Nội Dung Chính
Trước khi có những tuyên bố mạnh mẽ của Goenkaji về một Dhamma như là nguyên lý tự nhiên phổ quát dành cho tất cả mọi người không phân biệt tôn giáo tín ngưỡng, Ven. Ledi Sayadaw đã tiên lượng về một thời đại mới, thời đại mà Dhamma sẽ được trao truyền dưới một hình thức khác với truyền thống tu viện trước đó. Cùng với niềm tin về sự phục hưng của Giáo Pháp sau 2500 năm, ngài thực sự đã tạo ra một cuộc cách mạng khi cho phép một vị cư sĩ (Saya Thetgyi) được giảng dạy Dhamma và cử chính học trò mình, vốn là các vị sư, đến học.
Một quyết định táo bạo như thế có thể xuất phát từ một tâm thức, một tầm nhìn, trí tuệ và lòng từ nào? Phàm phu như ta hẳn không thể biết được. Nhưng dấu vết hữu hình của trí tuệ và lòng từ ấy là điều ta có thể ít nhiều nhận ra qua những trang viết của ngài.
? Với lòng tôn kính và biết ơn vị Đại Trưởng Lão, nguyện cho Dhamma đến với chúng sinh dù cách này hay cách khác! Bhavatu sabba maṅgalaṃ!
Sư Punna Bodhi ?
———-
Thứ Tự Thực Hành Và Những Người Mong Chờ Vị Phật Tương Lai
Vì công phu thực hành của những vị còn tùy thuộc và mong chờ vị Phật tương lai không bao gồm gì hơn là tích trữ ba-la-mật (pàrami), không hẳn cần thiết phải theo đúng thứ tự của những giai đoạn thực hành được chỉ dẫn trong Kinh Ðiển Pàli, tức sìla, samàdhi và pannà (giới, định, tuệ). Không nên triển hoãn, gát chờ hành xong sìla (giới) rồi mới bắt đầu thực hành samàdhi (định), hay triển hoãn công phu thực hành pannà (tuệ) để chờ hoàn tất pháp hành samàdhi (định) theo thứ tự của bảy giai đoạn thanh tịnh (visuddhis) như:
1. Sìla-visuddhi (giới tịnh),
2. Citta-visuddhi (tâm tịnh),
3. Ditthi-visuddhi (kiến tịnh),
4. Kankhàvitarana-visuddhi (đoạn nghi tịnh),
5. Magg-àmagga-nànadassana-visuddhi (đạo phi đạo tri kiến tịnh),
6. Patipadànànadassana-visuddhi (đạo tri kiến tịnh), và
7. Nàna-dassana-visuddhi (tri kiến tịnh).
…..
Khi Kinh điển Pàli dạy rằng citta-visuddhi (tâm tịnh) chỉ phải được thực hành sau khi hoàn tất tròn đủ sìla-visuddhi (giới tịnh), rằng chỉ nên thực hành ditthi-visuddhi (kiến tịnh) sau khi đã hoàn mãn hành xong citta-visuddhi (tâm tịnh), rằng chỉ nên thực hành kankhàvitarana-visuddhi (đoạn nghi tịnh) sau khi đã hoàn tất thực hành viên mãn ditthi-visuddhi (kiến tịnh), rằng công phu trau giồi pháp hành thiền về anicca, dukkha, và anattà bhàvanà (vô thường, khổ, vô ngã) chỉ nên được bắt đầu sau khi đã thực hành đầy đủ kankhàvitarana-visuddhi (đoạn nghi tịnh), thứ tự thực hành nầy được chỉ dạy để áp dụng cho những vị cố gắng thành tựu Ðạo và Quả chính trong kiếp sống nầy.
Trong trường hợp những người tự thấy mình không thể chuyên cần đến mức cao độ như vậy mà chỉ cố gắng góp nhặt ba-la-mật (pàrami) tạo nên do pháp hành được bao nhiêu càng tốt, không nên bảo họ rằng pháp hành thiền vắng lặng nhằm thanh lọc tâm (samatha manasikàra citta-visuddhi) chỉ nên được bắt đầu sau khi thực hành đầy đủ sìla-visuddhi (giới tịnh).
