của bạn. 

Có một số người lạm dụng thời gian tu học của mình. Thay vì xem đó như một cơ hội để tự quán chiếu, họ xem khóa tu như một thời gian để củng cố lại những thói quen và tập quán thường ngày của mình. Vì trong khóa tu, mọi việc có thể trở nên dễ dàng hơn. Những nhu yếu trong đời sống của ta đều được người khác lo hết. Thế giới này thấy có ý nghĩa hơn. Tôi chỉ cần ngồi thiền, đi thiền hành, giữ chánh niệm, sống trong hiện tại, được người khác lo cho miếng ăn, thức uống, được lắng nghe những lời minh triết từ những bậc đã có một quá trình tu tập dài lâu và một đời sống tuệ giác. Và rồi tôi sẽ được chuyển hóa, biết sống với mình một cách trọn vẹn hơn, biết chấp nhận cuộc đời hơn và có một cái nhìn sáng tỏ về những vấn đề của mình hơn. 

Nói chung những việc ấy cũng không phải là sai. Một khóa tu học nhiều ngày với một vị thầy giỏi, có một giá trị rất to tát và một tác dụng chữa trị lớn lao, nếu ta chịu quán chiếu bất cứ những gì khởi lên trong khóa tu. Nhưng ở đây cũng có một sự nguy hiểm mà ta cần phải cẩn thận. Những ngày tu học của ta có thể trở thành một sự rút lui khỏi cuộc đời và xã hội, và sự “chuyển hóa” của ta vì vậy rất là nông cạn. Nó có thể kéo dài được chừng vài ngày, vài tuần, hoặc vài tháng sau khi khóa tu chấm dứt, và rồi mọi sự đâu lại hoàn đó như xưa. Và ta lại chờ đợi đến một khóa tu kế, một vị thầy giỏi nào đó, hoặc một chuyến hành hương sang Á Châu, hay là một ước mơ sẽ có một ngày ta trở thành một người tốt hơn, mọi việc sẽ được sáng tỏ hơn. 

Lối nhìn và suy nghĩ ấy là một cạm bẩy rất phổ thông. Trên con đường dài, bạn không bao giờ có thể trốn thoát được chính bạn, chỉ có một sự chuyển hóa mà thôi. Cho dù bạn có xử dụng bất cứ một phương tiện nào, dù đó là thiền tập, ma túy, rượu, ly dị, đổi công ăn việc làm… không một biện pháp nào có thể giúp bạn phát triển, trừ khi bạn dám hoàn toàn đối diện với hoàn cảnh hiện tại và duy trì chánh niệm. Cho phép những sự gồ ghề của hoàn cảnh mài dũa đi những góc cạnh còn gồ ghề của bạn. Nói một cách khác hơn, bạn phải dám để cho sự sống này trở thành vị thầy của mình. 

Ðây là con đường của sự tu tập trong bất cứ một tình cảnh nào của ta với những gì đang xảy ra bây giờ và ở đây. Vì sự thật tất cả chỉ là vậy thôi: nơi chốn này, mối tương quan này, nỗi khó khăn này, công việc này… Sự thử thách của việc tu tập chánh niệm là làm sao đối phó với ngay tình cảnh mà ta đang có mặt – dù cho nó có khó chịu, chán nản, giới hạn hoặc bất tận, và dính mặc đếu đâu chăng nữa. Và ta phải biết cố gắng hết sức, hết năng lực của mình, để tự chuyển hóa, trước khi quyết định buông bỏ để lên đường. Bạn nên nhớ rằng, chỉ có bây giờ và ở đây, sự tu tập cũng như công phu của ta mới có hiệu quả. 

Thế cho nên nếu bạn nghĩ rằng, sự tu tập của mình quá nhàm chán, không tiến bộ, rằng nơi này không có điều kiện thích hợp, và bạn đang ước phải chi mình đang ở trong một hang động nào đó trên Hy mã lạp sơn, hoặc trong một tu viện ở rừng sâu, hoặc một trung tâm tu học nào đó giữa thiên nhiên, thì mọi việc sẽ được tốt đẹp hơn, sự tu tập của bạn sẽ được vững mạnh hơn… bạn hãy nên suy nghĩ lại. Vì khi bạn đến được hang động ấy, tu viện ấy rồi, thì cũng chỉ có bấy nhiêu thôi, cũng thân này, cũng tâm này, cũng cùng một hơi thở này, mà bạn đã và đang có trong giây phút hiện tại này đây! Có lẽ sau chừng mười lăm phút trong hang động bạn sẽ cảm thấy cô dơn, thèm ánh sáng, nóc nhà có thể bị dột, trời có thể nóng quá hoặc lạnh quá. Nếu bạn đi tu học, có thể bạn sẽ không thích vị thầy, thức ăn không hạp khẩu vị, phòng ngủ thiếu tiện nghi… Bao giờ cũng sẽ có một cáigì đó làm bạn bất mãn. Như vậy sao bạn không buông bỏ nó đi, và chấp nhận ràng có lẽ nơi mà ta đang ở đây là tốt nhất rồi? Và trong giây phút ấy, bạn sẽ tiếp xúc được với chính mình và có thể mời gọi năng lực của chánh niệm bước vào và chữa trị. Chừng nào hiểu được việc ấy, thì những hang động, tu viện trong rừng, các trung tâm tu học… mới có thể thật sự giúp ích cho bạn. Và dĩ nhiên là ở bất cứ một nơi chốn nào khác, thời điểm khác, tất cả cùng đều là như vậy. 

Chân tôi trượt trên một vách đá cao, ngay trong giây phút ấy, tôi cảm thấy như những mũi kim đâm xuyên qua tim và thái dương mình, thời gian vô tận tiếp xúc được với giây phút hiện tại. Tư tưởng và hành động không khác gì nhau, và đá, không khí, tảng băng, mặt trời, nỗi sợ và tôi, tất cả chỉ là một. Cái nhiệm mầu là làm sao để kéo dài giây phút ý thức sáng tỏ ấy vào những thời gian tầm thường khác trong cuộc sống. Trong mỗi phút giây kinh nghiệm của một con chim ưng, một con chó sói đang săn mồi, chúng là trung tâm của vạn vật, không còn cần một bí quyết nào của sự sống chân thật nữa. Trong ngay hơi thở này của chúng ta, có tàng chứa cái yếu chỉ mà những vị đại sư hằng cố gắng trao truyền lại, mà một vị Lạt Ma gọi đó là “sự chính xác, mở rộng và tuệ giác của giây phút hiện tại”. Mục đích của thiền tập không phải là để giác ngộ, mà là để biết chú tâm, dù trong những giây phút tầm thường nhất, thật sự có mặt, thật sự hiện hữu và mang chánh niệm của giây phút hiện tại này vào trong mỗi sự kiện của đời sống. — Peter Matthiessen, “The Snow Leopard”. 

