TẠNG LUẬT: ĐẠI PHẨM TẬP I

LOGO dhcakka

TAM TẠNG PĀLI – VIỆT tập 4

ĐẠI PHẨM tập I
ẤN BẢN 2013
Người Dịch: Tỳ khưu Indacanda
(Đọc với font VU- Times và Acrobat Reader)

(Văn Bản Song Ngữ Pāli – Việt)

MỤC LỤC

*****

LỜI GIỚI THIỆU

| 01 |
I. CHƯƠNG TRỌNG YẾU

Tụng phẩm thứ nhất
– Phần giảng về sự Giác Ngộ
– Phần giảng về (cội cây si của những) người chăn dê
– Phần giảng về cây Mucalinda
– Phần giảng về cây Rājāyatana
– Phần giảng về sự thỉnh cầu của vị Phạm Thiên
– Phần giảng về nhóm năm vị

Tụng phẩm thứ nhì
– Phần giảng về sự xuất gia
– Sự xuất gia của bốn người bạn tại gia
– Phần giảng về Ma Vương
– Phần giảng về sự xuất gia và sự tu lên bậc trên bằng ba sự đi đến nương nhờ
– Phần giảng thứ nhì về Ma Vương
– Câu chuyện về những người bạn thuộc nhóm các vương tử

Tụng phẩm thứ ba
– Phần giảng về điều kỳ diệu ở Uruvelā

Tụng phẩm thứ tư
– Phần giảng về việc gặp đức vua Bimbisāra
– Sự xuất gia của Sāriputta và Moggallāna

| 02 |
Tụng phẩm thứ năm
– Phận sự đối với thầy tế độ
– Phận sự đối với đệ tử
– Phần giảng về những kẻ bị đuổi đi

Tụng phẩm thứ sáu
– Phận sự đối với thầy dạy học
– Phận sự đối với học trò
– Việc đuổi đi – Việc xin lỗi
– Câu chuyện về các vị ngu dốt thiếu kinh nghiệm

Tụng phẩm thứ bảy
– Sự đình chỉ việc nương nhờ
– Nhóm năm của phần ‘Nên ban phép tu lên bậc trên’
– Nhóm sáu của phần ‘Nên ban phép tu lên bậc trên’
– Phần giảng về người trước đây theo ngoại đạo

| 03 |
Tụng phẩm thứ tám
– Câu chuyện về năm thứ bệnh
– Câu chuyện về các binh sĩ của đức vua
– Câu chuyện về kẻ cướp có mang chuỗi ngón tay
– Câu chuyện về kẻ cướp phá ngục
– Câu chuyện về kẻ cướp bị cáo thị tầm nã
– Câu chuyện về kẻ bị phạt đánh bằng roi
– Câu chuyện về kẻ bị phạt đóng dấu
– Câu chuyện về kẻ thiếu nợ
– Câu chuyện về kẻ nô tỳ
– Câu chuyện về người thợ bạc bị sói đầu
– Câu chuyện về thiếu niên Upāli
– Câu chuyện về bịnh dịch hạch
– Câu chuyện về (sa di) Kaṇṭaka
– Câu chuyện về (hướng đi) bị tắt nghẽn
– Phần giảng về việc nương nhờ

Tụng phẩm thứ chín
– Câu chuyện về Rāhula
– Phần giảng về các điều học
– Câu chuyện về hành phạt
– Câu chuyện về sự ngăn cấm khi chưa hỏi ý trước
– Câu chuyện về việc dụ dỗ
– Câu chuyện về (sa di) Kaṇṭaka
– Câu chuyện về kẻ vô căn
– Câu chuyện về kẻ trộm tướng mạo (tỳ khưu)
– Câu chuyện về loài thú
– Câu chuyện về kẻ giết mẹ
– Câu chuyện về kẻ giết cha
– Câu chuyện về kẻ giết A-la-hán
– Câu chuyện về kẻ làm nhơ tỳ khưu ni
– Câu chuyện về người lưỡng căn
– Câu chuyện về người không có thầy tế độ, v.v…
– Các câu chuyện về người không có bình bát, v.v…
– Hai mươi trường hợp không nên cho tu lên bậc trên
– Ba mươi hai trường hợp không nên cho xuất gia: người bị đứt cánh tay, v.v…

