CHƯƠNG THỨ TƯ
1/- Carati dharaṇipāle rājadhammesu tasmiṃ
samaracaturaseno khīradhāro narindo,
nijabhujabalalīlā ’rātidappappamāthī
vibhavajanitamāno yuddhasajjo ’bhigañchi.
Trong lúc vị vương quân ấy đang thực thi các phận sự hoàng gia, thì đức vua Khīradhāra là người khuất phục niềm kiêu hãnh của kẻ thù bằng sự vận dụng sức mạnh của đôi tay mình và có bốn đội binh thiện chiến đã tiến quân, đồng thời tăng cường lực lượng sẵn sàng lâm trận.
2/- Karivaramatha disvā so guhādvārayātaṃ
paṭibhayarahitatto sīharājāva rājā,
nijanagarasamīpāyātametaṃ narindaṃ
amitabalamahoghen’ottharantā’bhiyāyi.
Khi nhìn thấy con voi cao quý đã tiến đến cửa hang và vị vua kia đã tiến đến khu vực lân cận thành phố của mình, vị vua ấy như con sư tử chúa có bản chất không hề sợ hãi đã tấn công vào những kẻ xâm lược bằng cơn lũ dữ dội của sức mạnh vô biên.
3/- Uditabahaladhūlīpāḷiruddhantaḷikkho
samadavividhayodhārāvasaṃrambhabhīme,
nisitasarasatālīvassadhārākarāle
ajini mahati yuddhe paṇḍuko khīradhāraṃ.
Bầu trời đã bị che lấp bởi đám bụi mù dầy đặc bốc lên, đức vua Paṇḍu đã đánh bại đức vua Khīradhāra trong trận chiến đấu dữ dội, ghê rợn đầy chết chóc với tiếng la hét của nhiều hạng chiến sĩ đang hăng máu, trong tiếng sấm động mang theo những đám mưa với hàng trăm mũi tên sắc bén.
4/- Atha narapatiseṭṭho saṅgahetvāna raṭṭhaṃ
nijatanujavarasmiṃ rajjabhāraṃ nidhāya,
sugatadasanadhātuṃ sampaṭicchāpayetvā
pahiṇi ca guhasīvaṃ sakkaritvā saratthaṃ.
Sau đó, vị vua lãnh tụ đã hồi phục lại vương quốc rồi đã truyền ngôi vua cho người con trai yêu quý của mình sau đó đã thuyết phục đức vua Guhasīva nhận lấy xá-lợi răng của đấng Thiện Thệ rồi đã tiếp đãi trọng thể và đã tiễn về xứ sở của vị ấy.
5/- Suciramavanipālo saññamaṃ ajjhupeto
vividhavibhavadānā yācake tappayitvā,
tidasapurasamājaṃ dehabhedāpayāto
kusalaphalamanappaṃ patthitaṃ paccalattha.
Thời gian dài sau đó, đức vua đã đạt được sự tự chế và đã làm hài lòng những người hành khất với sự bố thí nhiều loại vật chất, đến khi thân xác tan hoại đã sanh về cõi trời và đã thành tựu được nhiều quả báu tốt lành như nguyện.
6/- Narapati guhasīvo taṃ munindassa dhātuṃ
sakapuramupanetvā sādhu sammānayanto,
sugatigamanamagge pāṇino yojayanto
sucaritamabhirūpaṃ sañcinanto vihāsi.
Sau khi rước xá-lợi của đấng Mâu Ni Vương ấy về thành phố của mình, đức vua Guhasīva đã sống, đồng thời đã tích lũy hạnh lành cao thượng, đã cung kính đúng mực, và đã gắn bó nhiều người vào đạo lộ đi đến cõi trời.
7/- Agaṇitamahimassujjenirañño tanūjo
purimavayasi yevāraddhasaddhābhiyogo,
dasabalatanudhātuṃ pūjituṃ tassa rañño
puravaramupāyāto dantanāmo kumāro.
Vị hoàng tử tên Danta, con trai của đức vua xứ Ujjenī, là người có sự cung kính và niềm tin phát khởi, lúc tuổi còn trẻ đã đi đến thành phố của vị vua ấy để cúng dường xá-lợi của đấng Thập Lực.
8/- Guṇajanitapasādaṃ taṃ kaliṅgādhināthaṃ
nikhilaguṇanivāso so kumāro karitvā,
vividhamahavidhānaṃ sādhu sampādayanto
avasi sugatadhātuṃ anvahaṃ vandamāno.
