1A. MAṄGALASUTTĀRAMBHO

(Kinh Tụng Phật Giáo – Sư Đức Hiền biên soạn)

Ye santā santacittā tisaraṇasaraṇā ettha lokantare vā. Bhummā bhummā ca devā guṇagaṇagahaṇabyāvaṭā sabbakālaṃ. Ete āyantu devā varakanakamaye merurāje vasanto. Santo santo sahetuṃ munivaravacanaṃ sotumaggaṃ samaggaṃ.

Sabbesu cakkavāḷesu, yakkhā devā ca brahmuno, yaṃ amhehi kataṃ puññaṃ, sabbasampattisādhakaṃ. Sabbe taṃ anumoditvā, samaggā sāsane ratā, pamādarahitā hontu, ārakkhāsu visesato. Sāsanassa ca lokassa, vuḍḍhī bhavatu sabbadā, sāsanaṃpi ca lokañca, devā rakkhantu sabbadā. Saddhiṃ hontu sukhī sabbe, parivārehi attano, anīghā sumanā hontu, saha sabbehi ñātibhi.

Yañca dvādasa vassāni, cintayiṃsu sadevakā, cirassaṃ cintayantāpi, neva jāniṃsu maṅgalaṃ, Cakkavāḷasahassesu dasasu yena tattakaṃ kālaṃ kolāhalaṃ jātaṃ, Yāva brahmanivesanā.Yaṃ lokanātho desesi, sabbapāpavināsanaṃ, yaṃ sutvā sabbadukkhehi, Muñcantāsaṅkhiyā narā, evamādiguṇūpetaṃ, maṅgalantambhaṇāma he.

1A. BỐ CÁO HẠNH PHÚC KINH

Xin thỉnh tất cả chư Thiên /ngự trong hư không thế giới, /hoặc ngoài hư không thế giới này, /là bậc đã có lòng an tịnh /và đã quy y Tam Bảo, /là bậc năng chuyên cần việc hạnh phúc./Xin thỉnh tất cả chư Thiên /ngự trên Tu-di Sơn Vương tinh anh bằng vàng ròng cao thượng./Xin thỉnh tất cả chư Thiên/là bậc Tịnh giả đồng tụ hội nơi đây, /đặng nghe lời vàng của Đức Thích Ca Mâu Ni, /là Pháp Vô thượng /làm cho phát sanh điều hoan lạc./

Sự phước báo mà chúng tôi đã làm; /có thể độ thành tựu các thứ quả, /cầu xin Dạ-xoa, chư Thiên cùng Phạm Thiên trong cả thế giới Ta Bà /đều hoan hỷ thọ lãnh phước ấy. /Tất cả Dạ-xoa chư Thiên cùng Phạm Thiên /khi đã thọ lãnh phước ấy, /xin đồng tâm hoan hỷ trong Phật Pháp. /Xin dứt lòng dễ duôi /và tùy phương tiện quý báu để hộ trì Phật Pháp. /Cầu xin Phật Pháp hằng được thạnh đạt /và chúng sanh hằng được tấn hóa. /Cầu xin tất cả chư Thiên hộ trì Phật Pháp /và tiếp độ chúng sanh. /Cầu xin cho tất cả chúng sanh đều được yên vui, /được vô khổ cụ, /là người có thiện tâm luôn cả thân bằng cùng quyến thuộc./

Tất cả nhân loại cùng chư Thiên trong mười triệu thế giới Ta Bà, /hằng mong cầu và cố gắng tìm xét trong 12 năm, /những điều hạnh phúc vẫn chưa tìm thấy, /tiếng xôn xao thấu đến cõi trời Phạm Thiên; /trong khi ấy Đức Phật có giảng giải những sự hạnh phúc /làm cho các tội lỗi đều phải tiêu diệt, /chúng sanh nhiều không xiết kể, /đã nghe và được dứt khỏi các sự thống khổ./.

1B. MAṄGALASUTTAṂ

Suttantapiṭaka, Khuddakapāṭhapāḷi, Khuddakanikāya, (Paṭhama ganthā), Khuddakapāṭhapāḷi, Số 5

Evaṃ me sutaṃ. Ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati Jetavane Anāthapiṇḍikassa ārāme.

Atha kho aññatarā devatā abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇā kevalakappaṃ Jetavanaṃ obhāsetvā yena Bhagavā tenupasaṅkami upasaṅkamitvā Bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitā kho sā devatā Bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi.