Tụng phẩm thứ mười
– Các câu chuyện về sự nương nhờ vị không có liêm sỉ
– Bốn câu chuyện về (sống) không nương nhờ: vị xuất hành, v.v…
– Sự cho phép đọc tuyên ngôn với tên của dòng họ
– Hai người có ý muốn tu lên bậc trên
– Việc tu lên bậc trên của người hai mươi (tuổi) tính theo thai bào
– Việc hỏi các pháp chướng ngại đối với người có ý muốn tu lên bậc trên
– Bốn vật nương nhờ
– Bốn điều không nên làm
– Các vị bị án treo trong việc không nhìn nhận tội, v.v…
Các câu kệ tóm lược

*****

| 04 |
II. CHƯƠNG UPOSATHA

Tụng phẩm về các ngoại đạo
– Phần giảng về việc tụ hội vào ngày lễ Uposatha
– Việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha
– Phần giảng về sự thanh tịnh của vị Mahākappina
– Việc ấn định ranh giới
– Việc chỉ định nhà hành lễ Uposatha
– Việc hủy bỏ nhà hành lễ Uposatha
– Việc ấn định mặt tiền của chỗ hành lễ Uposatha
– Việc ấn định ranh giới không (bị phạm tội vì) xa lìa ba y
– Việc hủy bỏ ranh giới
– Phần giảng về các ranh giới: làng, v.v…
– Hai lễ Uposatha
– Bốn hành sự Uposatha
– Năm cách đọc tụng giới bổn Pātimokkha
– Việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha một cách tóm tắt
– Các trường hợp nguy hiểm đối với việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha
– Việc hỏi về Luật
– Việc trả lời về Luật
– Việc buộc tội
– Việc phản đối hành sự sai Pháp
– Sự ngăn cấm việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha ở hội chúng có sự hiện diện của cư sĩ

Tụng Phẩm Codanāvatthu
– Việc thỉnh mời vị đọc tụng giới bổn Pātimokkha
– Việc học cách tính toán (ngày) của nửa tháng, v.v…
– Việc thông báo về ngày lễ Uposatha
– Các việc làm trước
– Câu chuyện về các vị lên đường đi xa, v.v…
– Việc bày tỏ sự trong sạch
– Việc bày tỏ sự tùy thuận
– Việc nắm giữ của các thân quyến, v.v…
– Sự đồng ý về bệnh điên
– Sự phân loại các lễ Uposatha: Lễ Uposatha của hội chúng, v.v…
– Việc sửa chữa tội (đã phạm)
– Việc sửa chữa tội đã phạm giống nhau

Tụng Phẩm thứ ba
– Mười lăm trường hợp vô tội
– Mười lăm trường hợp là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm
– Mười lăm trường hợp có sự nghi ngờ
– Mười lăm trường hợp đã bỏ qua sự ngần ngại
– Mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ
– Phần tương tợ có liên quan đến các vị đi vào trong ranh giới
– Việc nhìn thấy sự biểu hiện, đặc điểm, v.v… của việc cư trú
– Việc tiến hành lễ Uposatha với các vị thuộc nhóm cộng trú khác, v.v…
– Các trường hợp không nên đi
– Các trường hợp có thể đi
– Về sự hiện diện (ở lễ Uposatha) của những nhân vật cần phải tránh, v.v…
Các câu kệ tóm lược

*****

| 05 |
III. CHƯƠNG VÀO MÙA MƯA

– Hai thời điểm vào mùa (an cư) mưa
– Sự ngăn cấm việc ra đi trong mùa (an cư) mưa
– Việc dời lại mùa (an cư) mưa
– Phần giảng về công việc có thể giải quyết trong bảy ngày
– Vô tội cho việc cắt đứt mùa (an cư) mưa khi có chướng ngại
– Vô tội cho việc cắt đứt mùa (an cư) mưa khi có sự chia rẽ hội chúng
– Việc vào mùa (an cư) mưa ở khu rào gia súc, v.v…
– Các nơi chốn không nên vào mùa (an cư) mưa
– Điều thỏa thuận không nên thực hiện
– Tội dukkaṭa ở sự nhận lời
Các câu kệ tóm lược

*****

| 06 |
IV. CHƯƠNG PAVĀRAṆĀ

Tụng phẩm thứ nhất
– Phần giảng về việc cư ngụ thoải mái và không thoải mái, v.v…
– Cách thức và việc cho phép về lễ Pavāraṇā
– Hai lễ Pavāraṇā
– Bốn hành sự Pavāraṇā
– Việc bày tỏ lời thỉnh cầu
– Việc bày tỏ sự tùy thuận
– Việc nắm giữ của các thân quyến, v.v…
– Sự phân loại các lễ Pavāraṇā: Lễ Pavāraṇā của hội chúng, v.v…
– Việc sửa chữa tội (đã phạm)
– Việc bày tỏ về tội (đã phạm)
– Việc sửa chữa tội đã phạm giống nhau