Vị hoàng tử ấy với đầy đủ các đức hạnh đã tạo được niềm tin ở đức vua xứ Kaliṅga ấy nhờ vào hạnh kiểm. Và vị ấy đã sống, đồng thời đã thể hiện lòng thành theo nhiều phương thức long trọng khác nhau, và đã cúng dường đến xá-lợi của đấng Thiện Thệ mỗi ngày.
9/- Abhavi ca guhasīvassāvanīsassa dhītā
vikacakuvalayakkhī haṃsakantābhiyātā,
vadanajitasarojā hāridhammillabhārā
kucabharanamitaṅgī hemamālābhidhānā.
Đức vua Guhavīva có người con gái tên là Hemamālā. Nàng có đôi mắt như hoa súng, có dáng đi đẹp như chim thiên nga, có khuôn mặt vượt hẳn đóa hoa sen, có những búi tóc bện xinh đẹp, có dáng người ưởn ra phía trước để nâng đỡ bộ ngực.
10/- Akhilaguṇanidhānaṃ bandhubhāvānurūpaṃ
suvimalakulajātaṃ taṃ kumāraṃ viditvā,
narapati guhasīvo attano dhītaraṃ taṃ
adadi sabahumānaṃ rājaputtassa tassa.
Sau khi biết được vị hoàng tử ấy xuất thân dòng dõi không chút bợn nhơ, có đầy đủ đức hạnh tốt đẹp, xứng đáng để thân cận, đức vua Guhasīva đã gả người con gái yêu quý ấy của mình cho vị hoàng tử ấy.
11/- Manujapati kumāraṃ dhāturakkhādhikāre
pacuraparijanaṃ taṃ sabbathā yojayitvā,
gavamahisasahassādīhi sampīṇayitvā
sakavibhavasarikkhe issaratte ṭhapesi.
Đức vua đã giao phó hoàn toàn cho vị hoàng tử ấy và đoàn tùy tùng đông đảo nhiệm vụ bảo quản xá-lợi, đã làm cho hoan hỷ với hàng ngàn trâu, bò, v.v… và đã đặt vào vị trí lãnh đạo tương đương với quyền lực của mình.
12/- Samarabhuvi vinaṭṭhe khīradhāre narinde
malayavanamupetā bhāgineyyā kumārā,
pabalamatimahantaṃ saṃharitvā balaggaṃ
upapuramupagañchuṃ dhātuyā gaṇhaṇatthaṃ.
Khi đức vua Khīradhāra bị giết chết ở bãi chiến trường, các vị hoàng tử hàng con cháu đã đi đến khu rừng Malaya, đã thu thập đội quân lớn mạnh và tinh nhuệ, rồi đã tiến đến gần thành phố để đoạt lấy xá-lợi.
13/- Atha nagarasamīpe te nivesaṃ karitvā
savaṇakaṭukametaṃ sāsanaṃ pesayiṃsu,
sugatadasanadhātuṃ dehi vā khippamamhaṃ
yasasirijananiṃ vā kīḷa saṅgāmakeḷiṃ.
Sau đó, họ đã xây dựng lều trại ở xung quanh thành phố và cho người đưa lời nhắn nhủ khó nghe rằng: “Hãy mau trao ra cho chúng tôi xá-lợi răng của đấng Thiện Thệ, hoặc là hãy xông xáo chiến trận là nơi tạo ra vinh quang và danh vọng?”
14/- Sapadi dharaṇipālo sāsanaṃ taṃ suṇitvā
avadi rahasi vācaṃ rājaputtassa tassa,
na hi sati mama dehe dhātumaññassa dassaṃ
ahamapi yadi jetuṃ neva te sakkuṇeyyaṃ.
15/- Suranaranamitaṃ taṃ dantadhātuṃ gahetvā
gahitadijavilāso sīhaḷaṃ yāhi dīpaṃ,
iti vacanamudāraṃ mātulassātha sutvā
tamavaca guhasīvaṃ dantanāmo kumāro.