8.- LÊN THANG LẦU 

Trong đời sống hàng ngày chúng ta có rất nhiều cơ hội để thực tập chánh niệm. Ðối với tôi, việc đi lên thang lầu là một dịp rất tốt. Khi ở nhà, tôi làm việc ấy có đến cả trăm lần. Tôi làm việc ở dưới lầu, nhưng thường khi tôi cần phải lên lầu để lấy một cái gì đó, tìm một vật gì, hoặc nói chuyện với ai, nên tôi cứ lên và xuống thang lầu rất thường xuyên. 

Tôi khám phá ra rằng, tôi thường bị lôi kéo bởi ý muốn đi đến một nơi khác, hoặc bởi một sự việc nào đó, tôi nghĩ rằng nó cần được xảy ra. Khi tôi bắt gặp mình đang phóng nhanh lên lầu, từng hai nấc thang một, có lúc tôi có chánh niệm đủ để nhận thức được sự vội vàng đó. Tôi ý thức được hơi thở hào hển của mình, biết được tim mình đang đập nhanh cũng như là tâm ý. Tôi thấy rằng con người tôi trong giây phút đó, đang bị thúc đẩy bởi một mục tiêu vội vã nào đó, mà có khi tôi quên bẵng mất khi đã lên đến nơi. 

Khi tôi ý thức được cơn sóng của năng lượng vội vã ấy trong chánh niệm, lúc đang còn đứng dưới thang lầu hoặc khi mới vừa bước lên, tôi sẽ cố ý đi chậm lại. Không những tôi chỉ bước từng nấc thang một, mà còn thật là chậm, có lúc một hơi thở vào ra cho mỗi bước chân, tự nhắc nhở rằng mình không có một nơi nào cần phải đến, và không có gì cần thiết đến nỗi mình không thể chờ đợi được, để có thể thật sự sống trọn vẹn với một giây phút này mà thôi. 

Tôi để ý thấy rằng khi tôi nhớ để làm việc ấy, tôi có thể tiếp xúc được với quá trình lên thang lầu của mình và được vững vàng hơn khi lên đến nơi. Tôi cũng khám phá ra được một điều này là không có một sự vội vã nào từ bên ngoài hết. Chỉ có trong tâm ta, nó bị thúc đẩy bởi sự thiếu kiên nhẫn hoặc những sự lo lắng vô ý thức. Những sự vội vã trong tâm rất là tinh tế, tôi phải lắng nghe thật kỹ mới có thể nhận diện được và chúng cũng mạnh mẽ lắm, không có thể làm lay chuyển nổi. Nhưng dù vậy, ta bao giờ cũng có thể có chánh niệm về chúng cũng như những hậu quả của chúng, việc ấy sẽ giúp ta khỏi bị hoàn toàn lôi cuốn theo. Và lẽ dĩ nhiên, tôi cũng có thể thực tập trong khi đi xuống thang lầu nữa. Trong khi đi xuống ta sẽ dễ bị đi nhanh hơn, và cố ý đi chậm lại sẽ là một sự thử thách. 

Thực tập: Hãy xử dụng những việc làm hàng ngày nào có tánh cách đều đặn trong nhà, để làm cơ hội cho ta thực tập chánh niệm. Khi ta đi ra cửa, trả lời điện thoại, tìm kiếm ai, đi vào nhà tắm, giặt đồ… đều là những cơ hội để ta có thể chậm rãi lại và tiếp xúc với giây phút hiện tại. Ghi nhận sự thúc đẩy trong tâm mỗi khi ta nghe tiếng chuông điện thoại hoặc chuông cửa reo. Tại sao bạn cần phải vội vàng trả lời nó ngay, cho phép nó lôi kéo bạn ra khởi sự sống mà bạn đang có mặt trong giây phút trước đó? Sự chuyển tiếp ấy có thể nào được làm từ tốn hơn không? Bạn có thể thật sự có mặt với những gì mình đang sống không? 

Và bạn cũng nên tập có mặt với những công việc như tắm rửa hoặc ăn uống. Khi bạn tắm, bạn có thật sự là đang tắm không? Bạn có cảm giác được nước đang chảy trên da, hay là bạn đang phiêu du ở một nơi nào khác, trôi dạt trong sự quên lãng, mà không hề biết là mình đang tắm. Ăn uống cũng là một cơ hội rất tốt để thực tập chánh niệm. Bạn có nếm được mùi vị của thức ăn không? Bạn có ý thức được mình đang ăn nhanh hay chậm, nhiều hay ít, lúc nào, ở đâu và ăn những gì không? Bạn có thể nào biến trọn một ngày thành những cơ hội để sống trong hiện tại, hoặc mang ta trở về với phút giây hiện tại không? 

9.- CÔNG VIỆC CỦA TÔI TRÊN TRÁI ÐẤT NÀY LÀ GÌ? 

Công việc của tôitrên trái đất này là gì? Ðó có lẽ là một câu hỏi ta nên tự hỏi đi hỏi lại nhiều lần. Bằng không, có thể chúng ta đang làm một công việc của người khác mà không hề hay biết. Và có lẽ người khác chỉ là một sự tưởng tượng của ta hoặc cũng đang bị giam cầm như ta. 

Là một loài vật biết suy nghĩ, được gói ghém trong một đơn vị sinh vật mà ta gọi là cơ thể, và cùng một lúc được sáp nhập vào sự biến đổi không ngừng của sự sống, chúng ta có một khả năng duy nhất là chịu trách nhiệm về chính sự sống của mình. Nhưng chúng ta cũng có một khả năng khác có thể để cho sự suy nghĩ làm che lấp hành trình của mình trong cuộc sống ấy. Chúng ta sẽ không bao giờ nhận được tính chất cá biệt của cuộc sống mình – nếu ta vẫn cứ sống trong bóng tối của tập quán suy nghĩ và bị chi phối bởi những điều kiện chung quanh. 

Buckminster Fuller, người đã phát minh ra mái nhà hình vòm cầu bằng toán học, vào năm ba mươi hai tuổi, một đêm bên bờ hồ Michigan, ông đã nghĩ đến việc tự tử. Chuyện kể rằng, sau những thất bại liên tiếp khiến ông nghĩ rằng mình đã làm hư hao cuộc đời mình quá nhiều, cách hay nhất là giả từ hết tất cả, để vợ và đứa con gái còn nằm nôi khỏi phải chịu khổ đau thêm nữa. Trong những năm qua, bất cứ một công việc nào ông nhận lãnh hoặc dính líu tới đều bị đổ bể và tan thành cát bụi, mặc dù ông có một sức tưởng tượng và sáng tạo rất mạnh. Tài năng đó của ông chỉ được công nhận sau này. Nhưng cuối cùng, thay vì tự chấm dứt đời mình, ông Fuller quyết định rằng từ đêm đó ông sẽ tiếp tục sống, nhưng coi như là mình đã chết rồi. 

