Trích dẫn những tích như sau:
* Tích Suvaṇṇakārattheravatthu đệ-tử của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta được tóm lược như sau:
Người con trai của người thợ vàng còn trẻ xuất gia trở thành tỳ-khưu, là đệ-tử của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, Ngài nghĩ rằng: “Người trai trẻ thường có tham-ái”, nên Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy đệ-tử với đề-mục thiền-định asubha: Bất tịnh, để diệt tham-ái, nhưng đề-mục thiền-định này không phù hợp với bản-tính và trí-tuệ của vị tỳ-khưu trẻ.
Thật vậy, vị tỳ-khưu trẻ đi vào rừng cố gắng tinh-tấn không ngừng suốt 4 tháng mà vẫn không phát sinh nimitta nào cả. Vị tỳ-khưu trở về đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, thầy tế độ, trình bạch về pháp-hành của mình như vậy.
Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta nghĩ rằng: “Vị tỳ-khưu trẻ này thuộc về sự tế độ của Đức-Phật”.
Cho nên, Ngài Đại-Trưởng-lão dẫn người đệ-tử đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con dạy đề-mục thiền-định cho vị tỳ-khưu trẻ này, vị tỳ-khưu này đã thực-hành pháp-hành thiền-định suốt 4 tháng mà vẫn không thể phát sinh nimitta nào, nên con nghĩ rằng: Vị tỳ-khưu này thuộc sự tế độ của Đức-Thế-Tôn, nên con dẫn vị tỳ-khưu này đến hầu Đức-Thế-Tôn.
Đức-Thế-Tôn truyền hỏi rằng:
– Này Sāriputta! Con dạy đề-mục thiền-định nào cho đệ-tử của con vậy?
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con dạy đề-mục thiền-định asubha: Bất tịnh cho đệ-tử của con.
– Này Sāriputta! Con không có trí-tuệ đặc biệt āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ bản-tính cố hữu và mọi phiền-não ngấm ngầm của chúng-sinh, nên con dạy đề-mục thiền-định không phù hợp với đệ-tử.
– Này Sāriputta! Con nên trở về, người đệ-tử ở lại.
Đức-Thế-Tôn suy xét thấy vị tỳ-khưu trẻ xuất thân từ gia đình người thợ vàng, và tiền-kiếp suốt 500 kiếp đều sinh trong gia đình thợ vàng, y cũng là người thợ làm vàng giỏi khéo tay, nên quen thấy vàng, cho nên đề-mục thiền-định asubha: Bất tịnh là đề-mục thiền-định không phù hợp với tỳ-khưu trẻ này.
Đức-Thế-Tôn hóa ra một đóa hoa sen hồng bằng gang tay thật là xinh đẹp ban cho tỳ-khưu trẻ với lời truyền dạy rằng:
– Này tỳ-khưu! Con hãy đem đóa hoa sen này cắm trên gò đất đằng sau tăng xá, rồi ngồi thực-hành pháp-hành thiền-định, hướng tâm đến đóa hoa sen ấy bằng cách niệm thầm trong tâm rằng: “Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… Màu đỏ,… Màu đỏ,… Màu đỏ,…
Khi đón nhận đóa hoa sen từ trên tay của Đức-Phật, vị tỳ-khưu trẻ cảm nhận vô cùng hoan hỷ, vâng theo lời dạy của Đức-Phật, vị tỳ-khưu trẻ đi đến sau tăng xá, cắm đóa hoa sen trên gò đất, rồi ngồi thực-hành pháp-hành thiền-định, hướng tâm đến đóa hoa sen ấy bằng cách niệm thầm trong tâm rằng:
“Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… Lohitakaṃ,… Màu đỏ,… Màu đỏ,… Màu đỏ,…
Vị tỳ-khưu trẻ chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại, nên đối-tượng uggahanimitta phát sinh, rồi tiếp theo đối-tượng paṭibhāganimitta phát sinh, chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm, rồi tiếp tục chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, cho đến chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm cuối cùng tại nơi ấy, chưa thay đổi chỗ ngồi.