Ngay khi vừa nghe được lời nhắn tin ấy, đức vua đã nói riêng với vị hoàng tử ấy rằng: “Nếu thân mạng ta còn thì ta sẽ không trao xá-lợi cho người khác. Tuy nhiên, nếu ta không thể chiến thắng họ thì ngươi hãy cải trang thành bà-la-môn rồi hãy mang xá-lợi răng được chư thiên và nhân loại tôn thờ ấy đi đến hòn đảo Laṅkā.” Khi ấy, vị hoàng tử tên Danta đã nghe được lời nói cao thượng của người cậu nên đã nói với đức vua Guhasīva ấy rằng:
16/- Tava ca mama ca ko vā sīhaḷe bandhubhūto
jinacaraṇasaroje bhattiyutto ca ko vā,
jalanidhiparatīre sīhaḷaṃ khuddadesaṃ
kathamahamatinessaṃ dantadhātuṃ jinassa.
“Ở trên xứ Sīhaḷa, ai là người thân thuộc của ngài hoặc của con? Và ai là người tận tụy trong việc thờ phụng bàn chân hoa sen của đấng Chiến Thắng? Tại sao con sẽ phải đưa xá-lợi của đấng Chiến Thắng đến xứ sở nhỏ bé Sīhaḷa ở bờ bên kia của biển cả?”
17/- Tamavadi guhasīvo bhāgineyyaṃ kumāraṃ
dasabalatanudhātū saṇṭhitā sīhaḷasmiṃ,
bhavabhayahatidakkho vattate satthudhammo
gaṇanapathamatītā bhikkhavo cāvasiṃsu.
Đức vua Guhasīva đã nói với vị hoàng tử là người cháu trai ấy rằng: “Ở xứ Sīhaḷa có các xá-lợi di thể của đấng Thập Lực đang được lưu trữ, Giáo Pháp của bậc Đạo Sư có khả năng đoạn diệt luân hồi và sự sợ hãi đang được thực hành, và đã có vô số các vị tỳ khưu cư trú.
18/- Mama ca piyasahāyo so mahāsenarājā
jinacaraṇasarojadvandasevābhiyutto,
salilamapi ca phuṭṭhaṃ dhātuyā patthayanto
vividharatanajātaṃ pābhataṃ pesayittha.
Và đức vua Mahāsena ấy là bạn hữu yêu quý của trẫm luôn gắn bó trong việc thờ phượng hai bàn chân như đóa sen của đấng Chiến Thắng. Thậm chí trong lúc thỉnh cầu lượng nước đã được xá-lợi chạm đến, đức vua cũng đã gởi đến quà biếu được tạo nên với nhiều loại châu báu.
19/- Pabhavati manujindo sabbadā buddhimā so
sugatadasanadhātuṃ pūjituṃ pūjaneyyaṃ,
paricitavisayamhā vippavutthaṃ bhavantaṃ
vividhavibhavadānā sādhu saṅgaṇhituṃ ca.
Vị vua ấy thông minh, luôn luôn có khả năng cúng dường xá-lợi răng của đấng Thiện Thệ là vật xứng đáng để cúng dường, và (có khả năng) tiếp đãi nồng hậu với nhiều sự cung phụng về vật chất đối với cháu đang lúc sống xa lìa các đối tượng quen thuộc.”
20/- Nijaduhitupatiṃ taṃ itthamārādhayitvā
narapati guhasīvo saṅgahetvāna senaṃ,
raṇadharaṇimupeto so kumārehi saddhiṃ
maraṇaparavasattaṃ ajjhagā yujjhamāno.
Sau khi đã khích lệ người chồng của con gái mình như thế, đức vua Guhasīva ấy đã tập hợp đoàn quân tiến ra bãi chiến trường, và trong lúc giao đấu cùng với các vị hoàng tử đã bị tử thương.
21/- Atha narapatiputto dantanāmo suṇitvā
savaṇakaṭukametaṃ mātulassa pavattiṃ,
gahitadijavilāso dantadhātuṃ gahetvā
turitaturitabhūto so puramhā palāyi.
Khi ấy, người con trai của đức vua tên là Danta đã nghe được tin khó nghe ấy về người cậu. Vị ấy đã cải trang thành bà-la-môn rồi mang theo xá-lợi răng và đã tẩu thoát khỏi thành phố trong trạng thái vô cùng vội vã.
22/- Sarabhasamupagantvā dakkhiṇaṃ cātha desaṃ
avicalitasabhāvo iddhiyā devatānaṃ,
nadimatimahatiṃ so uttaritvāna puṇṇaṃ
nidahi dasanadhātuṃ vālukārāsimajjhe.
Rồi sau đó, khi đã đi đến Sarabhasa là khu vực ở phía nam, vị ấy với bản chất kiên định đã vượt qua giòng sông ngập nước vô cùng rộng lớn nhờ vào năng lực của chư thiên và đã giấu xá-lợi răng vào giữa đống cát.