Với người thợ săn và người thợ câu, không nên bảo họ nếu không bỏ nghề để hành một nghề khác thì đừng nên thực hành quán niệm, hướng tâm về vắng lặng và minh sát (samatha-vipassanà-manasikàra). Nói như vậy sẽ gây trở ngại cho Giáo Pháp (dhammantaràya, chướng ngại, cản trở người ta trên con đường dẫn đến Giáo Pháp).
Trái lại nên khuyến khích người thợ săn hoặc thợ đánh cá nên quán niệm những phẩm hạnh thánh thiện của Phật, Pháp, Tăng. Nhắc nhở họ nên tận lực quán niệm tính chất ô trược của cơ thể vật chất nầy. Khuyên nhủ họ nên quán niệm tánh cách vô thường, bất ổn định, hết sức bấp bênh, của kiếp sinh tồn, trước cái chết chắc chắn sẽ phải đến với ta, và với tất cả mọi chúng sanh. Sư (Ngài Ledi Sayadaw) có biết trường hợp một người thợ chài lưới chuyên nghiệp, sau khi được khuyến khích như trên, có thể đọc thuộc lòng Kinh Ðiển Pàli và “nisaya” (bản dịch từng chữ) quyển Abhidhammattha Sangaha (Vi Diệu Pháp Toát Yếu) và những duyên hệ, Paccaya Niddesa, của bộ Patthàna (Tương Quan Duyên Hệ) của Tạng Luận trong khi vẫn hành nghề đánh cá. Những công trình tu học như vậy là nền tảng vững chắc rất tốt để gieo trồng mầm giống vijjà (Minh).
Ngày nay, mỗi khi gặp thiện tín (dàyaka upàsakas), đúng theo truyền thống của một nhà Sư, Sư khuyên họ rằng mặc dầu là thợ săn hay thợ câu chuyên nghiệp, lúc nào cũng nên ghi nhớ, quán niệm những phẩm hạnh thánh thiện của Tam Bảo và ba đặc tướng của đời sống. Quán niệm những phẩm hạnh thánh thiện của Tam Bảo (Ti-Ratana) là gieo trồng hột giống Hạnh (carana). Quán niệm ba đặc tướng của đời sống là gieo trồng hột giống Minh (vijjà).
Dầu là đối với người thợ săn hay thợ câu ta cũng nên khuyến khích họ thực hành niệm tâm như vậy. Không nên nghĩ rằng sẽ không thích nghi nếu ta khuyên người thợ săn hay thợ câu nên hành thiền vắng lặng (samatha) và thiền minh sát (vipassanà). Ðàng khác, nếu họ gặp khó khăn, nên giúp đỡ cho họ hiểu biết. Nên sách tấn và khuyến khích họ nên kiên trì cố gắng. Họ ở trong hoàn cảnh mà dù chỉ có hành động nào tích trữ ba-la-mật (pàrami) và có chiều hướng tốt cũng nên được tán dương.
Mất Cơ Hội Gieo Trồng Hột Giống Vijjà (Minh) Vì Không Biết Giá Trị Của Thời Hiện Tại
Vài vị đạo sư chỉ chú trọng đến những lời dạy trực tiếp và rõ ràng, không thể hiểu lầm, trong Kinh Ðiển Pàli về thứ tự phải thực hành bảy giai đoạn thanh tịnh (visuddhi), nhưng không quan tâm đến giá trị của thời gian hiện tại. Các vị ấy dạy rằng pháp hành thiền vắng lặng (samatha) hay thiền minh sát (vipassanà), dầu tận lực tinh tấn thế nào, không thể đưa đến thành quả nếu trước đó không hoàn tất giai đoạn giới tịnh (sìla-visuddhi).
Vài hành giả kém hiểu biết bị dẫn dắt lầm đường vì tin theo những lời dạy tương tợ. Như vậy, đó là dhammantaràya (chướng ngại cho Giáo Pháp).
Những người ấy, vì không hiểu biết bản chất của giờ phút hiện tại, sẽ mất cơ hội để gieo trồng mầm giống vijjà (Minh), vốn chỉ có thể thành tựu khi gặp được Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana). Trong thực tế, họ không thể giải thoát ra khỏi những khổ đau của đời sống và vẫn phải còn lặn hụp lăn trôi trong vòng luân hồi (samsàra) bởi vì trong quá khứ xa xôi dài không thể quan niệm, trải qua vô số chu kỳ nhiều hơn cát trên bờ sông Hằng (Ganges), mặc dầu đôi khi họ có cơ hội gặp Giáo Huấn của một vị Phật (Buddha Sàsana) nhưng không thâu thập nền tảng mầm giống vijjà (Minh).