Xem như là đã chết rồi, ông không còn phải lo lắng về chuyện thành bại của mình nữa. Từ đó ông có thể đem hết tâm lực ra để sống như một đại biểu của vũ trụ. Cuộc đời còn lại, ông xem như là một món quà. Thay vì sống cho chính mình, ông lúc nào cũng tự hỏi: “Quả đất này đang cần điều gì mà chỉ có tôi mới có thể thực hiện được? Và chúng sẽ không bao giờ xảy ra, nếu tôi không nhận lãnh trách nhiệm ấy?” Suốt cuộc đời còn lại, lúc nào ông cũng tự hỏi câu ấy và tiếp nhận những gì đến với ông. Khi ta có thể sống theo lối đó, phục vụ nhân quần như là một công nhân của vũ trụ, ta có thể tu sửa và đóng góp cho mọi người bằng chính con người của ta, sự sống của ta. Nhưng nó không còn có tính cách cá nhân nữa, mà chỉ là một phần của toàn thể vũ trụ rộng lớn đang tự biểu lộ chính nó. 

Chúng ta thường ít khi nào tự hỏi và suy ngẫm một cách nghiêm chỉnh về những gì con tim mình thật sự muốn. Tôi muốn đặt nó trong hình thức của một câu hỏi: “Công việc của tôi trên trái đất này là gì?” hoăc là : “Tôi yêu thích công viêc nào tôi sẵn sàng trả tiền để làm?” Nếu tôi không tìm được một câu trả lời nào khác hơn là: “Tôi không biết”, thì tôi sẽ tiếp tục tự hỏi. Nếu bạn bắt đầu suy ngẫm về câu hỏi đó vào năm hai mươi tuổi, thì khi bạn được bốn mươi, năm mươi hoặc sáu mươi, có lẽ sự suy tư ấy đã dẫn dắt bạn đến những nơi mà bạn không bao giờ bước chân tới, nếu bạn sống một cuộc đời bình thường, hoặc chỉ biết theo kỳ vọng của cha mẹ mình. 

Bạn có thể đặt câu hỏi đó vào bất cứ lúc nào và ở b1ất cứ một lứa tuổi nào. Dù ở vào một thời điểm nào trong cuộc đời, câu hỏi ấy sẽ có một ảnh hưởng rất sâu xa đến những quan điểm của bạn về sự việc cũng như sự lựa chọn của bạn. Việc ấy không có nghĩa là những gì bạn làm sẽ thay đổi, nhưng rất có thể bạn sẽ thay đổi cách nhìn của mình, sự nắm bắt của mình, và có lẽ đường lối làm của mình. Một khi ông chủ của bạn là vũ trụ này thì sẽ có nhiều việc lý thú xảy ra, cho dù bạn có bị ai đó cúp lương đi chăng nữa. Nhưng bạn phải biết thật kiên nhẫn. Lối sống mới này đòi hỏi một thời gian để phát triển. Nhưng lẽ dĩ nhiên, trước hết ta phải bắt đầu đi cái đã. Khi nào và ở đâu? Bây giờ và ở đây bao giờ cũng là thời gian và không gian tốt nhất. 

Chúng ta không bao giờ có thể đoán được sự quán xét này sẽ dẫn ta tới đâu. Ông fuller hay nói rằng, những gì có vẻ dường như đang xảy ra trong giờ phút này, thường thường không bao giờ là toàn thể câu chuyện. Ông lấy thí dụ về một con ong chẳng hạn, đối với nó việc đi lấy mật là chuyện quan trọng nhất. Nhưng cùng một lúc, con ong cũng là một phương tiện mà thiên nhiên xử dụng để chuyên chở phấn hoa đến những nhụy bông. Mọi sự vật trên vũ trụ này đều có liên hệ mật thiết với nhau, đó là một nguyên lý thiên nhiên cơ bản. Không có một sự vật nào trên đời này là đơn độc hết. Mọi việc luôn luôn biểu lộ trên nhiều lãnh vực khác nhau. Chúng ta phải cố gắng hết sức mình để nhận diện được sự thăng trầm và phức tạp ấy của cuộc sống, và tập đi theo những con đường nào là chân thật và vững vàng. 

Ông Fuller tin vào một nền tảng cấu trúc của thiên nhiên, nơi đó mọi hình thái và chức năng của sự vật đều có một liên hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Ông tin rằng, bản đồ thiết kế của thiên nhiên rất bổ ích và có một liên hệ cụ thể đến cuộc sống của chúng ta trong nhiều lãnh vực. Trước khi ông qua đời, khoa tinh thể học (Crystallographic) xử dụng quang tuyến X đã chứng minh được rằng, nhiều loại siêu vi khuẩn đã được kết cấu theo cùng một nguyên lý đo đạt vị trí (geodesy), mà ông đã khám phá được khi tìm tòi trong môn toán thuộc về hình khối đa diện (Polyhedron). 

Rất tiếc ông đã không sống lâu để chứng kiến, nhưng ngoài những khám phá và phát minh có tác động lớn của ông, một lãnh vực mới trong ngành hóa học đã được mở ra, nhờ sự khám phá bất ngờ của một hợp chất giống như quả banh túc cầu, tương tự như thán tố. Nó mang những tính chất quan trọng đặc biệt mà sau này được gọi là Buckminsterfullernes, tên của ông. Ðùa chơi với sự tò mò, đi theo con đường mình chọn, sự suy tư của ông đã đưa đến những khám phá và thế giới mà ông không bao giờ có thể ngờ tới. Bạn cũng thế. Ông Fuller không bao giờ cho mình là đặc biệt, chỉ là một người thích đùa chơi với những ý kiến và hình tướng mà thôi. Câu châm ngôn của ông là: “Nếu tôi có thể hiểu được, thì bất cứ ai cũng có thể hiểu được”. 

Hãy tự tin nơi mình, đừng bao giờ bắt chước một ai cả. Bạn có thể dễ dàng tặng cho mỗi giây phút của cuộc sống này, cái năng lượng tích tụ mà bạn đã nuôi dưỡng cả một đời mình. Nhưng nếu bạn bắt chuớc tài năng của kẻ khác bạn chỉ đóng góp được phân nữa những gì mình có… Hãy làm những gì được giao phó cho mình, bạn sẽ không bao giờ có thể nào hy vọng hoặc liều lĩnh quá mức được. — Ralph Waldo Ermersom, “Self-Reliance “.

