CHƯƠNG THỨ NHẤT 

Evamme suttam …

Ta có nghe như vầy: Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại chùa Ambavana (vườn xoài) của ông Jīvaka Komāra Bhacca gần thành Rajagaha (Vương Xá) xứ Magadha (Ma-kiệt-đà) cùng 1250 vị tỳ khưu câu hội nơi ấy.

Lúc bấy giờ, đức vua Ajatasattu (A-Xà-Thế) đang trị vì trong xứ Magadha. Một hôm, đêm rằm tháng mười, nhằm ngày lễ phát lộ là ngày cuối cùng của bốn tháng mùa mưa, đức vua đang ngự trong đền báu, có cả quan, quân chầu chực, khi ấy đức vua phán rằng: “Đêm nay trăng tỏ rạng rất tốt đẹp, đáng vui thú lắm, đáng nhìn xem, đáng trong sạch, vậy, ta nên hiểu biết cái chi trong đêm nay có ích lợi? Ta nên tìm đến người nào, hoặc sa-môn hoặc bà-la-môn nào, đến ngồi gần để phát tâm trong sạch được?”

Khi Ngài phán hỏi như thế thì có một vị quan quỳ xuống tâu rằng: “Tâu Đại vương, vị giáo chủ tên Puraṇa Kassapa là bậc có nhiều môn đệ, là thầy của một giáo phái, có nhiều thanh danh, có chủ nghĩa, nhiều người cho là bậc trí thức, là bậc đã có nhiều kinh nghiệm, tu thật lâu, bây giờ đã lão thành, vậy xin lịnh Hoàng thượng đến viếng vị ấy. Nếu Bệ hạ đến viếng Ngài thì chắc chắn thế nào cũng được thỏa mãn như ý muốn không sai”. Khi vị quan ấy tâu xong đức vua vẫn ngồi làm thinh yên lặng.

Kế tiếp có một vị quan khác lại quỳ xuống tâu rằng: “Tâu lịnh Đại vương, có vị giáo chủ tên Makkhali Gosāla là bậc có nhiều đồ đệ, là thầy của một giáo phái, có nhiều danh tiếng, có chủ nghĩa, nhiều người cho là bậc trí thức, là bậc đã từng trải, đã xuất gia thật lâu, bây giờ đã đến tuổi lão thành, vậy xin Bệ hạ đến viếng vị ấy. Nếu Bệ hạ đến viếng ngài thì chắc chắn thế nào cũng được thỏa mãn như ý muốn không sai”. Khi vị quan ấy tâu xong đức vua cũng vẫn làm thinh như trước.

Kế đó có một vị quan khác lại quỳ xuống tâu rằng: “Tâu lịnh Hoàng thượng, có vị giáo chủ tên Ajitakesa Kambala…, có vị giáo chủ tên Pakudha Kaccāyana…, có vị giáo chủ tên Sañjaya Velaṭṭhaputta…, có vị giáo chủ tên Nigaṇḍha Nāṭaputta…, là bậc có nhiều môn đệ, là thầy của một giáo phái, có nhiều danh tiếng, có chủ nghĩa, nhiều người cho là bậc trí thức, là bậc đã có nhiều sự kinh nghiệm, đã xuất gia thật lâu, bây giờ đã đến tuổi lão thành, vậy xin Bệ hạ đến viếng vị ấy. Nếu Bệ hạ đến viếng ngài thì chắc chắn thế nào cũng được thỏa mãn như ý muốn không sai”. Vị quan ấy tâu xong đức vua cũng vẫn làm thinh lặng lẽ.

