TỲ KHƯU NI PUṆṆIKĀ
“Thân phận Candala,
Như bọ hung đội phẩn
Như dòi trong hầm xí,
Hôi hám và dơ dáy
Bị mọi người coi khinh,
Bị xã hội ruồng bỏ
Làm những việc hạ tiện,
Như nạo vét ống cống
Như chùi rửa cầu tiêu,
Giặt vật dơ, vật uế
Lau góc nhà, xó bếp,
Cạo nồi niêu, soong chảo
Đội nước và gánh phân,
Chăn dê và chăn bò
Ngủ hoang giữa chuồng trại,
Không tấm đắp, tấm nằm
Quen muỗi lằn, sâu kiến,
Quen đất cát, bụi bẩn
Nhận chửi mắng, đánh đập,
Chịu tra tấn, đòn vọt
Là sở hữu của chủ,
Muốn làm gì thì làm
Như kê chân, lót thân,
Như giải tỏa tình dục
Rao bán như món hàng,
Chọn mông và chọn vú
Chọn săn chắc, cơ bắp,
Có cả quyền giết chết
Vì chúng không phải người,
Là con heo, con chó
Là con bò, con trâu,
Là công cụ sản xuất
Là công cụ phục dịch,
Nô lệ đến suốt đời
Đổ mồ hôi, nước mắt,
Ăn cơm thừa, canh cặn
Bệnh tật và ốm đau,
Mụn nhọt và lở loét
Chết thì quăng bãi cốt,
Xương thịt lần rã hoại
Tứ đại trả tứ đại,
Chỉ còn lại hư vô
Nỗi đau và nỗi nhục,
Chỉ còn lại hư vô
Kêu than không thấu trời,
Rên rỉ không đụng đất
Thượng đế cũng ngoảnh mặt,
Vô cảm và vô tri
Bỏ mặc cháu con ngài,
Tàn ác và bất nhân
Cho trần gian tự diệt…”
Bài thơ kệ ngụ ngôn ấy – là đặc tả thân phận của hạng người bần cùng, hạ liệt, bất hạnh nhất trong xã hội Ấn Độ thời Đức Phật. Họ bị đẩy ra khỏi bốn giai cấp, được gọi là Candala, hạng tiện dân. Họ sống lúc nhúc như sâu, như dòi trong các mương cống, trong những cái chòi rách nát, tối tăm như hang cáo, ổ chuột… bao giờ cũng cách ly với các giai cấp khác. Có một số tiện dân sống nô lệ mãn đời trong các trại sản xuất đủ loại như chăn nuôi, trồng trọt; trong các gia đình ông chủ lớn, ông chủ nhỏ như thương gia, tiểu phú, đại phú, bà-la-môn, quý tộc…
Cô gái có tên là Puṇṇikā được nói lên ở đây là tiện dân, thuộc hạng người Candala ấy. Nhưng cô lại được 5 điều may mắn, diễm phúc hơn các cô gái khác cùng hạng. Một là cô có chút học hành, có kiến thức, tri thức. Hai là cô có sắc đẹp, tuy không hơn ai, nhưng mặn mà, duyên dáng, nổi bật hẳn trong chúng. Ba là cô được phước lành làm nô lệ trong đại gia tộc của trưởng giả Ānāthapiṇḍika, một cận sự nam thuần thành của Đức Phật, giàu tín tâm và lòng nhân ái. Bốn là cô có chỗ ăn chỗ ở đàng hoàng, xiêm áo đầy đủ và ăn uống không hề thiếu thốn. Năm là cô được làm thường xuyên một công việc xem ra là nhẹ nhàng nhất, ấy là việc đội nước…
Tuy nhiên, cô buồn, cô bực, cô chán, cô ghét, cô hận, cô luôn muốn bứt thoát ra khỏi gông xiềng, bẻ gãy cái lồng sắt để bước ra thế giới bên ngoài, muốn hít thở không khí trong lành và mát mẻ của tự do.