10.- NGỌN NÚI ANALOGUE 

Có những ngọn núi bên ngoài ta và cũng có những ngọn núi bên trong ta. Chỉ mỗi sự hiện diên của chúng thôi cũng đã đủ vẫy tay mời gọi thử thách ta rồi. Có lẽ bài học trọn vẹn mà núi dạy cho ta là chúng ta mang trọn cả một ngọn núi bên trong mình, núi ở trong lẫn ở ngoài. Có lúc ta cố công tìm kiếm nhưng không bao giờ gặp, khi nào ta có đầy đủ nghị lực và sự chuẩn bị để đi tìm một con đường, trước là đến chân núi, sau là đỉnh cao. Hình ảnh leo núi là một ẩn dụ rất sâu sắc cho những hành trình đi tìm trong cuộc sống, một hành trình tâm linh, một con đường phát triển, chuyển hóa và hiểu biết. Những cam go gian khổ mà ta gặp phải trên đường là những thử thách cần thiết, chúng giúp ta tự cởi mở ra và từ đó nới rộng biên giới của mình hơn. Cuối cùng thì chính cuộc sống này là một ngọn núi, một vị thầy, cung hiến cho ta những cơ hội tuyệt vời để giúp ta tu sửa, để phát triển trong năng lực và tuệ giác. Chúng ta sẽ học hỏi và trưởng thành rất nhiều một khi ta đã chọn đặt chân vào hành trình này. Ở đây, sự rủi ro rất cao, sự hy sinh rất lớn, mà kết quả thì không có gì chắc chắn. Cuối cùng thì chính quá trình leo núi tự nó là một sự khám phá, chớ không phải chỉ là khi nào ta đã đứng trên đỉnh núi cao. 

Trước hết chúng ta cần phải quan sát xem chân núi như thế nào và sau đó ta mới phải đối diện với những dốc cao, và cuối cùng, hy vọng là đỉnh núi. Nhưng không ai có thể ở trên đỉnh mãi được. Hành trình đi lên sẽ không hoàn toàn nếu không có đi xuống, khi ta bước lùi lại để có thể nhìn được toàn thể ngọn núi từ xa. Khi đã đứng trên đỉnh núi cao, ta sẽ tiếp nhận được một quan điểm mới, và nó có thể sẽ thay thế cái nhìn của ta mãi mãi. 

Trong một câu chuyện còn dở dang có tên là Núi Analogue, René Daumal có diễn tả lại một phần cho cuộc hành trình nội tâm này. Phần mà tôi còn nhớ thật rõ về câu chuyện là những điều luật mà người leo núi Analogue cần phải tuân theo. Ví dụ, trước khi tiếp tục leo lên một địa điểm trại cao hơn, ta phải bổ sung lại cho đầy đủ căn trại mà ta sắp rời bỏ, để cho người đến sau. Và ta phải tìm cách chia xẻ kiến thức của mình về những gì biết được từ trên cao, để những người bên dưới có thể được lợi lộc từ những điều ta đã học hỏi được trong hành trình của mình. 

Tôi nghĩ chuyện ấy cũng giống như những điều chúng ta làm khi đi dạy vậy. Ta cố hết sức để chỉ cho người khác những gì mình đã biết cho đến bây giờ. Thật ra đó chỉ là một tờ báo cáo, một bản đồ kinh nghiệm của ta, nó không hề là chân lý tuyệt đối. Và từ đó hành trình thám hiểm rộng mở. chúng ta đều cùng đang leo trên ngọn Analogue. Và chúng ta rất cần đến sự giúp đở của nhau. 

11.- SỰ LIÊN HỆ MẬT THIẾT 

Dường như từ tuổi thơ chúng ta cũng đã biết rõ rằng, mọi việc trên cuộc đời này đều có một liên hệ, gắn bó rất chặt chẻ với nhau. Rằng cái này xảy ra vì cái kia xảy ra, muốn cái này xảy ra thì cái kia phải xảy ra. Ở Tây phương có một câu chuyện cổ tích nói lên được sự kiện này. Có con chồn nọ lén uống hết sữa trong thùng của một bà lão, trong khi bà bận đi lượm củi. Khi khám phá ra, bà ta giận dữ bắt con chồn và cắt đứt đuôi nó. Con chồn khóc lóc xin lại cái đuôi, bà nói sẽ khâu lại cho sau khi nó trả sữa lại cho bà. Nghe vậy con chồn chạy đến gặp một con bò và xin chút sữa, con bò nói đem về cho nó cỏ thì nó sẽ cho sữa. Con chồn chạy ra cánh đồng xin chút cỏ, cánh đồng nói hãy đem cho ta chút nước. Con chồn vội đến bên một dòng suối để xin, dòng suối nói hãy đem bình đến đây lấy. Câu chuyện lại tiếp diễn cho đến khi có một bác nông phu, vì thương hại, cho con chồn những hạt lúa để đem cho con gà, đánh đổi lấy những quả trứng đem cho người bán hàng rong, anh bán hàng rong đổi cho một sợi dây chuyền đem về đưa cho một cô con gái để lấy chiếc bình… và cuối cùng con chồn lấy lại được cái đuôi và sung sướng chạy đi. Cái này phải xảy ra thì cái kia mới có thể xảy ra. Không có cái gì phát xuất từ khơi khơi được. Mọi việc đều có một quá khứ, lai lịch của nó. Ngay cả lòng thương của bác nông phu trong câu chuyện cũng phải có một phát xuất từ đâu. 

Khi ta nhìn sâu vào bất cứ một quá trình nào, ta cũng sẽ thấy được sự thật ấy. Không có ánh sáng mặt trời sẽ không có sự sống. Không có nước sẽ không có sự sống. Không có thực vật sẽ không có sự quang hợp (photosynthesis), không có sự quang hợp sẽ không có dưỡng khí. Không có cha mẹ sẽ không có ta. Không có xe cộ sẽ không có thực phẩm cho thành phố. Không có hảng xe sẽ không có xe. Không có nhân công sẽ không có sắt thép cho hảng xe. Không có quặng mỏ sẽ không có sắt thép cho nhân công. Không có thực phẩm sẽ không có nhân công. Không có mưa sẽ không có thực phẩm. Không có mặt trời sẽ không có mưa. Không có những điều kiện cho sự sắp xếp của các vì tinh tú, những hành tinh trong vũ trụ, sẽ không có mặt trời, không có trái đất. Nhưng những mối liên hệ này không phải lúc nào cũng giản dị và nằm trên một đường thẳng. Thường thường thì chúng dính líu với nhau như một màng nhện chằng chịt và vô cùng vi tế. Vì vậy sự sống của ta là một màng lưới tương quan gắn bó rất mật thiết, mà không có một nơi nào là điểm khởi đầu, hoặc điểm chấm dứt tuyệt đối cả. 