Đức-Phật dõi theo biết rõ vị tỳ-khưu trẻ này đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm rồi. Ngài suy xét rằng: “Tỳ-khưu ấy có khả năng tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn hay không?”
Biết rõ tỳ-khưu ấy không có khả năng, nên Đức-Phật biến đóa hoa sen ấy cho héo tàn, các cánh sen rơi rụng xuống đất.
Vị tỳ-khưu xả thiền ra, ngồi thấy đóa sen héo tàn như vậy, nên nghĩ rằng: “Đóa hoa sen nở thật là xinh đẹp vừa mới đây, nay đóa hoa sen bị héo tàn, các cánh sen rơi rụng cả, đến nhuỵ sen cũng không còn, nay chỉ còn trơ trọi gương sen mà thôi. Sự già của đóa hoa sen như thế nào, rồi sự già ấy chắc chắn cũng sẽ xảy đến trong thân của ta. Các pháp-hữu-vi thật là vô-thường!”
Vị tỳ-khưu bắt đầu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, trí-tuệ thiền-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ toàn thân đó là sắc-pháp có sự sinh, sự diệt, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.
Khi ấy, dõi theo biết tâm của vị tỳ-khưu đã phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ rồi, nên Đức-Phật từ Gandhakuṭi phóng hào quang như ngự đến trước mặt thuyết dạy bài kệ rằng:
“Ucchinda sinehamattano,
kumudaṃ sāradikaṃva pāṇinā.
Santimaggameva brūhaya,
Nibbānaṃ Sugatena desitaṃ.”
– Này tỳ-khưu! Con hãy nên diệt tận tâm tham-ái say mê trong thân của con bằng A-ra-hán Thánh-đạo-tuệ, như người cắt đứt đóa hoa sen trắng trong mùa sārada tháng 10 bằng lưỡi dao sắc bén.
Con hãy nên tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo chứng ngộ Niết-bàn mà Như-Lai đã thuyết giảng.
Sau khi lắng nghe bài kệ xong, vị tỳ-khưu liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có 2 loại trí-tuệ đặc biệt:
1- Indriyaparopariyattañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ 5 pháp-chủ: Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ già dặn hoặc non yếu của mỗi chúng-sinh.
2- Āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ bản-tính cố hữu, thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp, và mọi phiền-não ngấm ngầm của mỗi chúng-sinh.
Ngoài Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác ra, các bậc Thánh Thanh-văn đệ-tử không có một vị nào có 2 loại trí-tuệ đặc biệt này, dù Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta là bậc Thánh Tối-thượng-Thanh-văn-giác có trí-tuệ siêu-việt cũng không có 2 loại trí-tuệ đặc biệt này.
Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có 2 loại trí-tuệ đặc biệt này, nên mỗi khi Đức-Phật thuyết pháp tế độ chúng-sinh nào, chắc chắn chúng-sinh ấy được sự lợi ích, sự tiến hóa sự an-lạc lâu dài.
* Tích Aniccalakkhaṇavatthu
Một thuở nọ, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthī. Khi ấy, 500 vị tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin đề-mục-thiền.
Đức-Phật suy xét rằng: “Đề mục thiền nào là pháp-hành phù hợp với nhóm tỳ-khưu này?”
Đức-Phật biết rõ nhóm tỳ-khưu này trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa thường hay thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của ngũ-uẩn, đặc biệt quan tâm đến trạng-thái vô-thường, nên Đức-Phật truyền dạy rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Tất cả các pháp-hữu-vi trong tam-giới: Dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới đều có sự sinh, sự diệt là vô-thường, có nghĩa là có rồi không có.
Đức-Phật thuyết dạy bài kệ rằng:
“Sabbe saṅkhārā aniccā’ti, yadā paññāya passati.
Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā.”
Tất cả các pháp-hữu-vi đều là vô-thường.
Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái vô-thường.
Khi thấy rõ như vậy, trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán khổ trong ngũ-uẩn này.
Hành-giả chứng ngộ khổ Thánh-đế đã biết, nhân sinh khổ Thánh-đế đã diệt, v.v…
Đó là Thánh-đạo thanh-tịnh trong sạch này.
Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết giảng xong bài kệ, tất cả nhóm 500 tỳ-khưu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.
* Tích Dukkhalakkhaṇavatthu
Cũng như trường hợp trên, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthī. Khi ấy, 500 vị tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin đề-mục-thiền.
Đức-Thế-Tôn suy xét rằng: “Đề-mục-thiền nào là pháp-hành phù hợp với nhóm tỳ-khưu này?”
Đức-Phật biết rõ nhóm tỳ-khưu này trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, thường hay thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của ngũ-uẩn, đặc biệt quan tâm đến trạng-thái khổ, bởi vì ngũ-uẩn sinh rồi diệt vô-thường, trạng-thái khổ luôn luôn hành hạ, nên Đức-Phật truyền dạy rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Tất cả các pháp-hữu-vi trong tam-giới: Dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới đều có sự sinh, sự diệt là vô-thường, nên sự thật chỉ có khổ mà thôi, có nghĩa là luôn luôn hành hạ.
Đức-Phật thuyết dạy bài kệ rằng:
“Sabbe saṅkhārā dukkhā’ti, yadā paññāya passati.
Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā.”
Tất cả các pháp-hữu-vi đều là khổ,
Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái khổ,
Khi thấy rõ như vậy, trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán khổ trong ngũ-uẩn này.
Hành-giả chứng ngộ khổ Thánh-đế đã biết, nhân sinh khổ Thánh-đế đã diệt, v.v…
Đó là Thánh-đạo thanh-tịnh trong sạch này.
Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết giảng xong bài kệ, tất cả nhóm 500 tỳ-khưu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.
* Tích Anattalakkhaṇavatthu
Cũng như trường hợp trên, Đức-Thế-Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthī. Khi ấy, 500 vị tỳ-khưu đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, kính xin đề-mục-thiền.
Đức-Phật suy xét rằng: “Đề-mục-thiền nào là pháp-hành phù hợp với nhóm tỳ-khưu này?
Đức-Phật biết rõ nhóm tỳ-khưu này trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa thường hay thực-hành pháp-hành thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của ngũ-uẩn, đặc biệt quan tâm đến trạng-thái vô-ngã, bởi vì ngũ-uẩn sinh rồi diệt là vô-thường, khổ luôn luôn hành hạ, vô chủ, không chiều theo ý muốn của ai, nên Đức-Phật truyền dạy rằng:
– Này chư tỳ-khưu! Tất cả ngũ-uẩn này là pháp-vô-ngã thật sự, có nghĩa là không chiều theo ý muốn của ai cả, nên không thể muốn rằng: Xin ngũ-uẩn của tôi đừng già, đừng bệnh, đừng chết.
Đức-Phật thuyết dạy bài kệ rằng:
“Sabbe dhammā anattā’ti, yadā paññāya passati.
Atha nibbindati dukkhe, esa maggo visuddhiyā.”
Tất cả ngũ-uẩn này đều là vô-ngã.
Khi nào trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái vô-ngã,
Khi thấy rõ như vậy, trí-tuệ thiền-tuệ nhàm chán khổ trong ngũ-uẩn này.
Hành-giả chứng ngộ khổ Thánh-đế đã biết, nhân sinh khổ Thánh-đế đã diệt, v.v…
Đó là Thánh-đạo thanh-tịnh trong sạch này.
Sau khi lắng nghe Đức-Phật thuyết giảng xong bài kệ, tất cả nhóm 500 tỳ-khưu thực-hành pháp-hành thiền-tuệ liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế,chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy.