23/- Puna puramupagantvā taṃ gahitaññavesaṃ
bhariyamapi gahetvā āgato tattha khippaṃ,
sugatadasanadhātuṃ vālukāthūpakucchiṃ
ṭhapitamupacaranto acchi gumbantarasmiṃ.
Hơn nữa, sau khi đã đi đến gần thành phố, vị ấy cũng đã dẫn người vợ được hóa trang dưới bộ dạng khác rồi đã nhanh chóng đi đến nơi ấy. Vị ấy đã cư ngụ ở giữa khu rừng thưa đồng thời thờ phụng xá-lợi răng của đức Thiện Thệ đã được đặt ở trong lòng ngôi tháp bằng cát.
24/- Sapadi nabhasi thero gacchamāno paneko
vividhakiraṇajālaṃ vālukārāsithūpā,
aviralitamudentaṃ dhātuyā tāya disvā
paṇami sugatadhātuṃ otaritvāna tattha.
Hơn nữa, có một vị trưởng lão trong lúc đang di chuyển ở trên không trung đã nhìn thấy màng lưới hào quang đa dạng của xá-lợi ấy đang phát ra không ngừng từ ngôi tháp là đống cát nên đã lập tức đáp xuống nơi ấy và đã đảnh lễ xá-lợi của đức Thiện Thệ.
25/- Munisutamatha disvā jampatī te patītā
nijagamanavidhānaṃ sabbamārocayiṃsu,
dasabalatanujo so dhāturakkhāniyutto
parahitaniratatto te ubho ajjhabhāsi.
Sau khi nhìn thấy vị đệ tử của đấng Mâu Ni, cặp vợ chồng ấy đã mừng rỡ kể lại tất cả về tiến trình lưu lạc đến (nơi ấy). Vị đệ tử của đấng Thập Lực ấy có trách nhiện trong việc bảo quản xá-lợi và có bản tánh hoan hỷ với điều lợi ích của người khác nên đã nói với cả hai người ấy rằng:
26/- Dasabalatanudhātuṃ sīhaḷaṃ netha tumhe
agaṇitatanukhedā vītasārajjametaṃ,
api ca gamanamagge jātamatte vighāte
saratha mamamanekopaddavacchedadakkhaṃ.
“Các vị đang di chuyển xá-lợi di thể của đấng Thập Lực đến xứ Sīhaḷa, điều ấy chứng tỏ rằng các vị đã không màng đến biết bao sự khổ nhọc về cơ thể. Tuy nhiên, ở trên đường đi mỗi khi có việc giết chóc xảy ra, các vị hãy tưởng nhớ đến tôi thì tôi sẽ nhìn thấy được mọi điều hiểm nghèo hoặc cướp bóc.”
27/- Iti sugatatanujo jampatīnaṃ kathetvā
punapi tadanurūpaṃ desayitvāna dhammaṃ,
puthutaramapanetvā sokasallañca gāḷhaṃ
sakavasatimupetā antaḷikkhena dhīro.
Sau khi nói như thế với cặp vợ chồng, vị đệ tử trí tuệ của đấng Thiện Thệ cũng đã thuyết giảng Giáo Pháp phù hợp với sự việc ấy và đã nhổ lên mũi tên sầu muộn sâu xa và trầm trọng, sau đó đã trở về chỗ trú ngụ của mình bằng đường không trung.
28/- Bhujagabhavanavāsi ninnagāyātha tassā
bhujagapati mahiddhī paṇḍubhārābhidhāno,
sakapurapavaramhā nikkhamitvā caranto
samupagami tadā taṃ ṭhānamicchāvasena.
Khi ấy, con rồng chúa có đại thần lực tên là Paṇḍubhāra cư ngụ trong cung điện của loài rồng ở tại giòng sông ấy đã rời khỏi thành trì sang trọng của mình, và trong lúc di chuyển theo ý thích đã đi đến gần địa điểm ấy.
29/- Vimalapulinathūpā so samuggacchamānaṃ
sasiruciramarīcijjālamālokayitvā,
ṭhitamatha munidhātuṃ vālukārāsigabbhe
kimidamiti sakaṅkhaṃ pekkhamāno avedi.
Trong lúc tiến đến gần, con rồng chúa ấy đã nhìn thấy màng lưới hào quang tợ như mặt trăng từ đồi cát tinh khiết, và trong lúc suy tư về điều thắc mắc “Đây là vật gì vậy?” nó đã biết được rằng xá-lợi của đấng Mâu Ni được đặt ở bên trong lòng đống cát.
