Nội Dung Chính
PHÁP HÀNH THIỀN ĐỊNH QUYỂN 9
NGHI THỨC THỌ PHÁP HÀNH THIỀN
Lễ thọ pháp-hành-thiền là việc làm theo truyền thống từ thời-kỳ Đức-Phật cho đến nay. Khi Đức-Phật còn hiện hữu trên thế gian, chư tỳ-khưu đền hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin thọ pháp-hành thiền-định hoặc pháp-hành thiền-tuệ, rồi tìm nơi thanh vắng để thực-hành, hoặc đến xin thọ pháp-hành thiền nơi Ngài Đại-Trưởng-lão, hoặc Ngài Trưởng-lão, v.v…
Khi làm lễ thọ pháp-hành-thiền, nếu hành-giả là cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên làm lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì chánh-mạng-đệ-bát-giới (ājīvaṭṭhamakasīla) có điều-giới thứ 8 là điều-giới chánh-mạng từ Ngài Thiền-sư.
Trước khi thọ phép quy-y Tam-bảo, hành-giả nên làm lễ sám hối nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo trước sự hiện diện của Ngài Thiền-sư chứng minh, để tránh mọi sự trở ngại trong khi thực-hành pháp-hành thiền-định như sau:
1– Nghi Thức Sám Hối
Hành-giả nên thành tâm sám hối rằng:
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, xin phép Ngài Trưởng-lão, con xin thành tâm sám hối những lỗi lầm do cố ý hoặc vô ý phạm đến Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, Tam-bảo, cùng với các bậc Thầy tổ, cha mẹ,… từ trước cho đến hiện-tại này. Kể từ nay về sau, con hết sức cố gắng cẩn trọng giữ gìn không để tái phạm.
Kính xin Ngài Trưởng-lão chứng minh cho con, và nhận biết những lỗi lầm của con. Bạch Ngài.
Do tác-ý đại-thiện-tâm này, tất cả mọi điều tai hại không xảy đến với con, và nguyện vọng thực-hành pháp-hành thiền-định cho được thành tựu. (Đảnh lễ 3 lần)
Ngài Trưởng-lão Thiền-sư khuyên dạy rằng:
– Này hành-giả! Con đã nhận biết những lỗi lầm do cố ý hoặc vô ý phạm đến Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, Tam-bảo, cùng với các bậc Thầy tổ, cha mẹ,… từ trước cho đến hiện-tại này.
Sư chứng minh và nhận biết sự thành tâm sám hối những lỗi lầm của con.
Vậy, kể từ nay về sau, con phải nên cố gắng cẩn trọng giữ gìn thân, khẩu, ý tránh không để tái phạm.
Người nào đã nhận biết được lỗi lầm của mình, rồi biết sám hối, sửa chữa đúng theo pháp luật của Đức-Phật, thì người ấy chắc chắn sẽ tiến hóa trong mọi thiện-pháp trong giáo pháp của Đức-Phật.
Hành-giả bạch rằng: “ Sādhu! Sādhu! Bhante. Lành thay! Lành thay! Bạch Ngài.
2- Nghi Lễ Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Thọ-Trì Chánh-Mạng-Đệ-Bát-Giới
Hành-giả đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Thiền-sư xong, rồi hành nghi lễ theo tuần tự như sau:
* Lễ Sám Hối Tam-Bảo
– Lễ sám hối Đức-Phật-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, pādapaṃsuṃ varuttamaṃ.
Buddhe yo khaliko doso, Buddho khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ.
Bụi trần dưới bàn chân cao thượng của
Đức-Phật. Lỗi lầm nào con đã phạm đến Phật-bảo.
Cúi xin Phật-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ)
– Lễ sám hối Đức-Pháp-bảo
Uttamaṅgenavande’haṃ, Dhammañcaduvidhaṃ varaṃ.
Dhamme yo khaliko doso, Dhammo khamatu taṃ mama.
Con hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ.
Hai hạng Pháp-bảo: Pháp-học và pháp-hành.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Pháp-bảo.
Cúi xin Pháp-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ)
– Lễ sám hối Đức-Tăng-bảo
Uttamaṅgena vande’haṃ, Saṃghañca duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khaliko doso, Saṃgho khamatu taṃ mama.