Bahū devā manussā ca, maṅgalāni acintayuṃ, ākaṅkhamānā sotthānaṃ, brūhi maṅgalamuttamaṃ.

1. Asevanā ca bālānaṃ,
Paṇḍitānañca sevanā
Pūjā ca pūjanīyānaṃ,
Etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

2. Patirūpadesavāso ca,
Pubbe ca katapuññatā
Atta sammā paṇīdhi ca,
Etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

3. Bāhu saccañca sippañca,
Vinayo ca susikkhito
Subhāsitā ca yā vācā,
Etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

4. Mātāpitu upaṭṭhānaṃ,
Puttadārassa saṅgaho
Anākulā ca kammantā,
Etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

1B. HẠNH PHÚC KINH

Tạng Kinh, Tiểu Bộ Kinh, Tập I, Tiểu Tụng, Số 5

Ta là Ānanda /được nghe lại như vậy: /Một thuở nọ Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên Tịnh Xá, /của trưởng giả Cấp-Cô-Độc, /gần thành Xá-Vệ./

Khi ấy có vị Trời chiếu hào quang xinh đẹp, /làm cho trọn cả Kỳ Viên sáng ngời rực rỡ, /vị Trời ấy đến nơi Phật ngự, /đảnh lễ Đức Thế Tôn xong rồi /đứng tại chỗ nên đứng. /Khi đã đứng yên, /vị Trời ấy bèn bạch với Đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:/

Tất cả chư Thiên cùng nhân loại, /đều cầu mong được những hạnh phúc, /và cố tìm xét những điều hạnh phúc. /Bạch Đức Thế Tôn, /xin Ngài mở lòng bác ái, /giảng giải về những hạnh phúc cao thượng. /Đức Thế Tôn tùy lời hỏi mà giảng rằng:/

1. Một: tư cách không xu hướng theo kẻ dữ,/
Hai: tư cách thân cận các bậc Trí tuệ,/
Ba: tư cách cúng dường các bậc nên cúng dường,/
Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng./

2. Một: tư cách ở trong nước1 nên ở,/
Hai: tư cách của người đã làm được việc lành để dành khi trước,/
Ba: nết hạnh giữ mình theo lẽ chánh,/

Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng./

3. Một: nết hạnh của người được nghe nhiều học rộng,/
Hai: sự suốt thông phận sự của người xuất gia và tại gia,/
Ba: điều học mà người đã thọ trì được chín chắn,/

Bốn: lời mà người nói ra được ngay thật,/
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng./

4. Một: nết hạnh phụng sự mẹ,/
Hai: nết hạnh phụng sự cha,/
Ba: sự tiếp độ vợ con,/
Bốn: những nghề chẳng lẫn lộn nghiệp dữ,/
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng./

5. Dānañca dhammacariyā ca,
Ñātakānañca saṅgaho
Anavajjāni kammāni,

Etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

6. Āratīviratī pāpā,
Majjapānā ca saññamo
Appamādo ca dhammesu,
Etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

7. Gāravo ca nivāto ca,
Santuṭṭhī ca kataññutā
Kālena dhammassavanaṃ,
Etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

8. Khantī ca sovacassatā,
Samaṇānañca dassanaṃ
Kālena dhammasākacchā,
Etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

9. Tapo ca brahmacariyā ca,
Ariyasaccāni dassanaṃ
Nibbānasacchikiriyā ca,
Etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

10. Phuṭṭhassa lokadhammehi,
Cittaṃ yassa na kampati
Asokaṃ virajaṃ khemaṃ,
Etaṃ maṅgalamuttamaṃ.

Etādisāni katvāna
Sabbatthamaparājitā
Sabbatthasotthiṃ gacchanti

Taṃ tesaṃ maṅgalamuttamanti./.

5. Một: nết hạnh bố thí,/
Hai: nết hạnh ở theo Phật Pháp,/
Ba: sự tiếp độ quyến thuộc,/
Bốn: những nghề vô tội,/
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng./

6. Một: nết hạnh ghê sợ và tránh xa tội lỗi,/
Hai: sự thu thúc để tránh khỏi sự uống rượu,/
Ba: sự không dễ duôi Phật Pháp,/

Cả ba điều ấy là hạnh phúc cao thượng./

7. Một: sự tôn kính các bậc nên tôn kính,/
Hai: nết hạnh khiêm nhường,/

Ba: tri túc với của đã có,/
Bốn: nết hạnh biết đền ơn người,/
Năm: nết hạnh tùy thời nghe Pháp,/
Cả năm điều ấy là hạnh phúc cao thượng./