Những trường hợp như vậy hầu như rất nhiều trong Tam-Tạng Pāḷi và các Chú-giải Pāḷi, bởi vì chỉ có Đức-Phật mới biết được bản-tính, thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp, 10 pháp-hạnh ba-la-mật, 5 pháp-chủ già dặn hoặc non yếu, mọi phiền-não ngấm ngầm của mỗi chúng-sinh mà thôi.
Ngoài Đức-Phật-Chánh-Đẳng-giác ra, không có một bậc Thánh Thanh-văn nào có khả năng biết được như vậy.
Không ai biết được nghiệp tiềm tàng của mình
Kiếp hiện-tại của mỗi chúng-sinh nói chung, của mỗi người nói riêng là kết quả một phần nhỏ quả của nghiệp được biểu hiện. Còn phần lớn tất cả mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp tiềm tàng trong tâm của mình được tích lũy từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại, tự mình không có khả năng biết được và những người khác cũng không thể biết rõ được. Tuy nhiên, duy nhất chỉ có Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác mới biết được khả năng tiềm tàng của mỗi chúng-sinh mà thôi.
Thật vậy, Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthakatthera trong tích Cūḷapanthakattheravatthu được tóm lược như sau:
Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthakatthera có sư huynh là Ngài Trưởng-lão Mahāpanthakatthera xuất gia trước, đã trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Về sau, Ngài Trưởng-lão Mahāpanthakatthera dẫn dắt người em là Cūḷapanthaka xuất gia trở thành tỳ-khưu. Sau khi trở thành tỳ-khưu, tỳ-khưu Cūḷapanthaka trở thành tỳ-khưu kém trí nhớ.
Thật vậy, Ngài Trưởng-lão Mahāpanthakatthera dạy tỳ-khưu Cūḷapanthaka một bài kệ gồm có 4 câu mà suốt 4 tháng Ngài vẫn chưa học thuộc lòng được.
Một hôm, Ngài Trưởng-lão Mahāpanthakatthera bảo với sư đệ Cūḷapanthaka rằng:
– Này Cūḷapanthaka! Dường như sư đệ không có đầy đủ phước duyên trong Phật-giáo, cho nên một bài kệ mà sư đệ học suốt 4 tháng vẫn chưa thuộc lòng được. Còn phận sự thực-hành phạm-hạnh cao thượng để giải thoát khổ làm sao được!
Vậy, sư đệ nên rời khỏi ngôi chùa Ambavana này, trở về nhà trở thành cận-sự-nam tạo bồi bổ thêm các pháp-hạnh ba-la-mật.
Nghe sư huynh của tỳ-khưu Cūḷapanthaka truyền bảo như vậy, thật tâm của tỳ-khưu Cūḷapanthaka hoàn toàn không muốn trở lại đời sống của người tại gia, bởi vì tỳ-khưu Cūḷapanthaka có đức-tin trong sạch tha thiết trong Phật-giáo, nhưng đành phải vâng lời sư huynh.
Hôm ấy, cận-sự-nam Jīvaka Komārabhacca là quan ngự-y của Đức-vua Bimbisāra trong kinh-thành Rājagaha đến ngôi chùa Ambavana đảnh lễ Đức-Phật, rồi lắng nghe Đức-Phật thuyết-pháp.
Sau khi nghe pháp xong, cận-sự-nam Jīvaka đến gặp Ngài Trưởng-lão Mahāpanthakatthera bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, trong ngôi chùa này có bao nhiêu vị tỳ-khưu?
– Này cận-sự-nam Jīvaka! Trong chùa có 500 vị tỳ-khưu.
– Kính bạch Ngài Trưởng-lão, sáng ngày mai, con xin kính thỉnh Đức-Phật ngự cùng với chư Đại-đức-Tăng gồm có 500 vị đến tư thất của con, để cho con cúng dường vật thực.
