Nội Dung Chính
Trong Pháp và Luật này có một tuần tự học tập, một tuần tự công trình, một tuần tự đạo lộ?
– Có thể trình bày, này Bà-la-môn, trong Pháp và Luật này, có một tuần tự học tập, có một tuần tự công trình, có một tuần tự đạo lộ.
Ví như, này Bà-la-môn, một người huấn luyện ngựa thiện xảo, sau khi được một con ngựa hiền thiện, trước tiên luyện tập cho nó quen mang dây cương, rồi tập luyện cho nó quen các hạnh khác; cũng vậy, này Bà-la-môn, Như Lai khi được một người đáng được điều phục, trước tiên huấn luyện người ấy như sau: “Hãy đến Tỷ-kheo, hãy giữ giới hạnh, hãy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các học giới”.
Này Bà-la-môn, khi vị Tỷ-kheo giữ giới hạnh, chế ngự với sự chế ngự của giới bổn, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ trì và học tập các học giới, Như Lai mới huấn luyện vị ấy thêm như sau: “Hãy đến Tỷ-kheo, hãy hộ trì các căn, khi mắt thấy sắc chớ có nắm giữ tướng chung, chớ có nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì nhãn căn không được chế ngự khiến tham ái, ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị Tỷ-kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng…. mũi ngửi hương… lưỡi nếm vị.. thân cảm xúc… ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các pháp ác bất thiện khởi lên, Tỷ-kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn”.
Này Bà-la-môn, sau khi Tỷ-kheo hộ trì các căn rồi, Như Lai mới huấn luyện vị ấy thêm như sau: “Hãy đến Tỷ-kheo, hãy tiết độ trong ăn uống, chơn chánh giác sát thọ dụng món ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang sức, không phải để tự làm đẹp mình, chỉ để thân này được duy trì, được bảo dưỡng, khỏi bị gia hại, để chấp trì Phạm hạnh, nghĩ rằng: “Như vậy ta diệt trừ các cảm thọ cũ và không cho khởi lên các cảm thọ mới; và ta sẽ không phạm lỗi lầm, sống được an ổn”.
Này Bà-la-môn, sau khi Tỷ-kheo tiết độ trong ăn uống rồi, Như Lai mới huấn luyện vị ấy thêm như sau: “Hãy đến Tỷ-kheo, hãy chú tâm cảnh giác! Ban ngày trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp; ban đêm trong canh đầu, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp; ban đêm trong canh giữa, hãy nằm xuống phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, chân gác trên chân với nhau, chánh niệm tỉnh giác, hướng niệm đến lúc ngồi dậy lại. Ban đêm trong canh cuối, khi đã thức dậy, trong khi đi kinh hành và trong khi đang ngồi, gột sạch tâm trí khỏi các chướng ngại pháp”.
Này, Bà-la-môn, sau khi vị Tỷ-kheo chú tâm tỉnh giác, Như Lai mới huấn luyện vị ấy thêm nữa như sau: “Hãy đến Tỷ-kheo, hãy thành tựu chánh niệm tỉnh giác, khi đi tới khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác”.
Này Bà-la-môn, sau khi chánh niệm tỉnh giác rồi, Như Lai mới huấn luyện vị ấy thêm như sau: “Hãy đến Tỷ-kheo, hãy lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm”.
Vị ấy lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên và an trú chánh niệm trước mặt.
Khi đoạn trừ năm triền cái ấy, những pháp làm ô nhiễm tâm, làm trí tuệ yếu ớt, vị ấy ly dục, ly bất thiện pháp chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
Này Bà-la-môn, đối với những Tỷ-kheo nào là bậc hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu sự vô thượng an tịnh các triền ách, đó là sự giảng dạy của Ta như vậy đối với những vị ấy. Còn đối với những vị Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu đã tận, tu hành thành mãn, các việc nên làm đã làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã thành đạt lý tưởng, đã tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát, những pháp ấy đưa đến sự hiện tại lạc trú và chánh niệm tỉnh giác.
Nguồn trích dẫn: Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikaya), 107. Kinh Ganaka Moggallàna, (Ganakamoggallàna sutta), HT Thích Minh Châu dịch Việt.
It is possible to lay down a gradual training, a gradual doing, a gradual practice in respect of this dhamma and discipline?
“It is possible, brahman, to lay down a gradual training, a gradual doing, a gradual practice in respect of this dhamma and discipline, Brahman, even a skilled trainer of horses, having taken on a beautiful thoroughbred first of all gets it used to the training in respect of wearing the bit. Then he gets it used to further training — even so brahman, the Tathagata, having taken on a man to be tamed, first of all disciplines him thus:
Morality
“‘Come you, monk, be of moral habit, live controlled by the control of the Obligations, endowed with [right] behavior and posture, seeing peril in the slightest fault and, undertaking them, train yourself in the rules of training.’ As soon, brahman, as the monk is of moral habit, controlled by the control of the Obligations, endowed with [right] behavior and posture; seeing peril in the slightest fault and, undertaking them, trains himself in the rules of training, the Tathagata disciplines him further saying:
Sense-control
“‘Come you monk, be guarded as to the doors of the sense-organs; having seen a material shape with the eye, do not be entranced with the general appearance, do not be entranced with the detail; for if one dwells with the organ of sight uncontrolled, covetousness and dejection, evil, unskillful states of mind, may flow in. So fare along controlling it, guard the organ of sight, achieve control over the organ of sight. Having heard a sound with the ear…Having smelt a smell with the nose…Having savored a taste with the tongue…Having felt a touch with the body…Having cognized a mental state with the mind, do not be entranced with the detail. For if one dwells with the organ of mind uncontrolled, covetousness and dejection, evil, unskillful states of mind, may flow in. So fare along controlling it; guard the organ of mind, achieve control over the organ of mind.’