Lúc đó, có ông Jīvaka Komāra Bhacca3 cũng đang ngồi nơi ấy nhưng vẫn làm thinh, đức vua bèn phán hỏi rằng: “Ông Jīvaka tại sao lại làm thinh không nói lời chi cả?” Nhân câu hỏi ấy, ông mới thừa dịp mà tâu rằng: “Tâu lịnh Hoàng thượng, có Đức Phật là bậc Chánh Biến Tri, hiện nay đang ngự trong tịnh xá của hạ thần luôn cả 1250 vị tỳ khưu tăng. Đức Phật có nhiều thanh danh lừng lẫy như thế này: Ngài là bậc đã xa lìa các tội lỗi, bậc Chánh đẳng Chánh giác, bậc đầy đủ minh và hạnh, bậc đã đến nơi an lạc đại Niết-bàn, bậc thông suốt cả tam giới, bậc có nhiều đức hạnh, bậc dạy dỗ những người đáng dạy dỗ, bậc thầy cả Chư Thiên và nhân loại, bậc thông thấu lý tứ diệu đế, bậc không còn luân hồi lại nữa. Vậy xin Bệ hạ đến viếng Đức Phật, khi Bệ hạ đến viếng Ngài thì thế nào cũng được thỏa mãn như ý muốn không sai”. Khi ông Jīvaka tâu xong, đức vua liền nhận lời và ra lệnh cho ông Jīvaka sửa soạn xe giá ngựa cho Ngài đi viếng Đức Phật. Khi ông Jīvaka cho sửa soạn xong năm trăm thớt voi cái và một thớt voi đực bèn vào tâu với đức vua. Ngài lên ngự trên thớt voi chúa luôn cả năm trăm cung phi mỹ nữ mỗi người cũng đều ngự một thớt voi, luôn cả các quân tùy tùng cầm đèn đuốc sáng trưng, ra khỏi đền thẳng đến vườn Xoài của ông Jīvaka.

Khi đức vua A-Xà-Thế ngự gần đến vườn Xoài thì tâm phát sanh ghê sợ, kinh hồn, rởn ốc cả mình bèn nói với ông Jīvaka rằng: “Ông Jīvaka không gạt tôi chăng? Ông không dụ tôi chăng? Ông không dẫn tôi đem cho kẻ nghịch chăng? Vì chư tăng có nhiều đến 1250 vị mà sao không nghe tiếng ho hen, ồn ào chi cả?” Ông Jīvaka bèn tâu rằng: “Tâu Đại vương, xin

Đại vương đừng sợ, tôi không gạt, không dụ Đại vương đem cho kẻ nghịch đâu. Xin Đại vương cứ đi vào, đèn còn đương đốt nơi giảng đường đó”. Khi ấy đức vua A-Xà-Thế xuống voi đi chân không thẳng vào cửa giảng đường, đến nơi bèn hỏi ông Jīvaka: “Vậy chớ Đức Phật ngự nơi nào?” Ông Jīvaka trả lời rằng: “Đó, Đức Thế Tôn đang ngồi dựa vào cây cột giữa, day mặt về hướng đông đối diện với chư tăng”. Đức Vua liền đến gần nơi Phật ngự, đứng một nơi phải lẽ, khi đứng xong đức vua liếc nhìn chư Tăng đang ngồi im lìm yên tịnh hết thảy. Đức Vua thấy vậy nói rằng: “Chư Tăng đang yên tịnh như thế nào thì cầu xin cho Udaya Bhadda con tôi cũng được yên tịnh như thế ấy”.

Lúc ấy Đức Phật nói rằng: “Ô, Đại vương đến với sự quyến luyến tình thương mà”.

Kế đó đức vua liền đảnh lễ Đức Thế Tôn và chư Tăng xong rồi ngồi nơi phải lẽ. Khi ngồi xong, đức vua liền bạch với Đức Thế Tôn rằng: “Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài mở lòng bác ái cho phép tôi hỏi ít điều”.

– Đức Phật phán rằng: “Xin Đại vương tùy tiện hỏi đi”.

– “Bạch Đức Thế Tôn, như tất cả nghề nghiệp có nhiều sự lợi ích hiện tại như là: nghề chăn voi, chăn ngựa, đánh xe, bắn tên, cầm cờ, điểm binh, vận lương, người chiến sĩ, quân đội hùng dũng, quân đội thiết giáp, người làm tôi tớ, người buôn bán, người hớt tóc, tắm rửa cho người, người nấu ăn, người kết tràng hoa, thợ nhuộm, thợ đương (đan) vỉ, người làm đồ gốm, người kế toán, hoặc các nghề nghiệp khác đều có sự lợi ích, những người ấy có thể sinh sống với nghề nghiệp của mình, được thấy rõ hiện tại và có thể làm cho cha mẹ, vợ con, bậu bạn được sự an vui, hơn nữa cũng có thể làm được những phước lành cao thượng, do nhờ phước lành ấy mà có thể được sanh về cõi Thiên đàng, được an vui có mười điều thần phước quí báu4 cũng do nơi nghề nghiệp ấy. Bạch Đức Thế Tôn, Ngài có thể chế định và tuyên bố cho thấy rõ sự lợi ích hiện tại về quả báo của bậc sa-môn xuất gia không?

