Ngăn ác-nghiệp không cho quả tái-sinh
* Có phương cách nào ngăn ác-nghiệp không cho quả tái-sinh kiếp sau được hay không?
Ác-nghiệp hay bất-thiện-nghiệp (akusalakam-ma) đó là tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm (12 ác-tâm) tạo 10 ác-nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý làm cho khổ tâm, khổ thân trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.
Ác-nghiệp có 3 loại:
1- Ác-nghiệp tà-kiến cố-định (niyatamicchā-diṭṭhikamma) có 3 loại tà-kiến cố-định.
– Natthikadiṭṭhi: Vô-quả tà-kiến.
– Ahetukadiṭṭhi: Vô-nhân tà-kiến.
– Akiriyādiṭṭhi: Vô-hành tà-kiến.
Nếu người nào có loại ác-nghiệp tà-kiến cố-định này là người ấy hoàn toàn không tin nghiệp và quả của nghiệp, nhưng sự thật người ấy đã tạo ác-nghiệp tà-kiến cố-định, thì sau khi người ấy chết chắc chắn ác-nghiệp tà-kiến cố-định này cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi đại-địa-ngục Avīci chịu quả khổ lâu dài không hạn định.
Tuy nhiên, nếu người nào có ác-nghiệp tà-kiến cố-định ấy, có duyên lành gặp bậc thiện-trí, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, người ấy phát sinh đức-tin nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, rồi từ bỏ được tà-kiến cố-định ấy, trở thành người có chánh-kiến sở-nghiệp của mình (kammassakatā sammādiṭṭhi), thì người ấy có thể tạo mọi thiện-nghiệp theo khả năng của mình
2- Ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội (ānantariya-kamma) có 5 loại:
– Ác-nghiệp trọng-tội giết cha.
– Ác-nghiệp trọng-tội giết mẹ.
– Ác-nghiệp trọng-tội giết bậc Thánh A-ra-hán.
– Ác-nghiệp trọng-tội làm bầm máu ngón chân của Đức-Phật.
– Ác-nghiệp trọng-tội chia rẽ chư tỳ-khưu-Tăng.
Người nào đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội nào rồi thì vô phương giải cứu, sau khi người ấy chết, chắc chắn ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục mà không có nghiệp nào có thể ngăn cản được, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy suốt nhiều đại-kiếp trái đất, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi ác-giới.
Nếu người nào đã tạo hai loại ác-nghiệp trọng-tội này thì sau khi người ấy chết, chắc chắn chỉ có ác-nghiệp ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, phải chịu quả khổ của ác-nghiệp trong cõi đại-địa-ngục ấy mà thôi.
Tuy nhiên, người nào đã tạo ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội nào rồi, sau đó người ấy biết ăn năn sám hối tội lỗi của mình, có duyên lành đến hầu đảnh lễ Ngài Trưởng-lão, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới, rồi nguyện tránh xa mọi ác-nghiệp do thân, khẩu, ý, giữ gìn ngũ-giới trong sạch trọn vẹn, cố gắng tinh-tấn chỉ tạo mọi phước-thiện thuộc về dục-giới thiện-nghiệp mà thôi, chắc chắn không thể tạo sắc-giới thiện-nghiệp, vô-sắc-giới thiện-nghiệp và siêu-tam-giới thiện-nghiệp được, bởi vì ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy ngăn cản.
Sau khi người ấy chết, đáng lẽ ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, nhưng nhờ dục-giới thiện-nghiệp quy-y Tam-bảo và giữ gìn ngũ-giới trong sạch trọn vẹn và tạo mọi phước-thiện khác có năng lực làm giảm tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián-trọng-tội ấy, nên cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục, chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy trong khoảng thời gian không lâu như trong cõi đại-địa-ngục Avīci.
3- Ác-nghiệp loại thường thuộc về ác-nghiệp bất-định, nếu ác-nghiệp nào có cơ hội thì ác-nghiệp ấy cho quả khổ trong kiếp hiện-tại và những kiếp vị-lai.
Nếu người nào đã tạo ác-nghiệp loại thường này rồi thì người ấy tìm phương cách ngăn cản ác-nghiệp ấy không có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau được hay không?
Ngoại trừ hai loại ác-nghiệp trọng-tội ấy ra, trước kia, người nào đã gần gũi thân cận với bạn ác nên đã lỡ phạm các điều-giới nào trong ngũ-giới, đã tạo các loại ác-nghiệp loại thường. Sau đó, nếu người ấy phát sinh tâm hối hận tự làm khổ tâm như vậy thì ác-nghiệp ấy lại càng tăng trưởng, đó là điều bất lợi, bởi vì ác-nghiệp ấy dễ có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới thật sự.