Tụng phẩm thứ nhì
– Mười lăm trường hợp vô tội
– Mười lăm trường hợp là phe nhóm và có sự nhận biết là phe nhóm
– Mười lăm trường hợp có sự nghi ngờ
– Mười lăm trường hợp đã bỏ qua sự ngần ngại
– Mười lăm trường hợp có dự tính chia rẽ
– Phần tương tợ có liên quan đến các vị đi vào trong ranh giới
– Tính chất khác biệt về các ngày mười bốn, v.v…
– Việc nhìn thấy sự biểu hiện, đặc điểm, v.v… của việc cư trú
– Lễ Pavāraṇā với các vị thuộc nhóm cộng trú khác, v.v…
– Các trường hợp không nên đi
– Các trường hợp có thể đi
– Về sự hiện diện của những nhân vật cần phải tránh

Tụng phẩm thứ ba
– Sự thỉnh cầu hai lần đọc
– Các sự nguy hiểm đối với lễ Pavāraṇā
– Việc đình chỉ lễ Pavāraṇā
– Câu chuyện về tội thullaccaya
– Sự đình chỉ vì sự việc
– Câu chuyện về các vị thường gây nên sự xung đột
– Sự đạt đến trạng thái trú ngụ thoải mái
– Việc hoãn lại ngày lễ Pavāraṇā
Các câu kệ tóm lược

*****

| 07 |
V. CHƯƠNG DA THÚ

– Câu chuyện về Soṇa Koḷivīsa
– Việc ngăn cấm các đôi dép loại hai lớp, v.v…
– Việc ngăn cấm các đôi dép toàn màu xanh, v.v…
– Việc cho phép các đôi dép loại nhiều lớp
– Sự ngăn cấm việc (mang) dép trong khuôn viên tu viện
– Việc ngăn cấm các đôi guốc, v.v…
– Việc ngăn cấm (di chuyển bằng) xe
– Việc ngăn cấm chỗ nằm cao và chỗ nằm rộng lớn
– Việc ngăn cấm tất cả các loại da thú
– Việc cho phép về chỗ (ngồi) đã được làm sẵn bởi cư sĩ
– Câu chuyện về vị Soṇa Kuṭikaṇṇa
– Sự cho phép việc tu lên bậc trên với nhóm có vị thứ năm rành rẽ về Luật ở các xứ thuộc vùng biên địa
Các câu kệ tóm lược

–ooOoo–

LỜI GIỚI THIỆU

Mahāvagga (Đại Phẩm) và Cullavagga (Tiểu Phẩm) thuộc Vinayapiṭaka (Tạng Luật) gồm các vấn đề có liên quan với nhau đã được sắp xếp thành từng chương. Tên gọi chung cho hai phẩm này là Khandhaka (Chúng tôi tạm gọi tên là Bộ Hợp Phần; khandha có nghĩa là khối, nhóm, uẩn, … Tiếp vĩ ngữ -ka trong trường hợp này có ý nghĩa là thuộc về, có liên quan, …).

Mahāvagga (Đại Phẩm) được chia làm mười chương, và được ấn tống thành hai tập:
Mahāvagga 1 & Đại Phẩm 1 (TTPV tập 04) gồm có 5 chương đầu, và
Mahāvagga 2 & Đại Phẩm 2 (TTPV tập 05) gồm có 5 chương còn lại.

Tóm lược nội dung các chương như sau:

1. Chương 1 nói về sự khởi đầu của Giáo Pháp được tính từ lúc đức Thế Tôn chứng đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Giác và bao gồm quá trình hình thành nghi thức cho xuất gia và tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu cùng một số vấn đề liên quan đến việc huấn luyện các vị xuất gia.

2. Chương 2 giảng giải về lễ Uposatha với nguyên nhân ban đầu là lời thỉnh cầu của đức vua Seniya Bimbisāra và nhiều vấn đề có liên quan đến việc tiến hành cuộc lễ như việc ấn định ranh giới (sīmā) và nhà hành lễ Uposatha, việc sám hối, việc đọc tụng giới bổn Pātimokkha, v.v… Việc gìn giữ sự hợp nhất của hội chúng là điểm được nhấn mạnh ở chương này.