– Đức Phật hỏi lại rằng: “Có lẽ Đại vương đã hỏi các bậc sa-môn, bà-la-môn khác rồi chăng?”

– Bạch Đức Thế Tôn, tôi cũng đã có hỏi nhiều vị rồi.

– Vậy chớ các vị ấy đã giảng giải như thế nào? Nếu Đại vương không lầm lộn xin thuật lại nghe coi?

– Đức Vua bạch rằng: “Một ngày nọ, trong thành Vương Xá này, tôi5 có đến viếng một vị giáo chủ tên Purana Kassapa, sau khi câu chuyện hàn huyên để bày tỏ tình thân mật, tôi mới ngồi nơi phải lẽ. Ngồi xong, tôi liền bạch với vị giáo chủ Purana Kassapa rằng: ‘Bạch ngài, như tất cả nghề nghiệp có nhiều sự lợi ích hiện tại như là: nghề chăn voi… (cũng giống như cách hỏi Phật ở phía trước). Vậy chớ ngài có thể tuyên bố cho tôi biết về quả báo của bậc sa-môn xuất gia cho thấy rõ rệt hiện tại không?’ Bạch Đức Thế Tôn, khi tôi hỏi như thế thì thầy Purana Kassapa trả lời rằng: ‘Tâu Đại vương, có người nào tự mình làm điều tội lỗi hoặc xúi biểu kẻ khác làm; cắt tay chân người hoặc biểu kẻ khác cắt; hãm hại người hoặc biểu kẻ khác hãm hại; làm cho người đau khổ hoặc xúi biểu kẻ khác làm cho người đau khổ; làm khó dễ người hoặc xúi biểu kẻ khác làm khó dễ; tự mình kinh sợ hoặc làm cho kẻ khác kinh sợ; tự mình sát sanh hoặc xúi biểu kẻ khác sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói láo đều không gọi là làm điều tội lỗi; một lẽ nữa, nếu có người nào tàn sát, giết hại hết những nhân loại trên thế giới cho thành một đống thịt, do khí giới thật bén tinh xảo cũng vô tội và những hành vi ấy cũng không trả quả, dầu có người qua phía bên mặt con sông Hằng (Gangā) rồi sát sanh, cắt tay chân người, hãm hại kẻ khác hoặc xúi biểu kẻ khác v.v… những sự làm ấy cũng không trả quả. Hoặc có người qua phía bên mặt con sông Hằng rồi làm phước, cúng dường bố thí thì sự làm ấy cũng không kết quả chi đến người ấy đâu, hoặc có người làm lành, thu thúc thân khẩu nói lời chân chánh, thu thúc lục căn, tất cả những hành vi ấy cũng không trả quả’. Bạch Đức Thế Tôn, khi tôi hỏi thầy Purana Kassapa về quả báo của sự xuất gia, thầy không trả lời theo câu hỏi của tôi, trái lại giải về “vô hành kiến”, cũng ví như người hỏi về cây xoài lại trả lời về cây mít. Bạch Đức Thế Tôn, tôi nghĩ rằng: Người như tôi không lẽ trong sạch với các bậc xuất gia đang ở trong xứ mình mà người ta có thể chỉ trích được. Nhưng tôi không vui thích, không kích bác lời nói của thầy Kassapa, tâm tôi phiền phức nhưng không nói ra, chỉ không để ý đến lời nói ấy rồi đứng dậy ra về”.