Trưởng giả Ānāthapiṇḍika đối xử rất công bằng, rất tốt đối với bọn nô bộc, nô lệ; ông còn khuyên mọi người sống hiền lành, tập giữ ngũ giới, bát quan trai giới. Ai mà làm được thế, ông thưởng bằng nụ cười nhân hậu cùng với gạo tiền, vải vóc, mùng mền, xiêm áo… Ông thấy ai giỏi dang, chất phác, thuần hậu, chăm công, chăm việc trong một thời gian nào đó, ông sẵn sàng xóa bỏ đời sống nô lệ, muốn đi xuất gia theo Phật hay lập gia đình, cũng được, ông sẵn sàng tạo cho công ăn việc làm như một con người tự do!
Puṇṇikā biết vậy nên cô luôn luôn cố gắng chăm chuyên, cần mẫn trong công việc đội nước và cô còn tự ý làm cả những việc ngoài bổn phận của mình. Giỏi dang thế nhưng dường như không ai thích cô bởi cái mặt luôn luôn hếch lên trời, bởi cách nói như luôn chứng tỏ sự hiểu biết của mình; bởi cái lưng làm ai cũng có cảm giác như luôn ưỡn lên, dựng thẳng lên; bởi cái nụ cười không bao giờ có vẻ tự nhiên, hồn nhiên mà là như biếm nhẽ, ngạo mạn; bởi cái giọng nói làm ai cũng cảm giác chua như dấm, đắng như trái bồ hòn! Đúng rồi, Đúng là cô quá cao ngạo, quá ngã mạn! Cô cao ngạo, ngã mạn trong khi giao tiếp, khi nói chuyện, trong việc làm, lúc ra đường và cả trong góc bếp. Đến nỗi cái cách đội nước của cô người ta ai cũng ghét – có cái gì đó chứng tỏ như: “Ừ, thì là việc của ta đấy! Ừ, ta là nô lệ đấy! Ừ, thì ta là vậy đấy!” Là nô lệ nhưng cô không bao giờ tránh mặt hay tránh bước chân các giai cấp khác. Gặp lúc phải nói chuyện với họ, cô xưng tôi và đối thoại như ngang hàng chẳng sợ gì cả. Cô chỉ kính nể có Đức Phật, chư tăng ni giáo hội và ông bà chủ Ānāthapiṇḍika mà thôi. Vua chúa, bà-la-môn, tướng lãnh, quý tộc, đại phú gia, tiểu phú gia… cô cũng khinh khỉnh, không thèm kính trọng, hạ mình làm gì!
Puṇṇikā biết, khổ nổi là cô gái tự biết mà cô không thể thay đổi được; cái kiêu ngạo, ngã mạn ấy nó ngủ ngầm trong dòng nghiệp rồi, tạo nên bản chất, cá tính sâu dày mất rồi. Cô không thể học được sự khiêm cung, nhún nhường, từ tốn, bao dung, rộng lượng, nhân ái như ông Ānāthapiṇḍika được. Đêm nằm suy nghĩ, đôi khi cô cũng tự thẹn, thấy ghét mình, căm mình… nhưng sáng ngày ra, tính nào tật ấy, không thay đổi được. Cái cao ngạo, ngã mạn là một cái gì như năng lực ngầm, lại cuốn hút cô đi, tác động lên thân, lên khẩu, lên ý trong sinh hoạt hằng ngày…
Hôm kia, vào một ngày đông lạnh, cô lại đi đội nước như thường lệ, chuyến này rồi chuyến khác. Đầu tiên, khi thò cái hũ xuống nước, bàn tay của cô tê cóng, như bị đóng băng. Có cái gì nghe bì bõm. Khẽ nhìn ra xa. Một người đàn ông bà-la-môn tím thâm cả mặt mũi đang tắm rửa, cọ xát trong dòng nước lạnh buốt. Cô rủa thầm: “Rửa tội ư? Quả là một tin tưởng ngu ngốc! Cái đầu óc của ông đạo sĩ kia có lẽ làm bằng đất sét chăng? Bằng cái mê muội đặc sệt, trơ lì, đóng chai trong tâm thức truyền đời nên tư duy, hiểu biết không thể động cựa, nhúc nhích được chăng? Rõ thảm!”