30/- Sapadi sabahumāno so asandissamāno
ratanamayakaraṇḍaṃ dhātuyuttaṃ gilitvā,
vitataputhuladeho bhogamālāhi tuṅgaṃ
kanakasikharirājaṃ veṭhayitvā sayittha.
Ngay lập tức, với sự vô cùng tôn kính con rồng chúa liền tàng hình và đã nuốt vào cái hòm làm bằng châu báu đang chứa đựng xá-lợi. Sau đó với thân hình rộng lớn trải dài, con rồng chúa đã quấn quanh ngọn núi chúa bằng vàng với các vòng thân thể rồi nằm xuống.
31/- Salilanidhisamīpaṃ jampatī gantukāmā
pulinatalagataṃ taṃ dantadhātuṃ adisvā,
nayanasaliladhāraṃ sokajātaṃ kirantā
sugatasutavaraṃ taṃ taṅkhaṇe’nussariṃsu.
Hai vợ chồng có ý định đi đến vùng ven biển, nhưng không nhìn thấy xá-lợi răng ấy để ở bên dưới đống cát nên đã sanh khởi lòng sầu muộn, rồi đã tuôn trào giòng nước mắt, và vào giây phút ấy đã tưởng nhớ đến vị đệ tử cao quý ấy của đấng Thiện Thệ.
32/- Atha sugatasuto so cintitaṃ saṃviditvā
agami savidhamesaṃ sokadīnānanānaṃ,
asuṇi ca jinadhātuṃ vālukārāsimajjhe
nihitamapi adiṭṭhaṃ pūjitaṃ jampatīhi.
Khi ấy, vị đệ tử ấy của đấng Thiện Thệ đã nhận biết luồng tư tưởng nên liền đi đến gặp những người ấy đang có khuôn mặt sầu muộn khổ sở, và đã biết rằng xá-lợi của đấng Chiến Thắng đã không còn được nhìn thấy, mặc dầu đã được cất giấu ở giữa đống cát và được thờ phụng bởi hai vợ chồng.
33/- Sayitamatha yatī so dibbacakkhuppabhāvā
ratanagirinikuñje nāgarājaṃ apassi,
vihagapatisarīraṃ māpayī tammuhutte
vitataputhulapakkhenantaḷikkhaṃ thakentaṃ.
Sau đó, vị tỳ khưu ấy bằng năng lực thiên nhãn đã nhìn thấy con rồng chúa đang nằm ở bên cạnh hòn núi châu báu (Ratanagiri). Và vào giây phút ấy vị ấy đã biến hóa thành thân thể của loài chim chúa có đôi cánh xòe rộng che kín bầu trời.
34/- Jaladhimatigambhīraṃ taṃ dvidhā so karitvā
pabalapavanavegenattano pakkhajena,
sarabhasamabhidhāvaṃ bhīmasaṃrambhayogā
abhigami bhujagindaṃ merupāde nipannaṃ.
Vị ấy đã xẻ biển cả sâu thẳm ấy ra làm hai bằng đôi cánh của chính mình với tốc độ của làn gió mạnh mẽ, rồi đã tạo thành tiếng kêu ghê rợn và mau chóng lao đến con rồng chúa đang nằm ở chân núi Meru.
35/- Jahitabhujagaveso taṅkhaṇe so phaṇindo
paṭibhayacakitatto saṃkhipitvāna bhoge,
sarabhasamupagantvā tassa pāde namitvā
vinayamadhuramitthaṃ taṃ munīsaṃ avoca.
Vào giây phút ấy, con rồng chúa ấy, với nội tâm bị hoảng hốt vì nỗi lo sợ nên đã quăng bỏ lốt rắn và thâu nhỏ thân thể lại, rồi mau chóng đến gần đảnh lễ ở chân của vị ấy, và đã nói với vị ẩn sĩ ấy bằng giọng nói nhún nhường và ngọt ngào rằng:
36/- Sakalajanahitatthaṃ eva jāyanti buddhā
bhavati janahitatthaṃ dhātumattassa pūjā,
ahamapi jinadhātuṃ pūjayitvā mahagghaṃ
kusalaphalamanappaṃ sañcinissanti gaṇhiṃ.