– Này cận-sự-nam Jīvaka! Sáng ngày mai, Đức-Phật cùng với chư Đại-đức-Tăng gồm có 499 vị đến tư thất của con, trừ tỳ-khưu Cūḷapanthaka ra.
Nghe sư huynh của tỳ-khưu Cūḷapanthaka nói với cận-sự-nam Jīvaka như vậy, thì tỳ-khưu Cūḷapanthaka không còn hy vọng ở lưu lại tại ngôi chùa Ambavana này được nữa. Tỳ-khưu Cūḷapanthaka cảm thấy vô cùng khổ tâm cùng cực.
Canh chót đêm hôm ấy, Đức-Phật xả đại-bi thiền, xem xét chúng-sinh nào có phước duyên nên tế độ, thì thấy rõ tỳ-khưu Cūḷapanthaka hiện ra, Đức-Phật thấy rõ, biết rõ tỳ-khưu Cūḷapanthaka sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Đức-Phật tế độ tỳ-khưu Cūḷapanthaka
Sáng sớm hôm ấy, Đức-Phật ngự ra trước cổng chùa đi kinh hành chờ gặp tỳ-khưu Cūḷapanthaka.
Cũng sáng sớm hôm ấy, tỳ-khưu Cūḷapanthaka rời khỏi ngôi chùa Ambavana, đi trở về nhà. Nhìn thấy Đức-Phật tỳ-khưu Cūḷapanthaka liền đến đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Đức-Phật.
Đức-Phật truyền hỏi rằng:
– Này Cūḷapanthaka! Con đi đâu từ sáng sớm vậy?
Tỳ-khưu Cūḷapanthaka kính bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, sư huynh của con bảo rằng: “Con nên rời khỏi ngôi chùa Ambavana, trở về nhà, trở thành cận-sự-nam, bởi vì con là người kém trí nhớ.” Bạch Ngài.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
– Này Cūḷapanthaka! Con là tỳ-khưu trong giáo pháp của Như-Lai, sư huynh bảo con rời khỏi ngôi chùa Ambavana, sao con không đến với Như-Lai?
– Này Cūḷapanthaka! Con hãy đến với Như-Lai.
Đức-Phật đưa bàn tay mềm mại có dấu bánh xe sờ trên đầu của tỳ-khưu Cūḷapanthaka, rồi dẫn đến cốc Gandhakuṭi. Đức-Phật truyền bảo tỳ-khưu Cūḷapanthaka ngồi trước cốc Gandhakuṭi, ban cho một miếng vải trắng mới sạch sẽ phát sinh do thần thông, rồi truyền dạy rằng:
– Này Cūḷapanthaka! Con nên ngồi quay mặt về hướng Đông, hai tay vò miếng vải này, đồng thời niệm trong tâm rằng: “Rajoharaṇaṃ,… Rajoharaṇaṃ,… Rajoharaṇaṃ, … Vải lau bụi dơ,… Vải lau bụi dơ,… Vải lau bụi dơ,…”
Khi ấy đến giờ, cận-sự-nam Jīvaka bảo gia nhân đến kính thỉnh Đức-Phật ngự cùng với chư Đại-đức-Tăng gồm có 499 vị đến tư thất của ông (không có tỳ-khưu Cūḷapanthaka).
Tỳ-khưu Cūḷapanthaka trở thành bậc Thánh A-Ra-Hán
Vâng theo lời dạy của Đức-Phật, tỳ-khưu Cūḷapanthaka ngồi nhìn về phía mặt trời, vò miếng vải ấy, đồng thời niệm trong tâm rằng: “Rajoharaṇaṃ,… Rajoharaṇaṃ,… Rajoharaṇaṃ,…” “Vải lau bụi dơ,… Vải lau bụi dơ,… Vải lau bụi dơ,…”
Khi vò miếng vải mới sạch sẽ ấy, miếng vải ấy trở nên dơ bẩn, tỳ-khưu Cūḷapanthaka thấy miếng vải ấy dơ bẩn như vậy, nên nghĩ rằng: “Miếng vải mới sạch sẽ thật sự, nhưng khi tiếp xúc với thân thể này của ta, miếng vải mới sạch sẽ không còn sạch như trước nữa, nay miếng vải ấy trở nên dơ bẩn như vậy.