Vì vậy, chúng ta có thể thấy được sự vô lý cũng như nguy hiểm, khi ta để cho tư tưởng của mình biến một sự việc hoặc hoàn cảnh nào đó thành một cá thể cô lập, không ý thức gì về sự tương quan chằng chịt cũng như tính cách biến đổi của chúng. Bất cứ một việc gì cũng có dính líu đến bất cứ một việc nào khác, và nó cũng tàng chứa hết, cũng như được tàng chứa bởi mọi vật khác. Còn gì hơn nữa, vì mọi vật đều đang chuyển dịch. Những vì tinh tú sinh ra, trải qua các thời kỳ rồi diệt đi. Các hành tinh cũng có một nhịp điệu hình thành và hoại diệt riêng của chúng. Những chiếc xe mới chưa ra khỏi xưởng mà cũng đã đang trên đường đi đến chỗ phế thải rồi. Ý thức này sẽ làm gia tăng sự tán thưởng của ta đối với luật biến đổi của vạn vật, nó giúp ta bớt xem thường sự vật, hoàn cảnh cũng như tình tương thân, và biết quý trọng chúng hơn. Chúng ta sẽ tôn quý cuộc đời này hơn, con người, ý kiến và mỗi giây phút hơn, nếu ta có thể nhìn sâu và thấy được rằng, bất cứ những gì mình tiếp xúc đều có thể nối liền ta với toàn thể vũ trụ, và tất cả mọi việc, con người, nơi chốn, hoàn cảnh đều chỉ có mặt nơi đây trong chốc lát mà thôi. Nó biến giây phút này trở thành vô cùng lý thú. Mà thật ra, nó khiến cho giây phút này là tất cả. 

Chánh niệm về hơi thở là một sợi dây, trên đó những hạt chuỗi kinh nghiệm, tư tưởng, cảm thọ, hiểu biết và ý thức của ta được xỏ qua. Xâu chuỗi ấy là một cái gì mới đối với ta – nói cho đúng thì nó là một cách nhìn mới, một lối sống mới, lối kinh nghiệm mới giúp cho ta có được cách hành xử mới trong cuộc đời. Ðường lối mới ấy của ta dường như có thể nối liền lại tất cả những sự kiện gì có vẻ như là cô lập. Nhưng thật ra, trong cuộc sống này không có gì là cô lập mà cần phải được nối liền lại hết. Chính cái nhìn sai lầm của ta đã tạo nên và duy trì sự cách biệt phân chia ấy. 

Cái nhìn và lối sống mới này sẽ giúp ta ráp lại những mảnh vụn của cuộc sống vào đúng vị trí của chúng. Mỗi giây phút sẽ được tôn trọng với sự trọn vẹn của nó, nằm trong một sự trọn vẹn khác to tát hơn. Sự tu tập chánh niệm chỉ đơn giản là một cuộc đi tìm, khám phá cho ra đường mối của màng lưới nối liền mọi việc ấy lại với nhau. Rồi đến một lúc nào đó ta sẽ thấy rằng, thật ra mình không cần phải tìm kiếm gì hết. Chúng ta chỉ ý thức được một sự tương quan mà nó bao giờ cũng có mặt. Ta đã leo lên đến một cao điểm giúp mình có thể thấy được toàn diện cảnh vật, và từ đó có thể ôm giữ giây phút hiện tại này trong chánh niệm. Hơi thở và giây phút hiện tại tương nhập vào nhau, như sợi dây và hạt chuỗi, chúng tạo nên một cái gì to tát hơn. 

Cái này sáp nhập vào cái kia, những nhóm tan chảy nhập thành các nhóm sinh môi, cho đến một lúc những gì ta nghĩ là sự sống gặp gỡ và đi vào những gì ta cho rằng không phải là sự sống: ốc hến và đá, đá và đất, đất và cây cối, cây cối và mưa và không khí… Và điều lạ lùng là hầu hết những cảm giác mà ta gọi là tôn giáo, hầu hết những sự phản đối huyền bí mà ta cho là những phản ứng cao thượng và mơ ước của loài người chúng ta, thật ra chính là một sự hiểu biết và cố gắng nói lên rằng, con người có liên hệ với tất cả vạn vật, nó gắn bó chặt chẽ với mọi loài, biết tới hoặc không biết tới. Việc ấy nói thì nghe rất giản dị, nhưng cảm thọ sâu sắc của nó đã làm nên một Jesus, một St. Angustine, một St. Francis, một Roger Bacon, một Charles Darwin và một Einstein. Mỗi người, tùy theo nhịp điệu và giọng nói của mình, đã khám phá và tái xác nhận với một kiến thức kỳ diệu rằng, tất cả chỉ là một và một là tất cả – một phiêu sinh vật (plankton), một động vật nhỏ li ti sống trôi nổi theo dòng nước trong đại dương, và một hành tinh đang xoay và một vũ trụ đang mở rộng, tất cả đều được cột chặt lại với nhau bằng sợi dây vô cùng của thời gian. — John Steinbeck và Edward F. Ricketts, “Sea of Cortez”. 

12.- BẤT BẠO ÐỘNG – AHIMSA 

Một người bạn của tôi trở về, sau mấy năm sống ở Nepal và Ấn Ðộ, vào năm 1973, đã nói như sau: “Nếu tôi không thể làm gì hữu ích cho cuộc đời, thì ít ra tôi cũng sẽ cố gắng bớt gây tổn hại chừng nào tốt chừng ấy”. 

Tôi đã bị truyền lây bởi ý niệm về bất hại, Ahimsa, ngay lúc ấy tại nơi phòng khách của tôi. Và tôi không bao giờ quên được giây phút đó. Mặc dù tôi đã từng được nghe nói về thuyết bất bạo động trước đó. Thái độ bất hại này nằm ngay nơi trái tim của pháp môn Yoga và cũng là lời tuyên thệ của các sinh viên y khoa trước khi họ trở thành bác sĩ thực thụ (Hippocratic Oath). Nó cũng là nguyên tắc nền tảng cho cuộc cách mạng của thánh Gandhi và sự tu tập của cá nhân ông. Nhưng hình như vì sự chân thành trong lời nói của người bạn tôi, cùng với một cái gì đó không phù hợp từ một con người mà tôi nghĩ là tôi biết, đã gây cho tôi một ấn tượng rất mạnh. Tôi chợt thấy rằng đó là một lối sống rất đẹp đối với thế giới chung quanh cũng như cho chính bản thân tôi. Tại sao ta không thử cố sống sao để ít gây tổn thương cũng như khổ đau được chừng nào tốt chừng ấy? Nếu chúng ta có thể sống theo nguyên tắc đó, thì có lẽ mức độ bạo động và điên rồ trong tư tưởng cũng như trong cuộc sống của ta, đâu có đến nỗi tệ hại như ngày hôm nay. Và chúng ta cũng sẽ biết thương yêu mình hơn, trên tọa cụ cũng như trong cuộc đời. 