“Chư Phật xuất hiện chính vì lợi ích cho hết thảy chúng sanh, việc cúng dường đến xá-lợi là việc đem lại lợi ích của chúng sanh. (Nghĩ rằng): ‘Tôi cũng cúng dường đến xá-lợi cao quý của đấng Chiến Thắng và cũng sẽ gặt hái quả thiện lớn lao,’ nên tôi đã lấy đi xá-lợi.”
37/- Atha manujagaṇānaṃ saccabodhārahānaṃ
vasatibhavanamesā nīyate sīhaḷaṃ taṃ,
munivaratanudhātuṃ tena dehīti vutto
bhujagapati karaṇḍaṃ dhātugabbhaṃ adajji.
Khi ấy, con rồng chúa đã được nói rằng: “Xá-lợi này được đưa đến xứ Sīhaḷa ấy là chốn cư ngụ của số đông người có khả năng giác ngộ Chân Lý; vì thế xin hãy trao lại xá-lợi di thể của đấng Mâu Ni cao quý,” nên đã trao lại chiếc hòm là vật chứa đựng xá-lợi.
38/- Vihagapatitanuṃ taṃ saṃharitvāna thero
jalacarasatabhīmā aṇṇavā uppatitvā,
sakalapaṭhavicakke rajjalakkhiṃ va dhātuṃ
narapatitanujānaṃ jampatīnaṃ adāsi.
Vị trưởng lão đã cởi bỏ vóc dáng ấy của con chim chúa. Hàng trăm con cá hung tợn từ biển cả đã phóng lên và trao lại xá-lợi chính là bảo vật của vương quyền ở trên toàn thể trái đất và vũ trụ cho hai vợ chồng là con của đức vua.
39/- Iti katabahukāre saṃyaminde payāte
sugatadasanadhātuṃ muddhanā ubbahantā,
mahati vipinadevādīhi magge payutte
vividhamahavidhāne te tato nikkhamiṃsu.
Sau khi đã được vị đứng đầu trong sự thu thúc thể hiện các việc làm như thế, và trong lúc đội xá-lợi răng của đấng Thiện Thệ ở trên đầu đi trên con đường lớn đã được chư thiên ở khu rừng sửa soạn với các sự trang hoàng đa dạng lộng lẫy, bọn họ đã rời khỏi nơi ấy.
40/- Mudusurabhisamīro kaṇṭakādivyapeto
vimalapulinahārī āsi sabbattha maggo,
ayanamupagate te dantadhātuppabhāvā
nigamanagaravāsī sādhu sammānayiṃsu.
Con đường đã được lót cát tinh khiết ở khắp mọi nơi, được dọn sạch các loại gai góc, v.v… và có làn gió dịu dàng thơm ngát. Do nhờ năng lực của xá-lợi răng, khi họ đang tiến bước trên con đường, cư dân ở phố chợ và thị thành đã tỏ lòng tôn kính theo khuôn phép.
41/- Kusumasurabhicuṇṇākiṇṇahatthāhi niccaṃ
sakutukamanuyātā kānane devatāhi,
acalagahanaduggaṃ khepayitvāna maggaṃ
agamumaturitā te paṭṭanaṃ tāmalittiṃ.
Luôn được chư thiên ở trong khu rừng tháp tùng một cách phấn khởi với các bông hoa và bột phấn thơm chất đầy ở hai tay, họ đã vượt qua đoạn đường gồ ghề khó đi và đã mau chóng đến được bến tàu Tāmalitti.
42/- Acalapadarabaddhaṃ suṭṭhitodārakūpaṃ
uditaputhulakāraṃ dakkhaniyyāmakañca,
sayamabhimatalaṅkāgāminaṃ nāvamete
sapadi samuparūḷhaṃ addasuṃ vāṇijehi.
Ngay khi ấy họ đã đích thân nhìn thấy chiếc thuyền dự định đi đến Laṅkā được lắp đặt sàn tàu vững chải, có cột buồm khổng lồ đứng sừng sững căng lên chiếc buồm rộng và có người thuyền trưởng thiện nghệ cùng với các thương buôn đã bước lên thuyền.
43/- Atha dijapavarā te sīhaḷaṃ gantumicchaṃ
sarabhasamupagantvā nāvikassāvadiṃsu,
sutisukhavacasā so sādhu vuttena tesaṃ
pamuditahadayo te nāvamāropayittha.