Moderation in eating
“As soon, brahman, as a monk is guarded as to the doors of the sense-organs, the Tathagata disciplines him further, saying: ‘Come you, monk, be moderate in eating; you should take food reflecting carefully, not for fun or indulgence or personal charm or beautification, but taking just enough for maintaining this body and keeping it going, for keeping it unharmed, for furthering the Brahma-faring,[4] with the thought: Thus will I crush out an old feeling, and I will not allow a new feeling to arise, and then there will be for me subsistence and blamelessness and abiding in comfort.’
Vigilance
“As soon, brahman, as a monk is moderate in eating, the Tathagata disciplines him further, saying: ‘Come you, monk, dwell intent on vigilance; during the day while pacing up and down, while sitting down, cleanse the mind of obstructive mental states; during the middle watch of the night, lie down on the right side in the lion posture, foot resting on foot, mindful, clearly conscious, reflecting on the thought of getting up again; during the last watch of the night, when you have arisen, while pacing up and down, while sitting down, cleanse the mind of obstructive mental states.’
Mindfulness and clear consciousness
“As soon, brahman, as a monk is intent on vigilance, the Tathagata disciplines him further, saying: ‘Come you, monk, be possessed of mindfulness and clear consciousness, acting with clear consciousness whether you are approaching or departing, acting with clear consciousness whether you are looking ahead or looking round, acting with clear consciousness whether you are bending in or stretching out [the arms], acting with clear consciousness whether you are carrying the outer cloak, the bowl or robe, acting with clear consciousness whether you are eating, drinking, munching, savoring, acting with clear consciousness whether you are obeying the calls of nature, acting with clear consciousness whether you are walking, standing, sitting, asleep, awake, talking or being silent.’
Overcoming of the five hindrances
“As soon, brahman, as he is possessed of mindfulness and clear consciousness, the Tathagata disciplines him further, saying: ‘Come you, monk, choose a remote lodging in a forest, at the root of a tree, on a mountain slope, in a glen, a hill cave, a cemetery, a woodland grove, in the open, or on a heap of straw.’ On returning from alms-gathering after the meal, the monk sits down crosslegged, holding the back erect, having made mindfulness rise up in front of him. He, getting rid of covetousness for the world, dwells with a mind devoid of covetousness, he cleanses the mind of covetousness. Getting rid of the taint of ill-will, he dwells benevolent in mind; compassionate and merciful towards all creatures and beings, he cleanses the mind of ill-will. Getting rid of sloth and torpor, he dwells without sloth or torpor; perceiving the light, mindful and clearly conscious he cleanses the mind of sloth and torpor. Getting rid of restlessness and worry, he dwells calmly; the mind inward tranquil, he cleanses the mind of restlessness and worry. Getting rid of doubt, he dwells doubt-crossed; unperplexed as to the states that are skilled,[5] he cleanses his mind of doubt.
Jhana
“He, by getting rid of these five hindrances,[6] which are defilements of the mind and deleterious to intuitive wisdom, aloof from pleasures of the senses, aloof from unskilled states of mind, enters and abides in the first meditation which is accompanied by initial thought and discursive thought, is born of aloofness and is rapturous and joyful. By allaying initial thought and discursive thought, his mind subjectively tranquilized and fixed on one point, he enters and abides in the second meditation which is devoid of initial thought and discursive thought, is born of concentration and is rapturous and joyful. By the fading out of rapture, he dwells with equanimity, attentive and clearly conscious, and experiences in his person that joy of which the ariyans[7] say: ‘Joyful lives he who has equanimity and is mindful,’ and he enters and abides in the third meditation. By getting rid of anguish, by the going down of his former pleasures and sorrows, he enters and abides in the fourth meditation which has neither anguish nor joy, and which is entirely purified by equanimity and mindfulness.
“Brahman, such is my instruction for those monks who are learners who, perfection being not yet attained, dwell longing for the incomparable security from the bonds. But as for those monks who are perfected ones, the cankers destroyed, who have lived the life, done what was to be done, shed the burden, attained to their own goal, the fetters of becoming utterly destroyed, and who are freed by perfect profound knowledge — these things conduce both to their abiding in ease here and now as well as to their mindfulness and clear consciousness.”
Majjhima Nikaya, 107 Ganakamoggallana Sutta, The Discourse to Ganaka-Moggallana, Translated from the Pali by I.B. Horner