Cũng như mọi quan niệm khác, bất bạo động và bất hại có thể là một nguyên tắc rất tuyệt diệu, nhưng chính việc sống đúng theo nó mới thật sự có giá trị. Bạn có thể thực tập sự từ ái của nguyên tắc bất bạo động đối với chính bạn và đối với những người chung quanh bất cứ lúc nào. 

Có bao giờ bạn cảm thấy mình khó khăn với chính mình và khinh thường mình quá không? Hãy nhớ đến Ahimsa trong giây phút ấy. Ghi nhận nó rồi buông bỏ đi. 

Bạn có bao giờ nói về một người nào đó sau lưng họ không? Ahimsa. 

Bạn có cảm thấy rằng mình tự thúc đẩy quá mức, chẳng chú ý gì đến sức khỏe cũng như hạnh phúc của mình không? Ahimsa. 

Bạn có làm cho một người nào đó khổ đau không? Ahimsa. Ðem áp dụng lý thuyết bất bạo động với những người không có gì là nguy hại đối với ta bao giờ cũng dễ. Nhưng khi đối diện với những người hoặc hoàn cảnh nào có vẻ đe dọa, ta sẽ phản ứng ra sao, đó mới thật sự là bài thử nghiệm. 

Ý muốn làm khổ hoặc làm hại kẻ khác được phát xuất từ một nỗi sợ trong ta. Muốn thực hành sự bất bạo động, ta cần phải nhìn thấy rõ nỗi sợ của mình, để hiểu và làm chủ nó. Làm chủ nó có nghĩa là ta dám nhận lãnh trách nhiệm. Nhận lãnh trách nhiệm có nghĩa là ta không để cho nỗi sợ hoàn toàn sai xử hành động và quan điểm của mình. Chỉ có chánh niệm về sự dính mắc và ghét bỏ của chính ta, và ý muốn đối diện với những trạng thái này trong tâm, dù có đau đớn đến đâu, mới có thể giải thoát ta ra khỏi vòng khổ đau này. Nếu ta không biết duy trì sự tu tập hàng ngày, những ý tưởng dù tốt lành đến đâu cũng rất là mong manh, chúng rồi sẽ bị lòng tư lợi đè bẹp mất. 

Bất bạo động, Ahimsa, là một phẩm chất của linh hồn, và vì vậy nó cần phải được thực hành bởi mọi người trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Nếu nó không thể được thực thi trong tất cả mọi khoa, thì nó không có một giá trị thực dụng nào. 

Nếu bạn không thể thương yêu được vua George đệ ngủ, hoặc thủ tướng Winston Churchill, thì bạn có thể bắt đầu nơi vọ, chồng, hoặc con của mình. Hãy đặt hạnh phúc của họ trước hạnh phúc của bạn trong mỗi giây phút của cuộc sống, và từ đó để cho vòng thương yêu ấy mở rộng ra. Khi bạn đã cố gắng hết sức mình, sẽ không có chuyện thất bại. 
Mahatma Gandhi 

13.- KARMA – NGHIỆP QUẢ 

Tôi có lần nghe các thiền sư dạy rằng, sự tu tập thiền quán hàng ngày có thể chuyển được những nghiệp quả xấu của mình thành những nghiệp quả tốt. Tôi luôn xem lời tuyên bố ấy như là một lời quảng cáo rất kỳ quặc. Và phải mất nhiều năm trời, tôi mới thật sự hiểu được lời nói ấy. Chắc có lẽ nghiệp của tôi là vậy! 

Nghiệp quả, Karma có nghĩa là cái này xảy ra vì cái kia xảy ra. B có một liên hệ nào đó đối với A. Bất cứ một hậu quả nào cũng có nguyên do đi trước. Và mỗi nguyên do sẽ gây nên một hậu quả có một kích thước tương xứng với nó, ít nhất là ở trình độ phi lượng tử (non-quantum). Nói chung khi ta nói về nghiệp quả của một người nào đó, nó có nghĩa là tổng số của đường hướng sống của họ, cùng với những yếu tố quan trọng xảy ra chung quanh, gây nên bởi những điều kiện sẵn có như hành động, ý nghĩ, cảm xúc, cảm nhận và lòng ham muốn. Nhiều khi người ta lại hay lầm lẫn nghiệp quả với ý niệm về số mạng. Nghiệp quả giống như sự huân tập của một số xu hướng, chúng giam cầm ta trong một số thói quen nhất định nào đó, và các thói quen này lại tiếp tay vào việc làm tăng gia sự huân tập của những xu hướng ấy. Thế nên, rất dễ cho ta bị kềm hãm bởi nghiệp quả của mình, và ta cho rằng nguyên nhân là do ở một cái gì đó bên ngoài như vì người khác, hoặc vì hoàn cảnh ngoài tầm kiểm soát của ta. Ta không bao giờ chịu nhận là do nơi mình. Nhưng chúng ta đâu cần phải làm tù nhân của những nghiệp quả xưa! Vì nghiệp quả có thể thay đổi được. Ta lúc nào cũng có thể tạo nên những nghiệp quả mới. Nhưng chỉ có một thời gian duy nhất để bạn có thể thực hiện được việc đó mà thôi. Bạn có thể đoán được thời gian đó là khi nào không? 

Chánh niệm có thể thay đổi được nghiệp quả. Khi ta ngồi yên, ta không cho phép những ý nghĩ của mình biến đổi trở thành hành động. Trong giây phút ấy, ta chỉ theo dõi chúng mà thôi. Nếu quan sát ta sẽ thấy rằng, những ý nghĩ thúc đẩy trong tâm ta sinh ra rồi sẽ diệt đi, chúng có một sự sống riêng, chúng không phải là ta mà chỉ là tư tưởng, và ta không phải chịu sự sai xử của chúng. Khi ta không còn cung cấp và phản ứng theo những sự thúc đẩy ấy, mình sẽ có cơ hội thấy được trực tiếp rằng tự tánh của chúng chỉ là tư tưởng. Quá trình này sẽ thiêu hủy hết những ý nghĩ tiêu cực bằng ngọn lửa định lực, an tĩnh và vô hành. Và cùng một lúc ấy, những tuệ giác và tư tưởng tích cực sẽ được nuôi dưỡng và bảo vệ bằng chánh niệm. Chánh niệm vì thế có thể sắp xếp lại những mắt xích trong sợi dây nhân quả, và từ đó có thể cởi trói ta, giải thoát ta, và mở ra những đường hướng mới trong mỗi giây phút của cuộc sống. Thiếu chánh niệm, chúng ta sẽ dễ dàng bị đà tiến của quá khứ xô đẩy vào hiện tại, không hề ý thức được sự dính mắc của mình,và không có một lối thoát. Ta cho rằng những khổ đau của mình đều do lỗi lầm của kẻ khác, hoặc của cuộc đời, và vì thế mà quan điểm và cảm thọ của ta bao giờ cũng hợp lý. Và giây phút hiện tại không bao giờ có thể là một sự bắt đầu mới, vì ta không cho phép! 

