[16]
NIDHIKAṆḌAGĀTHĀ
KỆ TỤNG VỀ SỰ CHÔN CỦA ĐỂ DÀNH
Nidhiṃ nidheti puriso.
Người hằng chôn của để dành.
Gambhīre udakantike.
Trong nơi sâu thẳm, cuối cùng gần chí nước.
Atthe kicce samuppanne,
Atthāya me bhavissati.
Do nghĩ rằng: Khi hữu sự cần dùng, của ấy sẽ có điều lợi ích đến ta.
Rājato vā duruttassa.
Hoặc khi bị đức vua gia hình.
Corato pīḷitassa vā.
Hay kẻ cướp làm hại, ta có của ấy để chuộc tội mình.
Iṇassa vā pamokkhāya.
Hoặc để trả nợ.
Dubbhikkhe āpadāsu vā.
Hoặc để ngăn ngừa trong cơn đói kém.
Etadatthāya lokasmiṃ,
Nidhi nāma nidhiyyati.
Gọi là của chôn để dành có điều lợi ích trong thế gian, như vậy.
Tāvassu nihito santo,
Gambhīre udakantike.
Dẫu thế, của chôn chắc chắn trong nơi sâu thẳm cuối cùng gần chí nước.
Na sabbo sabbadāyeva,
Tassa taṃ upakappati.
Tất cả của chôn đó không sao thành tựu luôn khi đến người.
Nidhi vā ṭhānā cavati.
Của chôn lìa khỏi chỗ cũng có.
Saññā vāssa vimuyhati.
Tài chủ quên hẳn cũng có.
Nāgā vā apanāmenti.
Các loại rồng dời đem giấu cũng có.
Yakkhā vāpi haranti naṃ.
Lại, các Dạ-Xoa mang của chôn ấy đi cũng có.
Appiyā vāpi dāyādā,
Uddharanti apassato.
Kẻ thọ di sãn không thương mến, đào lấy trộm của chôn ấy cũng có.
Yadā puññakkhayo hoti.
Ta hết phước trong khi nào.
Sabbametaṃ vinassati.
Những của chôn đó tiêu mất cũng có.
Yassa dānena sīlena,
Saññamena damena,
Ca nidhi sunihito hoti,
Itthiyā purisassa vā.
Của chôn, tức người nữ hay nam nào được chôn giấu chân chánh, do sự bố thí, trì giới, chế ngự hoặc tự hóa.
Cetiyamhi ca saṅghe vā,
Puggale atithisu vā,
Mātari pitari vāpi.
Trong Bảo Tháp hay trong Tăng Lữ, trong người hoặc trong khách khứa, hoặc trong mẹ cha.
Atho jeṭṭhamhi bhātari.
Hoặc trong anh em trưởng tử.
Eso nidhi sunihito.
Của chôn ấy gọi là của chôn chân chánh.
Ajeyyo anugāmiyo.
Ai ai không thể thắng đoạt được, là của chôn dính theo mình.
Pahāya gamanīyesu.
Khi ta phải bỏ tất cả của cải rồi đi.
Etaṃ ādāye gacchati.
Ta hằng cầm lấy của chôn tức là phước ấy theo.
Asādhāraṇamaññesaṃ,
Acoraharaṇo nidhi.
Của chôn tức là phước, không phổ thông đến mọi người, là cái mà kẻ cướp đoạt không được.
Kayirātha dhīro puññāni,
Yo nidhi anugāmiko.
Của chôn tức là phước nào dính theo mình được, bậc Trí tuệ nên tạo các phước, tức là của chôn dính theo mình đó.
Esa devamanussānaṃ,
Sabbakāmadado nidhi.
Của chôn tức là phước ấy, hằng cho thành tựu như mong muốn đến Chư Thiên và nhơn loại.
Yaṃ yaṃ devābhipatthenti,
Sabbametena labbhati.
Chư Thiên và nhơn loại mong quả báo nào họ sẽ được quả đó, do của chôn tức là việc phước.
Suvaṇṇatā susaratā,
Susaṇṭhānaṃ surūpatā.
Trạng-thái người có màu da mịn màng, trạng thái người có tiếng nói du dương, trạng thái người có tướng mạo đoan trang, trạng thái người có sắc đẹp.
Ādhipaccaṃ parivāro.
Địa vị bậc thủ lãnh, có thuộc hạ.
Sabbametena labbhati.
Chư Thiên và nhơn loại hằng được tất cả của ấy, do của chôn tức là việc phước.
Padesarajjaṃ issariyaṃ.
Địa vị tước Vương trong nước,
Địa vị chủ quyền.
Cakkavattisukhaṃ piyaṃ.
Sự yên vui của đức Chuyển-Luân Vương là nơi yêu quý.
Devarajjampi dibbesu.
Địa vị Thiên Vương trong các Thiên bộ.
Sabbametena labbhati.
Chư Thiên cùng nhơn loại hằng được tất cả quả ấy, do của chôn tức là việc phước.
Manussikā ca sampatti.
Hạnh phúc nhơn loại.
Devaloke ca yā rati.
Sự vui sướng trong cõi Trời.
Yā ca nibbānasampatti.
Sự đắc quả Niết-bàn.
Sabbametena labbhati.
Chư Thiên và nhơn loại hằng được thành tựu tất cả quả đó, do của chôn tức là việc phước.
Mittasampadamāgamma-
Yoniso ce payuñjato,
Vajjāvimuttivasībhāvo.
Trạng thái thuần thục trong sự Giác ngộ và sự giải thoát của hành giả, dù là bầu bạn có sự nương tựa đầy đủ và có phương tiện chân chánh.
Sabbametena labbhati.
Chư Thiên và nhơn loại được hưởng tất cả quả hài lòng đó, do của chôn tức là việc phước.
Paṭisambhidā vimokkhā ca,
Yā ca sāvakapāramī,
Paccekabodhibuddhabhūmi.
Bốn tuệ phân tích và sự giải thoát, sự giác ngộ hoàn toàn của hàng Thinh-Văn, bậc Độc-Giác, và đấng Toàn-Giác.
Sabbametena labbhati.
Chư Thiên và nhơn loại hằng được tất cả quả hài lòng ấy, do của chôn tức là việc phước.
Evaṃ mahatthikā esā,
Yadidaṃ puññasampadā
Quả phúc viên mãn tức là đạo đức đầy đủ; Quả phúc viên mãn ấy, có lợi ích to lớn như thế.
Tasmā dhīrā pasaṃsanti,
Paṇḍitā katapuññatanti.
Cho nên bậc có Trí tuệ mới ca tụng trạng thái người đã tạo phước để dành rồi, như vậy.
-ooOoo-