“Bạch Đức Thế Tôn, một lúc nọ, trong thành Vương Xá này tôi có đến viếng một vị giáo chủ tên là Makkhali Gosāla, sau khi câu chuyện hàn huyên để bày tỏ tình thân mật, tôi mới ngồi nơi phải lẽ, ngồi xong tôi liền bạch với vị giáo chủ Makkhali Gosāla rằng: ‘Bạch ngài, như tất cả nghề nghiệp có nhiều sự lợi ích hiện tại như là: nghề chăn voi,… (như cách hỏi Phật ở phía trước), vậy ngài có thể tuyên bố cho tôi biết về sự lợi ích hiện tại của bậc xuất gia không?’ Bạch Đức Thế Tôn, khi tôi hỏi như thế thì thầy Makkhali liền trả lời rằng: ‘Tâu Đại vương, nguyên nhân làm cho chúng sanh nhơ bẩn hoặc trong sạch đều không có, chúng sanh trong sạch cũng không do một nơi nguyên nhân nào, hành vi của mình6, hành vi của kẻ khác cũng không có, sức lực con người, sự siêng năng, tinh tấn của con người cũng không có. Tất cả chúng sanh như lừa, ngựa… hoặc các các loại có thức tánh khác, hạng bhuta (noãn sanh) hoặc các loại mễ cốc đều không có thẩm quyền, sức lực, tinh tấn trong sự làm cho mình trong sạch hay là nhơ bẩn. Những căn sanh trọng đại7 có lối một triệu bốn trăm sáu ngàn sáu trăm loại (1.406.600), nghiệp có 500 thứ, nghiệp có năm thứ, có ba thứ, sự thực hành có 62, antara kappa là khoảng thời gian có 628, hạng người có 69, thời kỳ con người có 810, bọn Ajīvakā có 149, bọn Paribbājaka có 149, chỗ ở của Long Vương có 149, căn cứ có 120, địa ngục có 130, chất có 36, thai bào của chúng sanh hữu tưởng có 7, giống của các loại mễ cốc có 711, có 7 thứ ngạ quỷ, ao hồ có 7, động có 7 hay 700, thung lũng có 7 hay 700, chiêm bao có 7 hay 700, người ác hoặc thiện khi sanh tử trong vòng luân hồi độ chừng tám triệu kiếp thì tự nhiên sẽ dứt khỏi khổ. Nếu có người nhất định làm cho nghiệp chưa già cho già (là nghiệp chưa tròn đủ số), còn nghiệp đã già rồi thì cho dứt nghiệp, do nhờ giới hạnh, thực hành, tinh tấn hoặc xuất gia trong nhiều kiếp cũng không có kết quả chi, vì sự ráng làm cho dứt khỏi khổ, vui, ví như người đo lường đồ vật ấy không phải vậy đâu12. Sự suy vi của bậc tri thức, sự tấn hóa của kẻ ác cũng không có, thí dụ như cuồn chỉ vải người ta thải cho tháo ra hết như thế nào, kẻ ác người thiện khi tái sanh trong vòng luân hồi đúng thời kì nhất định rồi thì sẽ làm cho dứt khổ cũng được như thế ấy’. Bạch Đức Thế Tôn, khi tôi hỏi thầy Makkhali Gosāla về quả báo của sự xuất gia, thầy không trả lời theo câu hỏi của tôi, trái lại giải về “vô nhân kiến” và sự tiến hóa của vũ trụ, cũng ví như người hỏi về cây xoài lại trả lời về cây mít vậy. Bạch Đức Thế Tôn, tôi nghĩ rằng: Người như tôi không lẽ trong sạch với các bậc sa-môn, bà-la-môn đang cư ngụ trong lãnh thổ mình mà người ta có thể chỉ trích được, nhưng tôi chỉ không vui thích, cũng không ngăn cản lời nói của thầy Makkhali, tôi chỉ có phiền phức mà không nói ra, chỉ không để ý đến lời nói ấy rồi đứng dậy ra về”.

“Bạch Đức Thế Tôn, một lúc nọ, trong thành Vương Xá này tôi có đến viếng một vị giáo chủ tên là Ajīta Kesakambala, sau khi câu chuyện hàn huyên để bày tỏ tình thân mật, tôi mới ngồi nơi phải lẽ, khi ngồi xong tôi liền bạch với vị thầy Ajīta rằng: ‘Bạch ngài, như tất cả nghề nghiệp đều có đem lại nhiều sự lợi ích hiện tại như là: nghề chăn voi,… (như cách hỏi Phật ở phía trước), vậy ngài có thể tuyên bố chỉ định cho tôi thấy rõ sự lợi ích hiện tại của bậc sa-môn xuất gia không?’ Bạch Đức Thế Tôn, khi tôi hỏi như thế thì thầy Ajīta trả lời rằng: ‘Tâu Đại vương, sự bố thí, sự lễ tế, sự cúng dường thần lửa đều không có kết quả chi; sự hưởng quả tội hay phước cũng không có, đời hiện tại, đời vị lai cũng không có13, hành vi cung phụng phải quấy chi với cha mẹ cũng không có trả quả, chúng sanh thuộc hạng hóa sanh không có, các bậc sa-môn, bà-la-môn cùng nhau hành đạo cho đặng giác ngộ cũng không có, khi con người chết thì thân tứ đại: đất, nước, lửa, gió này sẽ trở thành tứ đại bên ngoài theo vũ trụ, lục căn cũng tiêu tan trên hư không chỉ còn bốn người khiêng cái giường tử thi đem ra mộ địa, tội lỗi, phước đức chi cũng chấm dứt nơi ấy, kết quả chỉ còn đống xương xám trắng thôi, các vật lễ làm hỏa táng ấy chỉ còn đống tro tàn là kết quả cuối cùng. Sự nói làm phước bố thí là được phước, đó là lời nói của kẻ ác nói láo vậy thôi, người thiện, người ác gì khi chết rồi cũng tiêu tan mất hết’. Bạch Đức Thế Tôn, tôi hỏi thầy Ajīta về quả báo của sự xuất gia, nhưng thầy không trả lời theo câu hỏi của tôi, trái lại giải về “đoạn kiến”, cũng ví như người hỏi về cây xoài lại trả lời về cây mít vậy. Bạch Đức Thế Tôn, tôi nghĩ rằng: Người như tôi không lẽ trong sạch với các bậc sa-môn, bà-la-môn đang cư ngụ trong lãnh thổ mình mà người ta có thể kích bác được. Tôi không thỏa thích, không bác bẻ lời nói của thầy Ajīta, tâm tôi phiền phức nhưng không nói ra, chỉ không để ý đến lời nói ấy rồi đứng dậy ra về”.