Cuối cùng, chính sự thất niệm của ta đã giam cầm ta. Chúng ta mỗi lúc càng cách xa những tiềm năng chân thật của mình, và mỗi lúc lại càng bồi đắp thêm cho tập quán trọn đời là “vô minh” ấy, không nhìn thấy, chỉ biết phản ứng và trách móc mà thôi. 

Làm việc với những tội phạm trong các nhàn tù, tôi được dịp chứng kiến những hậu quả của các nghiệp “xấu” rất rõ. Mặc dù trong nhà tù cũng chẳng khác gì với bên ngoài bao nhiêu. Mỗi tù nhân đều có một câu truyện, mà bao giờ cũng là cái này dẫn đến cái kia. Mà truyện thì bao giờ cũng phải vậy! Cái này dẫn tới cái kia. Nhiều người vẫn không hiểu được việc gì đã xảy đến với họ, họ đã lầm lỡ chỗ nào! Thường thường đó là một chuỗi biến có rất dài, bắt đầu từ cha mẹ và gia đinh, rồi đến luật đường phố, nghèo khó và bạo động, tin vào người mà ta không nên tin, muốn kiếm tiến mau, uống rượu, hút ma túy để trốn tránh khổ đau, sự trống vắng… Chúng làm mờ mịt và sai lạc tư tưởng của họ, cũng như cảm giác, hành động và giá trị, từ đó họ không còn nhận thức được những ý nghĩ nào là khổ đau, tàn ác, tiêu cực và tự huỷ hoại mình. 

Và rồi trong một giây phút, đã được dẫn tới bởi những giây phút trước đó, họ đột nhiên “không còn biết gì hết”, phạm vào một tội lớn, để rồi kinh nghiệm biết bao là những hậu quả ảnh hưởng đến tương lai của mình. Bất cứ việc làm nào của ta cũng mang đến hậu quả, cho dù ta có ý thức được hay không, cho dù ta có bị bắt gặp hay không. Thật ra lúc nào ta cũng bị bắt. Bị bắt bởi nghiệp quả của chính mình. Chúng ta tự xây dựng nhà tù cho mình mỗi ngày. Ta có thể nói rằng, những người tôi gặp trong tù, họ đã tự chọn cho mình con đường ấy. Và chúng ta cũng có thể nói rằng, họ đã không có một sự lựa chọn nào khác hơn. Họ không hề ý thức rằng họ có được một sự chọn lựa. Những sự kiện ấy trong đạo Phật gọi là thiếu chánh niệm, hay là vô minh. chính vì ta thiếu chánh niệm nên không ý thức được rằng, những ý nghĩ của mình, nhất là khi chúng bị nhuốm màu sắc tham lam và sân hận, dù cho chánh đáng đến đâu, cũng có thể làm sai lệch tâm ta cũng như cuộc đời ta. Những trạng thái tâm thức ấy sẽ ảnh hưởng đến tất cả mọi người, đôi khi to tát mạnh mẽ, nhưng thường khi rất tinh tế. Chúng ta có thể đang bị giam cầm bởi một tâm thức bị những mây mù của ý kiến và khái niệm che phủ, mà ta lại bám chặt vào chúng như là chân lý. 

Muốn thay đổi nghiệp quả của mình, ta cần phải thôi để làm cho những gì làm mờ mịt thân tâm, cũng như tô màu mọi hành động của mình, đừng xảy ra nữa. Việc ấy không có nghĩa là ta phải làm những việc tốt. Nó có nghĩa là ta biết được mình là ai và ta không phải là nghiệp quả của mình, dù đó có là gì chăng nữa trong giây phút này. Nó cũng có nghĩa là ta ý thức được những gì thật sự xảy ra. Có nghĩa là thấy rõ được thực tại. 

Chúng ta nên bắt đầu nơi nào? Sao bạn không chọn nơi tâm mình? Vì dù sao chính nơi đó là môi trường của mọi tư tưởng, cảm thọ, sự thúc đẩy và tri giác của ta được chuyển sang hành động trong cuộc đời. Mỗi khi bạn ngưng lại những hành động của mình và thực tập dừng lại, ngay trong giây phút này và ở đây, với một ý định ngồi xuống, là ta đã bẻ gẫy được dòng luân lưu của nghiệp quả cũ, và từ đó ta tạo nên một nghiệp quả mới lành mạnh hơn. Gốc rễ của sự chuyển hóa nằm ngay nơi đó, một khúc quanh quan trọng trong cuộc đời. 

Chính hành động dừng lại ấy, giây phút của sự vô hành, của một sự quan sát thuần túy, giúp cho bước chân ta đứng thật vững vàng đối với tương lai. Vì sao? Vì chỉ khi nào ta thật sự có mặt trọn vẹn trong hiện tai, thì tương lai của ta mới có thể được trong sáng, rõ ràng và từ ái, và nó cũng bớt bị chi phối bởi sự sợ hãi, đau đớn, cũng như có thêm nhân phẩm và sự chấp nhận. Chỉ có những gì xảy ra trong bây giờ mới sẽ xảy ra sau này. Nếu bây giờ ta không có chánh niệm, tĩnh lặng và từ ái, khi ta đang có cơ hội tốt để bồi dưỡng, thì làm sao ta lại có thể có được chúng, khi ta bị căng thẳng hoặc gặp những khó khăn? 

Ý nghĩ rằng linh hồn ta sẽ hòa nhập với niềm hạnh phúc lớn chỉ vì cơ thể ta tan rã là một ảo vọng. Những gì ta tìm thấy bây giờ, ta sẽ tìm thấy trong lúc ấy. — Kabir 

14.- TẤT CẢ LÀ MỘT 

Khi chúng ta tiếp xúc được với sự nguyên vẹn, ta sẽ cảm thấy mình là một với tất cả. Khi ta cảm thấy mình là một với tất cả, ta sẽ cảm thấy nguyên vẹn. 

Khi ta ngồi hoặc nằm yên, bất cứ lúc nào ta cũng có thể tiếp xúc và siêu vượt được thân thể này, hòa nhập với hơi thở và vũ trụ, kinh nghiệm được mình trọn vẹn và có thể nhập vào một cái nguyện vẹn khác to lớn hơn. Nếm được tính chất tuơng quan chặt chẻ của mọi vật với nhau, sẽ đem lại cho ta một ý thức sâu xa về tính lệ thuộc, một cảm nhận ta là một phần rất thân thiết với tất cả và thấy được nơi đâu ta đến cũng là nhà. Chúng ta có thể sẽ tìm thấy và bỡ ngỡ trước thời gian vô tận ngàn đời vượt ra ngoài sanh tử, và cùng một lúc kinh nghiệm được tính chất ngắn ngủi của cuộc đời, sự mong manh của tấm thân này, giây phút này và của mỗi người chúng ta. Khi ta tiếp xúc được với sự nguyên vẹn của mình trực tiếp qua thiền tập, ta có thể chấp nhận được thực tại chung quanh, có được một sự hiểu biết và tình thương sâu sắc, và bớt đi những nỗi thống khổ và lo âu hơn. 