Tất cả pháp-hữu-vi đều là vô-thường nhỉ!
Tỳ-khưu Cūḷapanthaka thực-hành pháp-hành thiền-tuệ, phát sinh trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của sắc-pháp, của danh-pháp, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: Trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, của danh-pháp.
Đức-Phật dõi theo biết rõ rằng: “Tâm của Cūḷa-panthaka đã có trí-tuệ thiền-tuệ rồi”. Đức-Phật phóng hào quang hiện đến ngồi trước mặt tỳ-khưu Cūḷa-panthaka truyền dạy rằng:
– Này Cūḷapanthaka! Con không chỉ biết đến miếng vải ấy dơ bẩn vì bụi dơ, mà con còn phải biết những bụi dơ đó là rāga: Tham-dục, dosa: Sân-hận, moha: Si-mê ngấm ngầm ở trong tâm của con.
Con hãy nên diệt tận tham-dục, sân-hận, si-mê không còn nữa.
Đức-Phật thuyết dạy 3 bài kệ rằng:
“Rāgo rajo na ca pana reṇu vuccati…”
“Doso rajo na ca pana reṇu vuccati…”
“Moho rajo na ca pana reṇu vuccati…”
Ý Nghĩa
– Bụi dơ đó là tham-dục, bụi dơ không có nghĩa là bụi dơ, mà bụi dơ là tên gọi của tham-dục.
Chư tỳ-khưu đã diệt tận được bụi dơ tham-dục ấy rồi, sống trong giáo-pháp của Đức-Phật không còn bụi dơ ấy.
– Bụi dơ đó là sân-hận, bụi dơ không có nghĩa là bụi dơ, mà bụi dơ là tên gọi của sân-hận.
Chư tỳ-khưu đã diệt tận được bụi dơ sân-hận ấy rồi, sống trong giáo-pháp của Đức-Phật không còn bụi dơ ấy.
– Bụi dơ đó là si-mê, bụi dơ không có nghĩa là bụi dơ, mà bụi dơ là tên gọi của si-mê.
Chư tỳ-khưu đã diệt tận được bụi dơ si-mê ấy rồi, sống trong giáo-pháp của Đức-Phật không còn bụi dơ ấy.
Sau khi lắng nghe 3 bài kệ xong, Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka thực-hành pháp-hành thiền-tuệ liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt tận được tham-dục, sân-hận, si-mê không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cùng với tứ-tuệ-phân-tích (paṭisambhidā), các phép-thần-thông (abhiññā), đặc biệt thông suốt Tam-Tạng Pāḷi (tīṇi piṭakāni).
Tại tư thất, cận-sự-nam Jīvaka Komārabhacca đem dâng nước đến kính dâng lên Đức-Phật.
Đức-Phật truyền bảo cận-sự-nam Jīvaka rằng:
– Này Jīvaka! Trong ngôi chùa Ambavana còn có tỳ-khưu phải không ?
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài Trưởng-lão Mahā-panthaka cho con biết không còn tỳ-khưu nào trong ngôi chùa Ambavana nữa.
– Này Jīvaka! Trong ngôi chùa Ambavana vẫn còn có tỳ-khưu.
Nghe Đức-Phật truyền dạy như vậy, cận-sự-nam Jīvaka bảo gia nhân rằng:
– Này ngươi! Ngươi hãy mau lẹ đến ngôi chùa Amba-vana, để biết còn có tỳ-khưu nào, hãy mau trở về báo ngay!
Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka hóa ra ngàn tỳ-khưu
Khi ấy, Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka nghĩ rằng: Ta sẽ hóa ra ngàn tỳ-khưu mà mỗi nhóm đều làm mỗi công việc khác nhau như học kinh, may y, v.v… quét dọn sạch sẽ trong ngôi chùa Ambavana này.
Gia nhân của ông cận-sự-nam Jīvaka đến chùa, nhìn thấy nhiều vị tỳ-khưu trong ngôi chùa, nên y liền trở về trình cho ông chủ Jīvaka biết trong ngôi chùa Ambavana có nhiều vị tỳ-khưu.
Cận-sự-nam Jīvaka kính bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, trong ngôi chùa Amba-vana có nhiều vị tỳ-khưu.
Đức-Phật truyền bảo rằng:
– Này Jīvaka! Con hãy nên bảo gia nhân rằng: “Đức-Thế-Tôn truyền bảo tỳ-khưu tên Cūḷapanthaka đến hầu”.
Khi gia nhân đi đến ngôi chùa Ambavana, nói lời truyền bảo của Đức-Phật, thì cả ngàn vị tỳ-khưu đều xưng tên rằng: “Tôi là tỳ-khưu Cūḷapanthaka, tôi là tỳ-khưu Cūḷapanthaka”.
Người nhà trở về kính bạch lên Đức-Phật rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con nghe cả ngàn vị tỳ-khưu đều xưng tên mình là tỳ-khưu Cūḷapanthaka.
Đức-Phật truyền dạy rằng:
– Này con! Nếu như vậy thì con nghe vị tỳ-khưu nào xưng tên trước rằng: “Tôi là tỳ-khưu Cūḷapanthaka”.
Con hãy đến thỉnh vị tỳ-khưu ấy, các vị tỳ-khưu còn lại sẽ đều biến mất.
Vâng lời dạy của Đức-Phật, gia nhân của cận sự nam Jīvaka đến thỉnh vị tỳ-khưu xưng tên trước, các vị tỳ-khưu còn lại đều biến mất ngay tức khắc.
Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka thuyết pháp
Sau khi Đức-Phật cùng chư Đại-đức Tăng thọ thực xong, Đức-Phật truyền bảo cận-sự-nam Jīvaka rằng:
– Này Jīvaka! Con hãy nên đón nhận bát của tỳ-khưu Cūḷapanthaka, rồi thỉnh tỳ-khưu Cūḷapanthaka thuyết pháp và nói lời chúc phúc hoan hỷ phước-thiện bố-thí cúng dường của con hôm nay.
Vâng lời truyền dạy của Đức-Phật, cận-sự-nam Jīvaka đến nhận bát của tỳ-khưu Cūḷapanthaka, rồi thỉnh Ngài Trưởng-lão thuyết pháp.
Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka thuyết pháp với giọng hay, thông thuộc, thấu suốt Tam-Tạng Pāḷi, nói lời chúc phúc hoan hỷ làm cho số đông phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ trong lời dạy của Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka.
Đức-Phật ngự trở về ngôi chùa Ambavana cùng với nhóm chư Đại-đức-Tăng gồm có đủ 500 vị tỳ-khưu.
Nghiệp quá-khứ của Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka
Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka là 1 trong 80 vị Thánh A-ra-hán Đại-Thanh-văn, có phép thần thông biến hóa theo tâm xuất sắc nhất trong các hàng Thánh Thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật Gotama.
Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka vốn là vị đã từng tạo 10 pháp-hạnh ba-la-mật suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất, kể từ thời-kỳ Đức-Phật Padumuttara cho đến kiếp chót trong thời-kỳ Đức-Phật Gotama.