“Bạch Đức Thế Tôn, một lúc nọ, trong thành Vương Xá này tôi có đến viếng một vị giáo chủ tên là Pakudha Kaccāyana, sau khi câu chuyện hàn huyên để bày tỏ tình thân mật, tôi mới ngồi nơi phải lẽ, khi ngồi xong tôi liền bạch với vị thầy Pakudha rằng: ‘Bạch ngài, như tất cả nghề nghiệp đều có đem lại nhiều sự lợi ích hiện tại như là: nghề chăn voi,… (như cách hỏi Phật ở phía trước), vậy ngài có thể chế định cho tôi thấy rõ về sự quả báo của bậc xuất gia không?’ Bạch Đức Thế Tôn, khi tôi hỏi như thế thì thầy Pakudha trả lời rằng: ‘Tâu Đại vương, thân này có bảy thứ là: đất, nước, lửa, gió, vui, khổ, sanh mạng, bảy thứ này không có ai làm ra được, không có phương pháp nào để làm ra, không ai có thần thông mà biến hóa ra được, không ai tạo ra, có trạng thái tự nhiên vững chắc như núi non, như cột trụ, không rung động, thay đổi, không đụng chạm nhau, không thể làm cho nhau vui khổ được; tự mình giết hại hoặc bảo kẻ khác giết hại; tự mình nghe hoặc biểu kẻ khác nghe, tự mình biết hoặc làm cho kẻ khác biết cũng đều không có trong thân này. Hoặc như có người cắt đầu kẻ khác bằng khí giới thật bén cũng không phải ai giết ai cả, khí giới chỉ đi ngang qua khoảng giữa của bảy thứ chất ấy thôi’. Bạch Đức Thế Tôn, tôi hỏi thầy Pakudha về quả báo của sự xuất gia, nhưng thầy không trả lời theo câu hỏi của tôi, trái lại giải về chuyện phi lí đâu đâu, cũng ví như người hỏi về cây xoài lại trả lời về cây mít vậy. Bạch Đức Thế Tôn, tôi nghĩ rằng: Người như tôi không lẽ trong sạch với các bậc sa-môn, bà-la-môn đang cư ngụ trong lãnh thổ mình mà người ta có thể chỉ trích được. Tôi không vui thích, không kích bác lời nói của thầy Pakudha, tâm tôi phiền phức nhưng không nói ra, chỉ không để ý đến lời nói ấy rồi đứng dậy ra về”.