Nâng được hũ nước lên bờ, cô rướn lưng đứng thẳng, quay sang phía ông đạo sĩ, ngửa mặt lên trời, nói lớn:
– Chà, tôi vọc nước, múc nước trong cái giá băng của dòng nước, tôi chịu khổ sở là vì công việc, là vì thân phận nô lệ, là vì sợ bị chủ rầy, chủ phạt, chủ đánh. Còn ai kia là tại làm sao vậy ha? Không biết là do sợ hãi điều gì, ai rầy, ai phạt, ai đánh mà phải chịu khổ sở, tím tái trong dòng nước lạnh buốt kinh khủng như thế – này hỡi người bà-la-môn?
Người bà-la-môn ấy tên là Sotthiya – cũng là một đạo sĩ hữu danh – thấy cô gái đội nước, hạng tiện dân lại nói trống không, kiêu ngạo như thế, ông giận run. Cố gắng kiềm chế cơn giận, ông nói:
– Ta nghe ông trưởng giả Ānāthapiṇḍika có một cô gái nô lệ, không cam chịu thân phận mình mà thường hống hách, vô lễ, cao ngạo – có tên là Puṇṇikā; với miệng lưỡi chanh chua như vậy thì đúng Puṇṇikā là cô đây rồi. Nhưng ta cũng không chấp làm gì!
Rồi ông nói tiếp: – Này cô Puṇṇikā! Chính cô biết rõ ta tắm trong nước là ta muốn tẩy uế, muốn rửa cho sạch hết tội lỗi nơi thân, nơi tâm – là cái tín ngưỡng thiêng liêng của đạo bà-la-môn từ ngàn xưa mà! Tại sao đã biết rồi mà cô lại giả vờ muốn hỏi? Cái cách hỏi của cô dường như là muốn chất vấn, muốn chỉ trích ta đang ngăn điều ác, bằng việc làm lành tốt như thế này hay sao? Bất cứ ai dù già, dù trẻ mà trước đây đã từng tạo nghiệp bất thiện qua thân, khẩu ý – nếu được tắm rửa thường xuyên trong dòng nước mẹ thiêng liêng liêng này thì đều được giải trừ tất cả mọi ác nghiệp, mọi tội lỗi! Cô không biết thế sao?
Cô gái chợt cười hì hì:
– Trâu bò tắm sông còn nhiều hơn cả các ông đạo sĩ bà-la-môn nữa. Chắc bây giờ trâu bò quanh hai bờ sông Gaṅgā đều đã thành thánh cả rồi, phải vậy không, thưa ngài?
Nghe cô gái nói “trâu bò”, ông Sotthiya giận run:
– Ngươi dám…
– Phải! Tôi dám chứ! Nếu ngài rửa tội trong bao năm, chắc hẳn ngài sẽ thành thánh trước cả trâu, cả bò, thưa ngài!
Đạo sĩ Sotthiya giận run lẩy bẩy. Vừa lạnh, vừa giận – nhưng ông không đáp nổi trước cô gái quá quắt!
Cô gái cười dài như cố chọc giận thêm:
– Đạo sĩ nếu đã thành thánh thì chắc không còn giận, không còn sân, ở đây thì ngược lại. Chứng tỏ gì? Chứng tỏ quan niệm tắm nước sông Gaṅgā tẩy sạch hết tội lỗi là một tín ngưỡng sai lầm, si ngốc!
Đạo sĩ Sotthiyta im sững, không đáp được.
Cô gái tấn công tiếp:
– Nước chỉ rửa sạch thân thể, không thể rửa sạch cái tâm được, thưa đạo sĩ khả kính! Bằng chứng là cái tâm tham, sân, si của đạo sĩ vẫn còn y nguyên. Phải biết nhúc nhích cái đầu óc một chút mà tư duy cho đúng đắn, chân chính và sâu sắc hơn…
Thấy đạo sĩ có vẻ im lặng lắng nghe, cô gái chậm rãi thuyết giảng:
– Ông chủ của tôi, trưởng giả Ānāthapiṇḍika từ khi gặp giáo pháp của Đức Phật Gotama, ông cúng dường gần hết cả gia sản mà ông luôn tươi cười, vui vẻ, rộng lượng, tham sân si gì đó dường như diệt mất gần hết. Ổng như ông thánh vậy đó. Tu vậy mới gọi là tu! Còn ông thì sao nào? Chẳng biết tu làm sao cả! Vậy là nhờ cái nước sông ngu ngốc kia tu giùm, nó rửa tội giùm cho! Hãy tỉnh trí lại đi! Hãy bỏ cái đạo si mê kia mà tu theo giáo pháp của Đức Phật đi!