Khi nói đến mầm giống, nên hiểu rằng có những hột giống đủ chín mùi để có thể nở mộng và trở thành cây non mạnh khoẻ sởn sơ, và có nhiều mức độ chín. Cũng có những hột giống chưa chín, chưa đủ mùi. Người không hiểu biết ý nghĩa của đoạn kinh mình đang đọc, hoặc không hiểu biết phương pháp thực hành chân chánh, dầu thông hiểu ý nghĩa nhưng chỉ đọc, tụng, và lần chuỗi theo thói quen thông thường trong khi ấy quán niệm phẩm hạnh của Ðức Phật và những đặc tướng vô thường, khổ, và vô ngã, đọc tụng kinh mà không theo dõi lời kinh, ắt sẽ có hột giống không đủ chín, không mùi. Những hột giống nầy có thể chín và đủ mùi nếu hành giả tiếp tục hành như thế trong những kiếp sau kế đó, nếu có được cơ hội.
Pháp hành vắng lặng (samatha) cho đến mức parikamma nimitta [36] và pháp hành minh sát (vipassanà) đến tuệ phân biệt sắc và danh (rùpa và nàma), dầu chỉ một lần, là hột giống chín mùi có đủ tiềm năng và thể chất. Pháp hành thiền vắng lặng đến mức uggaha nimitta và pháp hành thiền minh sát đến mức sammasana-nàna [37], dầu chỉ một lần, là hột giống càng chín mùi hơn. Thiền vắng lặng đến mức Patibhàganimitta [38] và thiền minh sát đến Udayabbayanàna [39], dầu chỉ một lần, là hột giống càng chín mùi hơn. Nếu càng chuyên cần tinh tấn hơn trong công phu thực hành thiền vắng lặng và thiền minh sát hột giống vijjà (Minh) càng già giặn chín mùi hơn có thể đưa dến thành công quan trọng.
Những Giáo Huấn Sai Lầm
Giáo Huấn Sai Lầm (micchà-dhamma) tức “những lời dạy rất có thể gây chướng ngại cho Giáo Pháp” (dhammantaràya), có nghĩa là những quan kiến tương tợ như những pháp hành và những giới hạn như không thể thấy hiểm họa của vòng luân hồi samsàra, niềm tin cho rằng thời bây giờ không ai có thể thành tựu Ðạo và Quả, chiều hướng triển hoãn mức độ chuyên cần, chờ cho đến khi ba-la-mật (pàramis) đủ chín mùi, niềm tin cho rằng người thời nay chỉ là dvi-hetuka [42], những người sanh ra với hai nhân thiện, niềm tin cho rằng những vị đại sư thời xưa không còn nữa.
Mặc dầu không đưa đến mục tiêu cùng tột, không có thiện nghiệp (kusala kamma) nào là vô ích. Nếu ta chuyên cần cố gắng, thiện nghiệp (kusala kamma) lúc nào cũng là phương tiện tạo ba-la-mật (pàrami) cho những ai còn thiếu ba-la-mật. Nếu không cố gắng tạo ba-la-mật ắt cơ hội thâu gặt ba-la-mật đã mất. Nếu những người mà ba-la-mật chưa chín mùi ra sức cố gắng thì ba-la-mật của họ sẽ chín mùi. Những người nầy có thể thành đạt Ðạo và Quả trong kiếp tới trong Giáo Huấn của vị Phật hiện tại. Nếu không chuyên cần tinh tấn, cơ hội để làm cho ba-la-mật chín mùi sẽ mất. Nếu những người mà ba-la-mật đã chín mùi chuyên cần tinh tấn, những vị ấy có thể chứng đắc Ðạo và Quả trong kiếp sống nầy. Nếu không cố gắng, cơ hội thành đạt Ðạo và Quả sẽ mất.