Hai bậc Tăng-bảo: Phàm-Tăng và Thánh-Tăng.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến Tăng-bảo.
Cúi xin Tăng-bảo xá tội ấy cho con. (đảnh lễ)
Bài kệ cầu nguyện
Iminā puññakammena, sabbe bhayā vinassantu.
Nibbānaṃ adhigantuṃ hi, sabbadukkhā pamuccāmi.
Do nhờ năng lực thiện-tâm sám hối này.
Cầu xin mọi tai họa hãy đều tiêu diệt.
Mong chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn.
Cầu mong giải thoát mọi cảnh khổ tái-sinh.
* Lễ thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ-trì ājīvaṭṭhamakasīla
Nếu một hành-giả (số ít) thì đọc như sau:
Ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me Bhante.
Dutiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājivaṭṭhamaka-sīlaṃ dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me Bhante.
Tatiyampi, ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājivaṭṭhamaka-sīlaṃ dhammaṃ yācāmi anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha me Bhante.
* Nếu nhiều hành-giả (số nhiều) thì đọc như sau:
Mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāma anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.
Dutiyampi, mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājivaṭṭha-makasīlaṃ dhammaṃ yācāma anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.
Tatiyampi, mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭha-makasīlaṃ dhammaṃ yācāma anuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha no Bhante.
Nghĩa:
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ trì tam-quy cùng chánh-mạng đệ-bát-giới.
Kính xin Ngài Trưởng-lão có tâm hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo với thọ-trì chánh-mạng đệ-bát-giới cho chúng con). Bạch Ngài.
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ trì tam-quy cùng chánh-mạng đệ-bát-giới.
Kính xin Ngài Trưởng-lão có tâm hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo với thọ-trì chánh-mạng đệ-bát-giới cho chúng con, lần thứ nhì. Bạch Ngài.
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, chúng con xin thọ trì tam-quy cùng chánh-mạng đệ-bát-giới.
Kính xin Ngài Trưởng-lão có tâm hướng dẫn phép quy-y Tam-bảo với thọ-trì chánh-mạng đệ-bát-giới cho chúng con, lần thứ ba. Bạch Ngài.
(Hành-giả đảnh lễ 3 lần)
Ngài Trưởng-lão Thiền-sư hướng dẫn như sau:
Ths: Yamahaṃ vadāmi, taṃ vadehi. (vadetha)
(Sư hướng dẫn từng câu nào, con (các con) nên đọc theo đúng từng câu ấy.)
Hg: Āma. Bhante. (Dạ, xin vâng. Bạch Ngài)
Ths: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. (3 lần)
Thọ phép quy-y Tam-bảo
– Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật,
– Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp,
– Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng.
– Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ nhì,
– Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ nhì,
– Dutiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ nhì.
– Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Phật, lần thứ ba,
– Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Pháp, lần thứ ba,
– Tatiyampi Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính xin quy y Tăng, lần thứ ba.
Ths: Tisaraṇagamanaṃ paripuṇṇaṃ.
(Phép quy y Tam-bảo trọn vẹn bấy nhiêu)
Hg: Āma. Bhante. (Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài.)
Thọ trì ājīvaṭṭhamakasīla
1- Pāṇātipātā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự sát-sinh.
2- Adinnādānā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự trộm-cắp.
3- Kāmesumicchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự tà-dâm.
4- Musāvādā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa sự nói-dối.
5- Pisuṇavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa nói lời chia rẽ..
6- Pharusavācā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa nói lời thô tục.
7- Samphappalāpā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa nói lời vô ích.
8- Micchājīvā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi. Con xin thọ trì điều-giới, có tác-ý tránh xa cách sống Tà-mạng.
Tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā, appamādena sampādetha.
(Các con đã thọ trì phép quy-y Tam-bảo cùng với chánh-mạng đệ-bát-giới (ājīvaṭṭhamakasīla) xong, các con nên cố gắng giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng cho mọi thiện-pháp phát sinh, bằng pháp không dể duôi, thực-hành pháp-hành tứ-niệm-xứ.)