Trời lạnh, nước lạnh mà “bài giảng” của cô gái “trời đánh thánh vật” càng làm cho ông bà-la-môn lạnh hơn. Nhờ lạnh hơn cho nên ông tỉnh ngộ, thời gian sau, ông bỏ tất cả xin xuất gia tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Đạo Sư và sau này đắc quả vị Arahán.
Còn cô gái? Hôm kia, trưởng giả Ānāthapiṇḍika kêu cô lại và nói:
– Con đã làm việc rất tốt trong bao nhiêu năm qua, hôm nay ta tuyên bố là sẽ xóa thân phận nô lệ cho con. Vậy con sẽ thu xếp đời mình từ đây về sau như thế nào, con hoàn toàn tùy nghi chọn lựa. Ta hứa sẽ giúp con.
– Thưa chủ! Cho con xin được xuất gia như thanh niên Dasaka mà trước đây chủ đã cho chàng ta thoát khỏi thân phận nô lệ.
Ông trưởng giả hoan hỷ mỉm cười gật đầu:
– Ừ! Con còn nhớ chuyện Dasaka à? Đức Thế Tôn rất khen ngợi. Bây giờ vị ấy đã là một bậc Arahán.
Thế rồi, cô gái được xuất gia, và sau này tỳ-khưu-ni Puṇṇikā đắc quả Arahán, đầy đủ thắng trí thần thông và luôn cả bốn tuệ phân tích. Cô đã sử dụng sự biện tài, thông thái của mình để hàng phục chúng ngoại đạo mồm mép, đem lại lợi lạc tối thượng cho rất nhiều người.
Hôm kia, sau giờ nghỉ ngơi, thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả, tỳ-khưu-ni Puṇṇikā dùng thiên nhãn thông, thần túc thông, soi lại các kiếp sống xa xăm, được biết rằng, cô đã có nhân duyên với chư Chánh Đẳng Giác Vipassī, Sikhī, Vessabhū, Kakusandha và Koṇāgamana. Cô đã từng là một vị tỳ-khưu-ni gương mẫu, rạng ngời về giới hạnh, thu thúc nghiêm túc, nghe nhiều học rộng, giảng nói ý nghĩa về pháp và luật thâm sâu, quảng bác với ngôn ngữ biện tài, lưu loát như nước chảy mây trôi, đúng như dư âm từ quá khứ: “Do tu tập cô trở thành vị ni có đại trí tuệ, và do nghe nhiều cô trở thành vị ni thông thái.” Vì coi mình có đại trí tuệ, coi mình là thông thái nên cô sinh ra cống cao ngã mạn, coi thường các vị trưởng lão ít học, khinh rẻ, mạt sát học chúng là ngu si, là đần độn. Cho nên, việc bị sanh ra trong gia tộc hạ tiện là do ngã mạn ẩn tiềm trong dòng nghiệp không bị tiêu hoại. Vì do nghiệp kiêu căng, ngã mạn ấy nên kiếp này, tại thành phố Sāvatthi, trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, cô sinh ra làm hạng tiện dân, nô lệ. Thấy nhân duyên và quả ba đời, tỳ-khưu-ni Puṇṇikā khẽ ngâm lên một câu kệ, như mặt trăng khẽ vén lớp mây mờ để soi chiếu vạn vật, núi sông, cây cỏ:
“- Ngã mạn và kiêu căng,
Cao ngạo và tự đại
Ỷ mình hay mình giỏi,
Cậy mình thông mình tài
Chê mọi người ngu si,
Khinh thế gian cỏ rác
Sinh làm người nô lệ,
Phải sống kiếp tiện nhân
Gieo gì thì được nấy,
Pháp như thực như chân!”
Nguồn: Ngài Giới Đức Sīlaguṇo Bhikkhu.
VIDEO BỘ TRANH CUỘC ĐỜI ĐỨC PHẬT – TỲ KHƯU NI PUṆṆIKĀ
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)