Sự nguyện vẹn là nguồn gốc của tất cả. Khi nhận thức được tự tánh nguyên vẹn của mình rồi, ta sẽ thấy rằng mình không cần phải đi đâu hoặc làm gì cả. Ta hoàn toàn có tự do để chọn con đường nào của mình. Sự tĩnh lặng luôn luôn có mặt trong hành động cũng như sự vô hành của ta. Chúng ta thấy nó lúc nào cũng nằm nơi đây, và mỗi khi ta tiếp xúc với nó, nếm được nó, lắng nghe nó, thì thân ta cũng sẽ tiếp xúc, cùng nếm và lắng nghe với ta. Tâm ta cũng sẽ lắng nghe và giây phút ấy ta biết được thế nào là an lạc. Trong sự cởi mở và tiếp nhận ấy, ta tìm thấy được một sự quân bình và hòa hợp đang hiện diện ngay ở đây, và thời gian vô tận đang hiển lộ trong giây phút hiện tại. 

Siddhartha lắng nghe. Chàng bắt đầu chú tâm lắng nghe, miệt mài trong thinh lặng, hoàn toàn hấp thụ, tiếp nhận tất cả. Chàng cảm thấy rằng, mình bây giờ đã thật sự học được nghệ thuật lắng nghe. Những âm thanh này, chàng đã nghe chúng nhiều lần trong quá khứ, những giọng nói khác nhau của dòng sông, nhưng hôm nay chúng có vẻ khác biệt. Chàng không còn phân biệt đuợc những giọng nói khác nhau nữa – tiếng vui ca với tiếng than thở, tiếng trẻ thơ với tiếng trưởng thanh. Tất cả đều lệ thuộc vào nhau: tiếng than vãn của những ai sầu khổ, tiếng cười vang của bậc minh triết, tiếng khóc la của kẻ phẫn uất, tiếng rên rĩ của người đang hấp hối. Tất cả đều nương tựa vào nhau, quấn quýt, đan dệt vào nhau trong ngàn đường lối. Và tấ cả những giọng nói, những mục đích, những lạc thú, những cái tốt đẹp và xấu xa, tất cả những cái đó nhập lại thành thế giới này. Chúng là dòng biến cố, là âm nhạc của sự sống. Khi Siddhartha miệt mài lắng nghe dòng sông, theo bài ca của muôn ngàn tiếng hát, khi chàng không chỉ lắng nghe theo tiếng khóc hay tiếng cười, khi chàng không chỉ lắng nghe một âm thanh duy nhất nào, nhưng là lắng nghe hết tất cả, trọn vẹn, đồng nhất, khi ấy bài ca của ngàn giọng hát chỉ gồm có mỗi một chữ mà thôi. — Herman Hesse, “Siddhartha”. 

Ðiều ta cần biết học lại, là quan sát và tự mình khám phá, cái ý nghĩa của sự nguyên vẹn. —
David Bohm, “Wholeness and the Implicate Order”. 

Tôi rộng lớn. Tôi chứa đựng hết tất cả. — Walt Whitman, “Leaves of Grass”. 

15.- TỰ TÍNH CỦA MỖI VẬT 

Sự nguyên vẹn không thể nào kinh nghiệm một cách chuyên chế được, vì nó đa dạng vô cùng, nó phản chiếu và tàng chứa hết tất cả. Như chiếc màn của trời Ðế Thích là một biểu tượng cho vũ trụ này. Chiếc màn ấy làm bằng trân châu, mỗi hạt châu lại phản chiếu và tàng chứa hết tất cả những hạt châu khác trong tấm màn. Có người muốn chúng ta phải tôn kính, thật đồng đều, trước bàn thờ của sự duy nhất. Họ xử dụng ý niệm đồng nhất như một chiếc xe hủ lô cán dẹp hết tất cả những sự khác nhau của mọi vật. Nhưng chính từ những tính chất đặc biệt của cái này và cái kia, từ những thuộc tính cá biệt của chúng – trong đạo Phật, ta gọi đó là tự tính của mỗi vật – mà tất cả là nền văn hóa, thơ phú, nghệ thuật, khoa học và sự sống, sự nhiệm mầu cũng như sự phong phú, có thể hiện hữu. 

Tất cả mọi khuôn mặt đều giống nhau, nhưng dù vậy ta vẫn có thể nhận diện dễ dàng tính chất duy nhất, cá biệt của mỗi cá nhân. Và chúng ta cũng rất quý trọng sự khác biệt này. Ðại dương là một cá thể nguyên vẹn, nhưng nó có vô số những con sông nhỏ, mỗi mỗi đều khác nhau; nó có những dòng nước, độc lập, luôn luôn thay đổi; đáy biển là một phong cảnh riêng biệt không nơi nào giống nơi nào; và bờ biển cũng thế. Bầu khí quyển này là nguyên vẹn, nhưng nó có những dòng lưu chuyển rất đặc biệt, mặc dù chúng ta chỉ cảm thấy chúng như là những làn gió. Sự sống trên quả đất này là nguyên vẹn, nhưng nó được biểu hiện trong những cơ thể giới hạn bởi thời gian và không gian, nhỏ vi tế hoặc hiển lộ, cây cỏ hoặc cầm thú, đã tuyệt chủng hoặc vẫn còn sinh tồn. Vì vậy không có một nơi nào là duy nhất. Sẽ không một đường lối nào là duy nhất, sự tu tập nào là duy nhất, phương pháp học nào là duy nhất, cách thương yêu nào là duy nhất, đường lối phát triển nào là duy nhất, cách sống nào là duy nhất, cách cảm nhận nào là duy nhất, cũng như một cái biết nào là duy nhất. Chính sự cá biệt ấy, ta gọi là tự tính của sự vật, mới là quan trọng. 

Con chim bạc má, 
Nhảy nhót lại kề bên tôi. — Thoreau 

Người đàn ông đang hái củ cải 
chỉ đường 
bằng một củ cải — Issa 

Ao cổ 
Cóc nhảy vào 
Tỏm! — Basho 

Nửa đêm. Không sóng, 
không gió, chiếc thuyền không 
chở đầy ánh trăng. — Ðạo Nguyên 

Chắc bạn đã hiểu rồi chứ gì? 

-ooOoo-

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app