3. Chương 3 giảng giải về việc vào mùa (an cư) mưa. Tuy chỉ được ghi lại trong hai tụng phẩm nhưng nội dung của chương này trình bày những sự việc có liên quan đến 1/3 thời gian sống và tu tập của vị tỳ khưu. Chương này cần được xem xét kỹ lưỡng vì có những tư liệu mới chưa được trình bày trong các tài liệu về Luật đã được phổ biến.

4. Chương 4 giảng giải về lễ Pavāraṇā tức là một trong những hình thức góp ý nhau về đời sống tu tập có liên quan đến giới luật. Hành sự của lễ Pavāraṇā tuy chỉ được tiến hành một lần trong năm sau ba tháng cư trú mùa mưa nhưng có tầm quan trọng tương đương với lễ Uposatha nhằm bảo tồn sự trong sạch đồng thời tính hợp nhất của hội chúng.

5. Chương 5 nói về da thú có liên quan đến đời sống của các vị tỳ khưu ví dụ như giày dép, v.v… Câu chuyện xuất gia của thanh niên Soṇa Koḷivisa ở đầu chương giới thiệu về sự nỗ lực tinh tấn của vị tỳ khưu trẻ tuổi này, dẫu rằng do chính sự tinh tấn quá mức này đã là chướng ngại cho sự đắc chứng của vị ấy nhưng cũng là một ví dụ để chúng ta thấy được động cơ tu tập của các vị xuất gia vào thời đức Phật còn tại tiền.

6. Chương 6 nói về dược phẩm và các cách thức chữa bệnh. Chương này gồm có 4 tụng phẩm đề cập đến cách thức chữa trị một số bệnh thông thường, về một số quy định đã được áp dụng trong thời kỳ khó khăn về vật thực, về đức tin vững chắc của nữ cư sĩ Suppiyā, về vấn đề thọ dụng cá và thịt trong Phật Giáo, ngoài ra còn có câu chuyện về kỷ nữ Ambapālī và một số vấn đề khác vẫn còn có được sự ứng dụng thực tiễn trong thời hiện tại.

7. Chương 7 giảng giải về lễ dâng y Kaṭhina. Đây là cuộc phước thí có tầm vóc quan trọng vì sự thành tựu của Kaṭhina không những có ảnh hưởng đến phước báu của người thí chủ mà còn có liên quan đến sự tu tập của các vị tỳ khưu. Sự giảng giải chi tiết với những sự việc tương phản của chương này có lẽ không ngoài mục đích trình bày một số điểm tế nhị cần đến sự chú tâm suy xét.

8. Chương 8 là chương về Y Phục giảng giải về loại y và các vấn đề có liên quan về nhiều phương diện. Điểm thú vị ở chương này là tụng phẩm mở đầu với câu chuyện về thầy thuốc Jīvaka Komārabhacca và tài năng chữa bệnh của vị này, đáng ngạc nhiên là việc giải phẩu ở đầu và ở bụng đã được tiến hành vào thời gian cách đây hơn 2,500 năm.

9. Chương 9 được đặt tên theo một sự kiện xảy ra ở Campā nêu lên một tiền lệ không tốt đẹp về việc sử dụng sức mạnh tập thể để áp đặt hành phạt sai trái lên cá nhân. Thời bấy giờ còn có đức Phật là vị quan tòa để phân xử, trong thời hiện tại trách nhiệm xem xét lại sự việc được trao cho các hội chúng tỳ khưu ở những trú xứ khác nếu có sự thỉnh cầu. Các điều giảng giải trong chương này không ngoài việc trình bày khuôn mẫu trong việc tiến hành các hành sự, khả năng thực hiện của hội chúng đối với các loại hành sự khác nhau tùy thuộc vào số lượng tỳ khưu hiện diện, và một số nguyên tắc cần được áp dụng để bảo đảm tính chất đúng Pháp đúng Luật của hành sự. Các hành sự của hội chúng cùng với việc thâu hồi các hành sự ấy cũng được trình bày ở chương này gồm có: hành sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua đuổi, hành sự hòa giải, và ba loại hành sự án treo.