Thật ra, người ấy có nhiều phương cách ngăn cản ác-nghiệp ấy không cho có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau như sau:
– Người ấy xa lánh mọi người ác, nên thường gần gũi thân cận với bậc thiện-trí trong Phật-giáo, lắng nghe chánh-pháp của Đức-Phật, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, kính xin bậc thiện-trí hướng dẫn thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới. Người ấy trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã quy-y Tam-bảo đến trọn đời.
Từ đó về sau, người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ ấy có đại-thiện-tâm biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết tự trọng, nguyện tránh xa mọi ác-nghiệp, giữ gìn ngũ-giới cho được trong sạch và trọn vẹn, đó là điều rất dễ dàng trong khả năng bình thường của mình, nên có được 5 quả-báu của người có giới.
Trong 5 quả báu của người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn có quả-báu điều thứ tư và điều thứ năm là:
– Người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn lúc lâm chung có đại-thiện-tâm tỉnh táo sáng suốt.
– Sau khi người có giới, người giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn chết, đại-thiện-nghiệp giữ giới cho quả tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới.
* Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên cố gắng tinh-tấn tạo mọi phước-thiện như bố-thí tùy theo khả năng của mình, nếu có khả năng thì nên thọ-trì bát-giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, nương nhờ giới trong sạch và trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ. Hằng ngày, đêm nên dành thời giờ thực-hành pháp-hành thiền-định với đề-mục thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, tạo đại-thiện-nghiệp thường hành thiền (āciṇṇakusalakamma) trở thành thói quen hằng ngày.
Cho nên, người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ đã tạo đại-thiện-nghiệp nào hằng ngày đêm trở thành thường-hành đại-thiện-nghiệp (āciṇṇa-kusalakamma) trong thời hiện-tại, đến lúc lâm chung, có đại-thiện-tâm ấy phát sinh làm cho tâm tỉnh táo, sau khi người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ ấy chết, đại-thiện-nghiệp ấy trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi thiện-dục-giới ấy.
* Nếu người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nào thuộc về hạng người tam-nhân là hành-giả có giới trong sạch và trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ, thực-hành pháp-hành thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào, sau khi hành-giả chết, chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp bậc cao cuối cùng trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền sắc-giới quả-tâm ấy gọi là sắc-giới tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp kế-tiếp hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng với bậc thiền sắc-giới quả-tâm ấy, vị phạm-thiên hưởng sự an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy.
* Nếu hành-giả ấy thuộc về hạng người tam-nhân có giới trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ, thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả, Niết-bàn, diệt tận được hai loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā), trở thành bậc Thánh Nhập-lưu.
Sau khi bậc Thánh Nhập-lưu chết, chắc chắn vĩnh viễn không còn tái-sinh kiếp sau trong cõi ác-giới nào nữa, chỉ có đại-thiện-nghiệp trong đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi.
Đến kiếp thứ 7, bậc Thánh Nhập-lưu ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, đồng thời tất cả mọi ác-nghiệp và mọi đại-thiện-nghiệp đã được tích lũy, lưu trữ ở trong tâm từ vô thủy trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tất cả mọi nghiệp ấy đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa, bởi vì không còn tái-sinh kiếp sau.
Trước kia, nếu người nào gần gũi với các bạn ác, nên đã tạo mọi ác-nghiệp loại thường.
Ví dụ như Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla, trước kia, Ngài là tên cướp sát nhân giết trên ngàn người, cắt đầu ngón tay trỏ, xâu làm vòng đeo cổ, nên có biệt danh là Aṅgulimāla ở trong rừng sâu.
Một hôm, Đức-Phật một mình ngự vào rừng, để tế độ tên cướp sát nhân Aṅgulimāla. Khi nhìn thấy Đức-Phật ngự đi khoan thai bằng phép thần-thông, tên cướp sát nhân Aṅgulimāla cầm gươm chạy hết tốc lực đuổi theo giết Đức-Phật suốt ba do-tuần mà không kịp, vì quá đuối sức nên đành phải dừng lại, rồi gọi lớn rằng:
– Này Sa-môn! Hãy dừng lại!
Khi ấy, Đức-Phật vẫn ngự đi tự nhiên mà truyền dạy vọng lại rằng:
– Này Aṅgulimāla! Như-lai đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có con mới chưa dừng lại mà thôi.
Nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, tên cướp sát nhân Aṅgulimāla vô cùng ngạc nhiên nghĩ rằng: “Sa-môn dòng Sakya thường làm như thế nào thì nói như thế ấy; nói như thế nào thì làm như thế ấy.”
Trong trường hợp này, Sa-môn này vẫn bước đi mà lại nói rằng: “Như-lai đã dừng lại từ lâu rồi” còn ta đã dừng lại rồi mà Sa-môn này lại nói rằng: “Chỉ có con mới chưa dừng lại mà thôi.”
Ta nên hỏi cho biết rõ ý nghĩa.
– Kính bạch Ngài Sa-môn! Ngài đang đi mà lại nói rằng: “Như-lai đã dừng lại từ lâu rồi” còn tôi đã dừng lại rồi sao Ngài lại nói rằng:
“Chỉ có con mới chưa dừng lại mà thôi.”
Ngài nói như vậy có ý nghĩa như thế nào? Kính bạch Ngài, xin Ngài giảng giải cho tôi hiểu rõ ý nghĩa.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
– Này Aṅgulimāla! “Như-lai đã dừng lại từ lâu rồi” có nghĩa là Như-lai đã từ bỏ sự giết hại chúng-sinh từ lâu rồi. “Chỉ có con mới chưa dừng lại mà thôi” có nghĩa là con chưa từ bỏ sự giết hại sinh-mạng của chúng-sinh.
Sau khi nghe Đức-Phật giảng giải như vậy, tên cướp sát nhân Aṅgulimāla liền thức tỉnh ngay, biết rõ Ngài Sa-môn ấy chính là Đức-Thế-Tôn, nên ném vũ khí xuống hố sâu, đi đến hầu cung-kính đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Đức-Phật, rồi kính bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài là Bậc Tôn-Sư của chư-thiên, chư phạm-thiên, nhân-loại, Đức-Thế-Tôn có tâm đại-bi ngự đến khu rừng này để tế độ con thoát khỏi si-mê lầm lạc, được thức tỉnh trở lại.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kể từ nay về sau, con xin nguyện từ bỏ mọi ác-nghiệp. Kính xin Ngài chứng minh lòng chân thành sám hối tội-lỗi của con.
Sau đó, Aṅgulimāla quỳ đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Đức-Phật, kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.
Đức-Phật có Phật-nhãn thấy rõ, biết rõ phước-thiện của Aṅgulimāla có thể phát sinh 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu, nên Đức-Phật đưa bàn tay phải ra, chỉ bằng ngón tay trỏ bèn truyền dạy rằng: “Ehi bhikkhu! …”
– Này Aṅgulimāla! Con hãy trở thành tỳ-khưu như ý nguyện, Pháp mà Như-lai đã thuyết dạy hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên thực-hành phạm-hạnh cao thượng, để giải thoát khổ hoàn toàn.”
Sau khi Đức-Phật vừa truyền dạy dứt lời xong, Aṅgulimāla trở thành tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu phát sinh như thần-thông, tỳ-khưu Aṅgulimāla có tăng tướng trang nghiêm như vị Trưởng-lão có 60 tuổi hạ.
Đức-Thế-Tôn ngự trở về ngôi chùa Jetavana có tỳ-khưu Aṅgulimāla theo sau.
Về sau không lâu, tỳ-khưu Aṅgulimāla sống một mình nơi thanh vắng, tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama. Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla vô cùng hoan-hỷ thốt lên câu kệ rằng:
“Yo ca pubbe pamajjitvā,
pacchā so nappamajjati.
So’maṃ lokaṃ pabhāseti,
abbhā muttova candimā.
Người nào trước dể duôi thất niệm.
Sau, người ấy không dể duôi thất niệm.
Thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ.
Hành-giả làm xán lạn cuộc đời mình.
Như vầng trăng thoát ra khỏi đám mây.
Khi Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, đồng thời tất cả mọi ác-nghiệp và mọi đại-thiện-nghiệp đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa, bởi vì bậc Thánh A-ra-hán không còn tái-sinh kiếp sau nữa.
Như vậy, trước kia, người nào đã gần gũi thân cận với người ác, đã tạo mọi ác-nghiệp loại thường rồi.
Về sau, người ấy có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện-trí, lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ngũ-giới, trở thành người cận-sự-nam hoặc cận-sự-nữ, rồi giữ gìn ngũ-giới trong sạch và trọn vẹn.
Đó là phương cách làm ngăn cản mọi ác-nghiệp ấy không cho có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau, bằng cách làm cho mọi thiện-pháp phát sinh từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp đó là Thánh-đạo-tâm như trường hợp Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla.
(Xong phần nội dung)