Khi ấy, các người thủ lãnh bà-la-môn với ý định đi đến xứ Sīhaḷa đã mau chóng đi đến nói với người lái tàu bằng giọng nói rõ ràng và mạch lạc, người ấy đã trở nên mừng rỡ với lời đề nghị của họ, và họ đã sắp xếp lên tàu.
44/- Jalanidhimabhirūḷhesvesu ādāya dhātuṃ
samabhavumupasantā lolakallolamālā,
samasurabhimanuñño uttaro vāyi vāto
vimalarucirasobhā sabbathā ’suṃ disāpi.
Khi những người ấy mang xá-lợi bước lên thuyền ở trên biển cả, những đợt sóng dữ dội đã trở nên bình lặng, làn gió phương bắc thổi nhè nhẹ thơm ngát gây niềm hưng phấn, khắp mọi phương đều trở nên tinh khiết, rực rỡ, và sáng lạng.
45/- Nabhasi asitasobhe venateyyo va nāvā
pabalapavanavegā santataṃ dhāvamānā,
nayanavisayabhāvātītatīrācalādiṃ
pavisi jaladhimajjhaṃ phenapupphābhikiṇṇaṃ.
Giống như loài chim Garuda ở trên bầu trời xanh ngát và xinh đẹp, chiếc thuyền đều đều lướt nhanh theo tốc độ của làn gió tiến vào giữa biển khơi có rải rắc những bông hoa bằng bọt nước, rồi bờ biển, núi non, v.v… chỉ là những hình ảnh thoáng qua trong ánh mắt.
46/- Atha abhavi samuddo bhīmasaṃvaṭṭavātā-
’bhihatasikharikūṭākāravīcippabandho,
savaṇabhiduraghorārāvaruddhantaḷikkho
bhayacakitamanussakkandito sabbarattiṃ.
Sau đó, biển cả đã trở nên liên tục có những đợt sóng cao như chóp núi được tạo ra bởi những cơn gió xoay chuyển kinh hồn, bầu trời trở nên ngột ngạt bởi những tiếng động ghê sợ khó nghe, và trọn đêm có tiếng khóc lóc của người đang bị chìm đắm trong cơn hãi sợ.
47/- Udayasikharisīsaṃ nūtanādiccabimbe
upagatavati tassā rattiyā accayamhi,
salilanidhijalaṃ taṃ santakallolamālaṃ
asitamaṇivicittaṃ koṭṭimaṃ vāvabhāsi.
Vào cuối đêm ấy, khi bóng mặt trời mới mọc đã vươn lên đỉnh ngọn núi ở hướng đông, mặt biển ấy với những đợt sóng trở nên bình lặng đã sáng ngời như là mặt sàn được sơn màu ngọc ma-ni xanh biếc.
48/- Atha vitataphaṇālī bhiṃsanā keci nāgā
surabhikusumahatthā keci dibbattabhāvā,
ruciramaṇipadīpe keci sandhārāyantā
nijasirasi karontā keci kaṇḍuppalāni.
Khi ấy, một số các con rồng dữ tợn phồng mang ra, một số mang hình dáng thiên thần tay cầm các hương thơm và bông hoa, một số đang cầm những cây đèn xinh đẹp bằng ngọc ma-ni, một số đang đội những bó sen xanh ở trên đầu của chính mình.
49/- Phuṭakumudakalāpe jattuneke vahantā
kanakakalasamālā ukkhipantā ca keci,
pavanacalitaketuggāhakā keci eke
rucirakanakacuṇṇāpuṇṇacaṅgoṭahatthā.
Một số đang mang ở trên vai những chùm hoa súng trắng nở rộ, một số đưa cao những lọ và tràng hoa bằng vàng, một số cầm giữ những lá cờ đung đưa theo gió, một số cầm ở tay những hòm chứa đầy bột phấn vàng xinh đẹp.
50/- Salalitaramaṇīyaṃ keci naccaṃ karontā
salayamadhuragītaṃ gāyamānā ’va keci,
pacuraturiyabhaṇḍe āhanantā ca eke
munivaratanudhātuṃ pūjituṃ uṭṭhahiṃsu.
Một số đang nhảy điệu múa sống động duyên dáng, một số đang ca bài hát du dương ngọt ngào, một số đang trình tấu nhiều loại nhạc cụ đã đứng lên để tôn vinh xá-lợi di thể cao quý của đấng Mâu Ni.
51/- Rucirakacakalāpā rājakaññāya tassā
munivaradasanaṃ taṃ ambaraṃ uppatitvā,
asitajaladagabbhā niggatevindulekhā,
ujurajatasalākāsannibhe muñci raṃsī.
