[10]
KĀLADĀNAPPAKĀSANAGĀTHĀ
KỆ BỐ CÁO THỜI BỐ THÍ
Bhaṇissāma mayaṃ gāthā,
Kāladānappadīpikā [12].
Chúng ta nên tụng các bài kệ để giải về KĀLADĀNA.
Etā suṇantu sakkaccaṃ,
Dāyakā puññakāmino.
Các thí chủ nam nữ, là người mong mỏi hạnh phúc, nên hết lòng thành kính nghe lời kệ nầy:
(KĀLADĀNASUTTAGĀTHĀ)
Kālena dadanti sappaññā,
Vadaññū vītamaccharā.
Những người có trí tuệ là người biết quý trọng lời nói của bậc đã dứt lòng bỏn xẻn và hằng tùy theo thời bố thí [13].
Kālena dinnaṃ ariyesu,
Ujubhūtesu tādisu.
Sự bố thí mà người đã làm đến các bậc Thánh nhơn, là bậc có thân tâm chơn chánh, không xao động vì 8 pháp thế gian.
Vippassannamanā tassa,
Vipulā hoti dakkhiṇā.
DAKKHIṆĀDĀNA (Của những bậc ấy) là sự bố thí được kết quả quý trọng do nhờ đức tin.
Ye tattha anumodanti,
Veyyāvaccaṃ karonti vā.
Những kẻ chỉ hoan hỷ theo, hoặc chỉ giúp sức người trong việc bố thí.
Na tena dakkhiṇā ūnā.
Chẳng phải DAKKHIṆĀDĀNA (Của các kẻ ấy) là bố thí hèn hạ, vì chỉ có hoan hỷ, hoặc chỉ giúp người thí chủ.
Tepi puññassa bhāgino.
Những kẻ chỉ hoan hỷ, hoặc chỉ giúp giùm trong việc bố thí, cũng được hạnh phúc chắc thật.
Tasmā dade appaṭivānacitto,
Yattha dinnaṃ mahapphalaṃ.
Cho nên, sự bố thí mà người đã làm rồi, là sự bố thí rất có hiệu quả. Những người không lòng giãi đãi, nên bố thí đến những kẻ ấy [14].
Puññāni paralokasmiṃ,
Patiṭṭhā honti pāṇinaṃ.
Bởi các điều hạnh phúc là nơi nương nhờ của tất cả chúng sanh trong ngày vị lai.
-ooOoo-