Hg: Āma, Bhante. (Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài).
Ths: Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā.
Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ visodhaye.
Chúng-sinh tái-sinh cõi trời, nhờ giữ giới,
Chúng-sinh đầy đủ của cải, nhờ giữ giới.
Chúng-sinh giải thoát Niết-bàn, nhờ giữ giới,
Vậy, các con nên giữ giới, cho trong sạch!
Hg: Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!
Sau khi đã thọ phép quy-y Tam-bảo cùng với ājīvaṭṭhamakasīla xong, tiếp theo hành-giả nên đọc 3 bài kệ khẳng định quy-y Tam-bảo rằng:
“Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me jayamaṅgalaṃ.”
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Phật-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Pháp-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
600 PHÁP-HÀNH THIỀN-ĐỊNH
Chẳng có nơi nào đáng cho con nương nhờ,
Tăng-bảo nơi nương nhờ cao thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân thật này,
Cầu mong cho con được hạnh phúc cao thượng.
Hoàn thành xong lễ thọ phép quy-y Tam-bảo cùng với thọ-trì ājīvaṭṭhamakasīla: Chánh-mạng-đệ-bát-giới.
Nhận xét về giới ājīvaṭṭhamakasīla
Hành-giả là bậc xuất gia sa-di, tỳ-khưu hoặc người tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ đều có giới-hạnh theo phạm-hạnh của mình và còn phải nghiêm chỉnh thực-hành ājīvaṭṭhamakasīla: Chánh-mạng đệ-bát-giới-này nữa, bởi vì giới này còn có tên là ādibrahmacariyakasīla: Giới-hành phạm-hạnh phần đầu.
Chánh-mạng đệ-bát-giới nghĩa là chánh-mạng là điều-giới thứ 8, giới này gồm có 8 điều-giới như sau:
1- Điều-giới có tác-ý tránh xa sự sát-sinh,
2- Điều-giới có tác-ý tránh xa sự trộm-cắp,
3- Điều-giới có tác-ý tránh xa sự tà-dâm.
Ba điều-giới này thuộc về chánh-nghiệp trong pháp-hành bát-chánh-đạo.
4- Điều-giới có tác-ý tránh xa sự nói-dối,
5- Điều-giới có tác-ý tránh xa sự nói lời chia-rẽ,
6- Điều-giới có tác-ý tránh xa sự nói lời thô-tục,
7- Điều-giới có tác-ý tránh xa sự nói lời vô-ích.
Bốn điều-giới này thuộc về chánh-ngữ trong pháp-hành bát-chánh-đạo.
8- Điều-giới có tác-ý tránh xa cách sống tà-mạng thuộc về chánh-mạng trong pháp-hành bát-chánh-đạo.
Như vậy, ājīvaṭṭhamakasīla: Chánh-mạng đệ-bát-giới hoặc ādibrahmacariyakasīla: Giới-hành phạm-hạnh phần đầu gồm có 3 chánh: Chánh-nghiệp, chánh-ngữ, chánh-mạng thuộc về phần-giới trong pháp-hành bát-chánh-đạo tam-giới.
3 chánh này đó là viraticetasika: Chế-ngự tâm-sở có 3 tâm-sở là chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở.
– Nếu viraticetasika: 3 chế-ngự tâm-sở này thuộc về lokiyaviraticetasika: 3 chế-ngự tâm-sở đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm thì 3 chế-ngự tâm-sở này thuộc về aniyata-yogīcetasika: 3 chế-ngự tâm-sở bất-định, còn thuộc về loại nānākadācicetasika: Mỗi tâm-sở này riêng rẽ đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm có mỗi đối-tượng khác nhau.
– Nếu viraticetasika: 3 chế-ngự tâm-sở này thuộc về lokuttaraviraticetasika: 3 chế-ngự tâm-sở đồng sinh với 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm thì 3 chế-ngự tâm-sở này thuộc về niyata ekatocetasika: 3 chế-ngự tâm-sở cố-định đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm có Niết-bàn là đối-tượng.