8. Một: sự nhẫn nại,/
Hai: nết hạnh người dễ dạy,/
Ba: nết hạnh được thấy được gặp các bậc Sa-môn,/
Bốn: nết hạnh biện luận về Phật Pháp,/

Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng./

9. Một: sự cố gắng đoạn tuyệt điều ác,/
Hai: nết hạnh hành theo Pháp cao thượng,/
Ba: nết hạnh thấy các Pháp Diệu Đế,/

Bốn: nết hạnh làm cho thấu rõ Niết Bàn,/
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng./

10. Một: tâm không xao động vì pháp thế gian,/
Hai: không có sự uất ức,/

Ba: dứt khỏi tham dục,1,/
Bốn: lòng tự tại,/
Cả bốn điều ấy là hạnh phúc cao thượng./

Tất cả chư Thiên và nhân loại, /nếu được thực hành theo những điều hạnh phúc như thế, /là người thắng quá trong mọi nơi, /thì hằng được hạnh phúc trong mọi nơi. /Chư Thiên này! /Các ngươi nên tin rằng, /cả 38 điều hạnh phúc ấy, /là hạnh phúc cao thượng./. [KX]

KINH HẠNH PHÚC (HK)

Như vậy tôi nghe
Một thời Thế Tôn
Ngự tại Kỳ Viên tịnh xá Của trưởng giả Cấp-cô-độc Gần thành Xá-vệ
Khi đêm gần mãn
Có một vị trời
Dung sắc thù thắng
Hào quang chiếu diệu Sáng tỏa Kỳ Viên
Ðến nơi Phật ngự
Ðảnh lễ Thế Tôn
Rồi đứng một bên
Cung kính bạch Phật
Bằng lời kệ rằng:

“Chư thiên và nhân loại Suy nghĩ điều hạnh phúc,
Hằng tầm cầu mong đợi Một đời sống an lành.

Xin ngài vì bi mẫn,
Hoan hỷ dạy chúng con
Về phúc lành cao thượng”.
Thế Tôn tùy lời hỏi

Rồi giảng giải như vậy:

1. “Không gần gũi kẻ ác
Thân cận bậc trí hiền
Đảnh lễ người đáng lễ

Là phúc lành cao thượng.

2. Ở trú xứ thích hợp
Công đức trước đã làm
Chơn chánh hướng tự tâm
Là phúc lành cao thượng.

3. Ða văn, nghề nghiệp giỏi
Khéo huấn luyện, học tập
Nói những lời chơn chất
Là phúc lành cao thượng.

4. Hiếu thuận bậc sanh thành
Dưỡng dục vợ và con

Sở hành theo nghiệp chánh
Là phúc lành cao thượng.

5. Bố thí, hành đúng Pháp
Giúp ích hàng quyến thuộc
Giữ chánh mạng trong đời
Là phúc lành cao thượng.

6. Xả ly tâm niệm ác
Chế ngự không say sưa
Trong pháp không phóng dật
Là phúc lành cao thượng.

7. Biết cung kính khiêm nhường
Tri túc và tri ân

Ðúng thời nghe chánh pháp
Là phúc lành cao thượng.

8. Nhẫn nhục lời nhu hòa
Yết kiến bậc sa-môn
Tùy thời đàm luận pháp
Là phúc lành cao thượng.

9. Tự chủ, sống phạm hạnh
Thấy rõ lý Thánh Đế

Giác ngộ quả niết-bàn
Là phúc lành cao thượng.

10. Khi xúc chạm việc đời
Tâm không động, không sầu
Tự tại và vô nhiễm

Là phúc lành cao thượng.

Những sở hành như vậy
Không chỗ nào thối thất
Khắp nơi được an toàn

Là phúc lành cao thượng”./.

Dhamma Nanda

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa. Nhận thấy những lợi lạc vô cùng quý báu của Dhamma mà Bậc Giác Ngộ chỉ dạy, khoảng Rằm tháng 4 âm lịch năm 2020, con Dhamma Nanda và các bạn hữu Dhamma đã có tác ý phát triển trang Theravada.vn và hệ thống Phật Giáo Theravāda, nhằm tổng hợp lại các tài liệu Dhamma quý báu mà các Bậc Trưởng Lão và các Bậc Thiện Trí đã dày công lưu giữ và truyền dạy, nhằm đem lại lợi lạc đến nhiều người, đặc biệt là cộng đồng người Việt Nam.

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app