Vấn: Do nguyên nhân nào mà kiếp chót của Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka khi xuất gia trở thành tỳ-khưu, thì Ngài Trưởng-lão trở nên vị tỳ-khưu kém trí nhớ, học một bài kệ gồm có 4 câu, dù Ngài Trưởng-lão cố gắng tinh-tấn ngày đêm suốt 4 tháng vẫn không thuộc lòng được. Cho nên sư huynh của Ngài là Ngài Trưởng-lão Mahāpanthaka là bậc Thánh A-ra-hán nghĩ rằng:
Tỳ-khưu Cūḷapanthaka không có đủ phước duyên trong Phật-giáo, nên khuyên Ngài trở về nhà trở thành cận-sự-nam tạo bồi bổ các pháp-hạnh ba-la-mật vậy?
Đáp: Trong thời-kỳ Đức-Phật Kassapa, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka là vị tỳ-khưu có nhiều trí-tuệ, thông suốt Tam-Tạng Pāḷi.
Khi tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão nghe vị tỳ-khưu học Pāḷi, đọc đi đọc lại nhiều lần mà không thuộc, nên Ngài cười chế nhạo, làm cho vị tỳ-khưu ấy cảm thấy hổ thẹn, rồi bỏ học thuộc lòng Pāḷi.
Do ác-nghiệp quá-khứ ấy trong tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão cho quả, nên kiếp hiện-tại khi xuất gia trở thành tỳ-khưu thì trở nên vị tỳ-khưu kém trí nhớ, học một bài kệ gồm có 4 câu, dù tỳ-khưu cố gắng tinh-tấn ngày đêm suốt 4 tháng vẫn không thuộc lòng được.
Vấn Do nguyên nhân nào mà Đức-Phật ban cho tỳ-khưu Cūḷapanthaka miếng vải mới sạch sẽ, rồi truyền dạy tỳ-khưu dùng 2 tay vò miếng vải ấy, đồng thời niệm tưởng trong tâm rằng: “Rajoharaṇaṃ, …” như vậy?
Đáp: Trong thời quá-khứ, tiền-kiếp của Ngài Trưởng-lão Cūḷapanthaka là Đức-vua. Một hôm, Đức-vua ngự trên con voi báu đi quan sát quanh kinh-thành lúc trời nắng nóng, mồ hôi chảy ra trên trán.
Đức-vua dùng khăn vải trắng mới sạch sẽ lau mồ hôi trên trán, làm cho chiếc khăn vải trắng ấy đã bị dơ bẩn. Đức-vua phát sinh động tâm về vô-thường, bất-tịnh rằng: “Chiếc khăn vải trắng mới sạch sẽ khi tiếp xúc, lau sắc-thân này thì không còn sạch sẽ như xưa nữa. Chiếc khăn bị dơ bẩn, bởi vì thân thể của ta dơ bẩn”.
Tất cả các pháp-hữu-vi đều là vô-thường cả!
Đức-Phật thấy rõ, biết rõ nguyên nhân quá-khứ ấy, nên kiếp hiện-tại Đức-Phật ban cho tỳ-khưu Cūḷapanthaka miếng vải trắng sạch sẽ, rồi truyền dạy Ngài Trưởng-lão dùng 2 tay vò miếng vải ấy, đồng thời niệm tưởng trong tâm rằng: “Rajoharaṇaṃ, …” như vậy. Khi thấy miếng vải bị dơ mà Ngài thấy rõ thân ô trọc, đó là đối-tượng thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán.
Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có 2 loại trí-tuệ đặc biệt:
1- Indriyaparopariyattañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ 5 pháp-chủ: Tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ già dặn hoặc non yếu của mỗi chúng-sinh.
2- Āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ bản-tính cố hữu, thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp, và mọi phiền-não ngấm ngầm của mỗi chúng-sinh.
Vì vậy, Đức-Phật thấy rõ, biết rõ quá-khứ, hiện-tại và vị-lai của mỗi chúng-sinh, cho nên, khi Đức-Phật tế độ chúng-sinh nào, chắc chắn chúng-sinh ấy được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.