Cho nên, khi Thánh-đạo-tâm phát sinh có 36 tâm-sở đồng sinh với Thánh-đạo-tâm, trong 36 tâm-sở ấy:
– Trí-tuệ tâm-sở gọi là chánh-kiến.
– Hướng-tâm tâm-sở gọi là chánh-tư-duy.
– Chánh-ngữ tâm-sở gọi là chánh-ngữ.
– Chánh-nghiệp tâm-sở gọi là chánh-nghiệp.
– Chánh-mạng tâm-sở gọi là chánh-mạng.
– Tinh-tấn tâm-sở gọi là chánh-tinh-tấn.
– Niệm tâm-sở gọi là chánh-niệm.
– Nhất-tâm tâm-sở gọi là chánh-định.
Như vậy, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-tuệ cho đến khi Thánh-đạo-tâm phát sinh hợp đủ 8 chánh: Chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định đồng sinh với Thánh-đạo-tâm cùng có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới trong Thánh-đạo-lộ-trình-tâm. Khi ấy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng là 3 chế-ngự tâm-sở thuộc về niyata ekatocetasika: 3 chế-ngự tâm-sở cố-định cùng đồng sinh với Thánh-đạo-tâm có Niết-bàn là đối-tượng siêu-tam-giới. Nên chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng thuộc về phần-giới trong pháp-hành bát-chánh-đạo siêu-tam-giới.
Bởi vậy cho nên, hành-giả là bậc xuất-gia sa-di, tỳ-khưu và cận-sự-nam, cận-sự-nữ thực-hành pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ cũng đều phải thọ-trì ājīvaṭṭhamakasīla: Chánh-mạng đệ-bát-giới hoặc ādi-brahmacariyakasīla: Giới-hành phạm-hạnh phần-đầu giữ gìn cho được hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn để làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ được phát triển.
3- Lễ Hiến Dâng Sinh-Mạng
* Lễ Hiến Dâng Sinh Mạng Lên Đức-Phật
Hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, hoặc pháp-hành thiền-tuệ ở một mình nơi thanh vắng, phát sinh sợ hãi, hoặc các hàng phi nhân đến quấy nhiễu, hoặc các loài thú dữ có thể làm hại đến sinh-mạng của mình.
Để tránh khỏi những trở ngại cho việc thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc pháp-hành thiền-tuệ, hành-giả nên làm lễ hiến dâng sinh-mạng của mình lên Đức-Phật, trước khi thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc pháp-hành thiền-tuệ.
Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-Tịnh-Đạo hướng dẫn đọc lời hiến dâng sinh-mạng lên Đức-Phật rằng:
“Imā’haṃ Bhagavā, attabhāvaṃ tumhākaṃ pariccajāmi.” (3 lần, rồi đảnh lễ Đức-Phật.)
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con xin thành kính hiến dâng sinh-mạng của con lên Ngài.
Sau khi đã làm lễ hiến dâng sinh-mạng của mình lên Đức-Phật rồi, hành-giả nên phát sinh đức-tin trong sạch nơi Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, đó là thiện-pháp phát sinh.
Vì vậy, sinh-mạng của hành-giả được an toàn, hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc pháp-hành thiền-tuệ được thuận lợi, tiến hóa trong mọi thiện-pháp.
Đức-Phật dạy rằng:
“Dhammo have rakkhati dhammacāriṃ,…”
Thật vậy, thiện-pháp hộ trì người hành pháp.
* Lễ Hiến Dâng Sinh-Mạng Đến Thiền-Sư
Hành-giả ban đầu thực-hành pháp-hành thiền-định hoặc pháp-hành thiền-tuệ cần phải nương nhờ nơi Ngài Trưởng-lão Thiền-sư thông hiểu rành rẽ về pháp-học Phật-giáo và có đầy đủ kinh nghiệm về pháp-hành Phật-giáo, nhất là pháp-hành thiền-định và pháp-hành thiền-tuệ.
Để cho Ngài Trưởng-lão Thiền-sư tận tâm chỉ dạy tỉ mỉ các đề-mục thiền-định, để cho hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, và các đối-tượng-thiền-tuệ đó là tất cả mọi sắc-pháp, mọi danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma), để thực-hành pháp-hành-tuệ.