Nếu những người sanh ra với hai nhân thiện (dvi-hetuka) chuyên cần tinh tấn, họ có thể trở thành ti-hetuka [43] trong kiếp sống tới. Nếu không chuyên cần cố gắng, họ không thể tiến lên từ trạng thái dvi-hetuka (sanh ra với hai nhân thiện) mà sẽ còn tuột xuống mức ahetuka [44]. Thí dụ như anh kia trù định xuất gia, trở thành tỳ khưu (bhikkhu). Nếu có người nói với anh rằng “chỉ nên dự định xuất gia nếu anh có thể sống suốt đời cuộc sống của một vị tỳ khưu. Nếu liệu làm không được vậy, chớ nên dự định xuất gia như thế”, — đó là dhammantaràya, chướng ngại cho Giáo Pháp.
Ðức Phật dạy: “Như Lai tuyên ngôn rằng chỉ một tác ý thiện khởi sanh đã tạo lợi ích lớn lao” — (Majjhima Nikàya, Trung A Hàm, số 8)
Làm giảm giá trị một hành động bố thí (dàna) hoặc làm ngã lòng một người phát tâm bố thí, có thể là một punnantaràya, chướng ngại cho hành động tạo thiện nghiệp của người có ý định bố thí. Nếu làm thối chí những người có hành động trì giới, tham thiền, và phát triển trí tuệ thì đó là tạo dhammantaràya, chướng ngại cho Giáo Pháp. Người gây chướng ngại cho những hành động tạo thiện nghiệp sẽ mất quyền lực và ảnh hưởng, tài sản và sự nghiệp và sẽ nghèo đói trong những kiếp tới. Nếu gây chướng ngại cho Giáo Pháp người ấy sẽ có khuyết điểm trong giới đức và phẩm hạnh và kém nhạy cảm hiểu biết, và như vậy, rõ ràng là thấp kém và hèn hạ trong những kiếp vị lai. Do đó hãy coi chừng!
Chú thích:
[36] Nimitta là hình ảnh phát hiện trong tâm khi hành giả thành công tu tập một phương pháp hành thiền. Hình ảnh ấy là bước đầu đưa vào tâm định nên gọi là Chuẩn Bị hoặc Parikamma Nimitta, đề mục sơ khởi. Ðây là hình ảnh trong tâm. Hình ảnh vẫn chưa vững chắc và rõ ràng lắm, phát hiện trong tâm sau đó được gọi là Uggaha-Nimitta. Ðây là hình ảnh trong tâm.
[37] Sammasana-nàna, tuệ thấu đạt, quán sát, nghiên cứu, nắm vững và nhận định rằng tất cả những hiện tượng trong kiếp sống là vô thường, khổ và vô ngã. Vào thời kỳ cuối cùng của tuệ nầy hành giả nhoáng thấy minh sát rõ ràng.
[38] Patibhàga-nimitta, hình ảnh khái niệm. Thiền vắng lặng đến mức gom tâm an trụ thật vững chắc, thấy hình ảnh rõ ràng và không chao động. Ðây cũng là một hình ảnh trong tâm.
[39] Udayabbayanàna, tuệ sanh diệt, là tuệ giác phát sanh do công phu quán sát trạng thái phát sanh và hoại diệt của các pháp hữu vi. Ðây là tuệ giác đầu tiên trong chín tuệ hợp thành giai đoạn thanh lọc Patipadànànadassana-Visuddhi, Tri Kiến Tịnh.
[42] Dvi-hetuka-patisandhi, sanh ra với hai nhân. Câu nầy hàm ý là được sanh ra với hai nhân thiện, tức hai nhân vô-tham (alobha) và vô-sân (adosa). Người sanh ra với hai nhân thiện như vậy không thể thành tựu Ðạo và Quả trong kiếp hiện tiền, vì còn thiếu nhân thiện thứ ba là vô si (amoha).
[43] Ti-hetuka-patisandhi, sanh ra với ba nhân thiện: alobha (vô tham), adosa (vô sân) và amoha (vô si).
[44] ahetuka: một chúng sanh sanh ra không có nhân thiện nào.
(Trích từ The Requisites of Enlightenment – Ven. Ledi Sayadaw. Bản dịch của Phạm Kim Khánh với tựa “37 phẩm trợ đạo, một toát yếu về những yếu tố cần thiết cho sự giác ngộ“)
Bài viết được trích từ cuốn 37 Phẩm Trợ Đạo – Thiền Sư Ledi Sayadaw (Phạm Kim Khánh dịch). Quý vị có thể tải cuốn sách bản PDF tại đây.