Chiếc răng cao quý ấy của đấng Mâu Ni đã từ búi tóc xinh đẹp của nàng công chúa ấy bay lên không trung và đã phát ra các ánh hào quang tợ như những lưỡi gươm bằng bạc thẳng tắp trông giống như ánh trăng tỏa sáng từ bầu trời trong vắt.
52/- Atulitamanubhāvaṃ dhātuyā pekkhataṃ taṃ
pamuditahadayānaṃ taṅkhaṇe pannagānaṃ,
paṭiravabharitānaṃ sādhuvādādikānaṃ
gaganamapariyantaṃ v ’āsi vitthāritānaṃ.
Vào giây phút ấy, trong khi các con rồng với tâm trạng hoan hỷ đang chiêm ngưỡng năng lực vô biên ấy của xá-lợi, thì bầu trời vô tận đã có các tiếng nói như là “Sādhu, lành thay!” v.v… kèm theo tiếng vang dội lan rộng.
53/- Pavisi sugatadāṭhādhātu sā moḷigabbhaṃ
puna gaganatalamhā otaritvāna tassā,
phaṇadharanivahā te taṃ tariṃ vārayitvā
mahamakarumudāraṃ sattarattindivamhi.
Xá-lợi răng ấy của đấng Thiện Thệ đã từ bầu trời hạ xuống rồi ngự ở trên búi tóc của nàng ấy. Những con rồng ấy đã cản chiếc tàu ấy lại và đã tổ chức lễ hội trọng thể bảy ngày đêm.
54/- Acalamiva vimānaṃ antaḷikkhamhi nāvaṃ
gativirahitamambhorāsimajjhamhi disvā,
bhayavilulitacittā jampatī te samaggā
dasabalatanujaṃ taṃ iddhimantaṃ sariṃsu.
Nhận thấy chiếc thuyền không còn di chuyển ở giữa biển khơi y như là lầu đài bất động ở trên không trung, hai vợ chồng sanh tâm xao động vì hoảng sợ, rồi đồng lòng tưởng nhớ đến vị đệ tử có thần thông ấy của đấng Thập Lực.
55/- Sapadi munisuto so cittamesaṃ viditvā
nabhasi jaladharālī maddamāno ’bhigantvā,
vihagapatisarīraṃ māpayitvā mahantaṃ
bhayacakitabhujaṅge te palāpesi khippaṃ.
Vị đệ tử ấy của đấng Mâu Ni lập tức biết được tâm tư của họ liền đạp lên những đám mây ở trên không trung để tiến đến, rồi đã biến hóa thành lốt chim chúa khổng lồ, và đã mau chóng đuổi đi đám rồng đang bị hoảng hốt vì sợ hãi ấy.
56/- Itthaṃ buddhasute bhujaṅgajanitaṃ bhītiṃ sametvā gate
sā nāvā pavanā pakampitadhajā tuṅgaṃ taraṅgāvaliṃ,
bhindantī gativegasā puthutaraṃ meghāvalīsannibhaṃ
laṅkāpaṭṭanamotarittha sahasā therassa tass’ iddhiyā.
Như thế, sau khi đã xoa dịu nỗi sợ hãi do loài rồng gây ra, vị đệ tử của đức Phật đã ra đi. Chiếc thuyền ấy với ngọn cờ rung động bởi làn gió, trong lúc xẻ đôi các đợt sóng to giống như đám mây đen cực lớn bằng tốc độ di chuyển, đã mau chóng đến được bến tàu ở xứ Laṅkā nhờ vào năng lực của vị trưởng lão ấy.
Catuttho paricchedo.
(Đây là) chương thứ tư.
–ooOoo–
[1] Nay là thành phố Patnā.
[2] Danh hiệu của vị thần Kriṣṇa (đạo Hindu).
[3] Bốn vật dụng thiết yếu đối với đời sống: y phục, vật thực, chỗ trú ngụ, và thuốc men chữa bệnh.
[4] Tích chuyện này và các tích chuyện kế tiếp được trích dẫn từ Jātaka (Kinh Bổn Sanh).
[5] Năm hạng Ma Vương: Phiền não Ma Vương (kilesamāra), Ngũ uẩn Ma Vương (khandhamāra), Pháp hành Ma Vương (abhisaṅkhāramāra), Thiên Tử Ma Vương (devaputtamāra), Tử thần Ma Vương (maccumāra).
-ooOoo-