Cho nên, hành-giả nên làm lễ hiến dâng sinh-mạng của mình đến Ngài Trưởng-lão Thiền-sư.
Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-Tịnh-Đạo, hướng dẫn đọc lời hiến dâng sinh-mạng đến vị Thiền-sư rằng:
“Imā’haṃ Bhante, attabhāvaṃ tumhākaṃ pariccajāmi.” (3 lần, rồi đảnh lễ Ngài Trưởng-lão.)
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, con xin thành kính hiến dâng sinh-mạng của con đến Ngài.
Sau khi đã làm lễ hiến dâng sinh-mạng của mình đến Ngài Trưởng-lão Thiền-sư rồi, hành-giả là người đệ-tử dễ dạy, biết vâng lời dạy dỗ của Ngài Trưởng-lão Thiền-sư ấy, trong suốt thời gian thực-hành.
* Lễ Thọ Pháp-Hành Thiền-Định, Pháp-Hành Thiền-Tuệ
Phật-giáo gồm có 3 pháp:
– Pháp-học Phật-giáo đó là theo học Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi gồm tất cả lời giáo huấn của Đức-Phật.
– Pháp-hành Phật-giáo đó là pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ.
– Pháp-thành Phật-giáo đó là 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Để tỏ lòng tôn kính Pháp-bảo, hành-giả cần phải làm “lễ cầu pháp-hành” với Ngài Trưởng-lão Thiền-sư, nên đọc câu:
“Nibbānassa me Bhante, sacchikaraṇatthāya
samathavipassanākammaṭṭhānaṃ detha.”(3 lần, đảnh lễ)
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài có tâm từ tế độ hướng dẫn, chỉ dạy cho con pháp-hành thiền-định và pháp-hành thiền-tuệ, để cho con thực-hành hầu mong chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ sinh. Bạch Ngài.
Sau khi hành-giả làm lễ cầu pháp-hành xong, Ngài Trưởng-lão Thiền-sư tận tâm chỉ dạy về pháp-hành thiền-định và pháp-hành thiền-tuệ cho hành-giả.
* Cúng Dường Tam-Bảo Và Lời Phát Nguyện
Cúng-dường Tam-bảo là cúng-dường Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo là nơi quy-y nương nhờ đối với các hàng thanh-văn đệ-tử, để tỏ lòng tôn kính ngôi Tam-bảo, hằng ngày đêm, các hàng thanh-văn đệ-tử thường lễ bái, cúng-dường đến ngôi Tam-bảo.
Đức-Phật dạy cách cúng-dường:
– Amisapūjā: Cúng-dường bằng phẩm vật,…
– Paṭipattipūjā: Cúng-dường bằng pháp-hành: Pháp-hành giới, pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ,…
Trong 2 cách cúng-dường, Đức-Phật tán dương cách paṭipattipūjā là cao thượng hơn cả.
Để lòng tôn kính Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, hành-giả thành kính cúng-dường bằng pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ lên ngôi Tam-bảo, đọc bằng lời như sau:
– Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā
Buddhaṃ pūjemi.
Con đem hết lònh thành kính cúng-dường Đức-Phật-bảo bằng pháp-hành này.
– Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā
Dhammaṃ pūjemi.
Con đem hết lònh thành kính cúng-dường Đức-Pháp-bảo bằng pháp-hành này.
– Imāya dhammānudhammapaṭipattiyā
Saṃghaṃ pūjemi.
Con đem hết lònh thành kính cúng-dường Đức-Tăng-bảo bằng pháp-hành này.
Lời Phát Nguyện
– Addhā imāya paṭipattiyā jāti-jarā-maraṇamhā parimuccissāmi. (3 lần)
Chắc chắn, con sẽ giải thoát khỏi khổ sinh, lão, tử bằng pháp-hành-thiền này.
Như vậy, mục đích cứu cánh của hành-giả thực-hành pháp-hành thiền-định, pháp-hành thiền-tuệ cốt yếu là chứng ngộ Niết-bàn giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài.
(Xong nghi thức thọ pháp-hành-thiền.)
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)