“Bạch Đức Thế Tôn, một lúc nọ, trong thành Vương Xá này tôi có đến viếng một vị giáo chủ tên là Nigaṇḍha Nāṭaputta, sau khi câu chuyện hàn huyên để bày tỏ tình thân mật, tôi mới ngồi nơi phải lẽ, khi ngồi xong tôi liền bạch với vị thầy Nigandha rằng: ‘Bạch ngài, như tất cả nghề nghiệp đều có đem lại nhiều sự lợi ích hiện tại như là: nghề chăn voi,… (như cách hỏi Phật ở phía trước), vậy ngài có thể chế định cho tôi thấy rõ về sự lợi ích hiện tại của bậc xuất gia không?’ Bạch Đức Thế Tôn, khi tôi hỏi như thế thì thầy Nigandha trả lời rằng: ‘Tâu Đại vương, trong đời này phái Nigaṇḍha chúng tôi phải thu thúc bốn điều là: 1- cấm không được dùng xài các thứ nước lạnh, 2- phải dùng các thứ nước, 3- phải dứt bỏ tội lỗi do mọi thứ nước, 4- phải rải các thứ nước16. Tâu Đại vương, phái Nigaṇḍha đã thu thúc trong bốn điều ấy nên người ta gọi là bậc đã thu thúc thân rồi, đã đạt đến cuối cùng của phẩm hạnh, đã được tốt đẹp vậy’. Bạch Đức Thế Tôn, tôi hỏi thầy Nigandha về quả báo của bậc sa-môn xuất gia, nhưng thầy Nigandha không trả lời theo câu hỏi của tôi, trái lại giải về bốn điều thu thúc tội lỗi, cũng ví như người hỏi về cây xoài lại trả lời về cây mít vậy. Bạch Đức Thế Tôn, tôi nghĩ rằng: Người như tôi không lẽ trong sạch với các bậc sa-môn, bà-la-môn đang cư ngụ trong lãnh thổ mình mà người ta có thể chỉ trích được. Tôi không vui thích, không kích bác lời nói của thầy Pakudha, tâm tôi phiền phức nhưng không nói ra, chỉ không để ý đến lời nói ấy rồi đứng dậy ra về”.

“Bạch Đức Thế Tôn, một lúc nọ, trong thành Vương Xá này tôi có đến viếng một vị giáo chủ tên Sañjaya Velaṭṭhaputta, sau khi câu chuyện hàn huyên để bày tỏ tình thân mật, tôi mới ngồi nơi phải lẽ, khi ngồi xong tôi liền bạch với vị thầy Sañjaya rằng: ‘Bạch ngài, như tất cả nghề nghiệp đều có đem lại nhiều sự lợi ích hiện tại như là: nghề chăn voi,… (như cách hỏi Phật ở phía trước), vậy ngài có thể tuyên bố cho tôi thấy rõ về sự lợi ích hiện tại của bậc sa-môn xuất gia không?’ Bạch Đức Thế Tôn, khi tôi hỏi như thế thì thầy Sañjaya trả lời rằng: ‘Tâu Đại vương, nếu Đại vương hỏi tôi kiếp vị lai có không thì sự hiểu biết của tôi như thế này cũng không phải, như thế kia cũng không phải18, hoặc sự hiểu biết của tôi không phải cũng không, hoặc là sự hiểu biết của tôi không phải cũng không, cũng không phải vậy, sự hiểu biết của tôi như thế khác cũng không. Theo sự hiểu biết của tôi, đời vị lai không có, đời vị lai khi có khi không, đời vị lai có cũng không phải, không có cũng không phải; chúng sanh về hạng hóa sanh có, không có, khi có khi không, có cũng không phải, không có cũng không phải vậy. Còn nói về quả báo của nghiệp thiện hoặc ác, theo sự hiểu biết của tôi cho rằng quả báo ấy có, cái có, cái không, có cũng không phải, không có cũng không phải vậy; nếu Đại vương hỏi tôi về chúng sanh sau khi chết có tái sanh lại không, theo tôi sau khi chết chúng sanh tái sanh lại cũng không phải, không tái sanh lại cũng không phải; sự hiểu biết của tôi như thế này cũng không phải, như thế kia cũng không phải, như thế khác nữa cũng không phải, sự hiểu biết của tôi không phải cũng không, hoặc không phải cũng không, cũng không phải vậy’. Bạch Đức Thế Tôn, tôi hỏi thầy Sañjaya về quả báo của bậc sa-môn xuất gia thì thầy Sañjaya không trả lời theo câu hỏi của tôi, trái lại giải về sự lộn xộn, tráo trở không dứt khoát cái chi, cũng ví như người hỏi về cây xoài lại trả lời về cây mít vậy. Bạch Đức Thế Tôn, tôi nghĩ rằng: Người như tôi không lẽ trong sạch với bậc sa-môn, bà-la-môn xuất gia như thầy Sañjaya thật ngu si, mê muội, thái quá hơn tất cả các bậc sa-môn khác đang cư ngụ trong lãnh thổ mình mà người ta có thể chỉ trích được. Tôi không vui thích, không kích bác lời nói của thầy Sañjaya, tâm tôi rất phiền phức nhưng không nói ra, chỉ không để ý đến lời nói ấy rồi đứng dậy ra về”.

 

 

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app