10. Chương thứ 10 nói về sự việc chia rẽ hội chúng ở Kosambī từ lúc khởi đầu đến hồi kết thúc. Mầm mống chia rẽ trong câu chuyện này chỉ là một sự tranh cãi về một điều Luật không quan trọng, từ sự xung đột cá nhân đã lan rộng đến tập thể và trở nên căng thẳng không những đưa đến ẩu đả giữa các tỳ khưu mà còn khiến cho đức Phật đã bỏ đi vào rừng sâu sống với sự phục vụ của voi và khỉ. Yếu tố đưa đến việc giải quyết sự chia rẽ này là hành động tẩy chay tích cực của các cư sĩ ở thành Kosambī, cuối cùng sự tranh tụng được giải quyết do sự phục thiện của vị tỳ khưu sai trái. Câu chuyện về hoàng tử Dīghāvu và nếp sống sinh hoạt của ba vị đại đức Anuruddha, Nandiya, Kimbila nhằm đề cao sự sống chung hòa ái và không thù hận lẫn nhau là yếu tố quan trọng cần được xây dựng và duy trì trong đời sống tập thể.

*****

Về hình thức, văn bản Pāḷi Roman được trình bày ở đây đã được phiên âm lại từ văn bản Pāḷi – Sinhala, ấn bản Buddha Jayanti Tripitaka Series của nước quốc giáo Sri Lanka. Nhân đây, chúng tôi cũng xin thành tâm tán dương công đức của Ven. Mettāvihārī đã hoan hỷ cho phép chúng tôi sử dụng văn bản đã được phiên âm sẵn đang phổ biến trên mạng internet. Điều này đã tiết kiệm cho chúng tôi nhiều thời gian và công sức trong việc nhận diện mặt chữ và đánh máy; tuy nhiên việc kiểm tra đối chiếu lại với văn bản chánh cũng đã chiếm khá nhiều thời gian.

Về phương diện dịch thuật và trình bày văn bản tiếng Việt, như đã trình bày ở tập Luật trước, chúng tôi giữ nguyên từ Pāli của một số thuật ngữ không dịch sang tiếng Việt ví dụ như tên các điều học pārājika, saṅghādisesa, hoặc tên của các nghi thức như là lễ Uposatha, lễ Pavāraṇā, v.v… Ngoài ra cũng có một số từ không tìm ra được nghĩa Việt như trường hợp tên các loại thảo mộc. Thêm vào đó, chúng tôi cũng đã sử dụng dạng chữ nghiêng cho một số câu hoặc đoạn văn nhằm gợi sự chú ý của người đọc về tầm quan trọng của ý nghĩa hoặc về tính chất thực dụng của chúng. Riêng về các câu kệ ngôn, chúng tôi đã ghi nghĩa Việt bằng văn xuôi nhằm diễn tả trọn vẹn ý nghĩa của văn bản gốc, và được trình bày bằng dạng chữ in nghiêng.

Về văn phong của lời dịch, chúng tôi chủ trương ghi lại lời tiếng Việt sát theo văn bản gốc và cố gắng không bỏ sót từ nào không dịch. Lời văn tiếng Việt của chúng tôi có chứa đựng những mấu chốt giúp cho những ai có ý thích nghiên cứu Pāḷi thấy ra được cấu trúc của loại ngôn ngữ này. Việc làm này của chúng tôi không hẳn đã được hoàn hảo, dẫu sao cũng là bước khởi đầu nhằm thúc đẩy phong trào nghiên cứu cổ ngữ Phật Học của người Việt Nam. Tuy nhiên, một số sai sót trong quá trình phiên dịch đương nhiên không thể tránh khỏi, chúng tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về trình độ yếu kém.

Nhân đây, chúng tôi cũng xin chân thành ghi nhận sự quan tâm chăm sóc trực tiếp hoặc gián tiếp đối với công tác phiên dịch của chúng tôi về phương diện vật thực bồi dưỡng và thuốc men chữa bệnh của các vị hữu ân sau: Hòa Thượng Pháp Nhẫn, Đại Đức Minh Hạnh, nhóm Phật tử California do Cô Phạm Thị Thi đại điện, gia đình Nguyễn văn Hiền & Trần Hường, các Phật tử Phạm Thu Hương, Võ thị Châu, Hựu Huyền, Ngô Lý Vạn Ngọc. Công việc soạn thảo này được thông suốt, không bị gián đoạn, chính là nhờ có sự hỗ trợ cấp thời và quý báu của quý vị. Thành tâm cầu chúc quý vị luôn giữ vững niềm tin và thành tựu được nhiều kết quả trong công việc tu tập giải thoát và hộ trì Tam Bảo.

Một điều thiếu sót lớn nếu không đề cập đến sự nhiệt tình giúp đỡ của Phật tử Tung Thiên cùng với hai người bạn là Đông Triều và Hiền đã sắp xếp thời gian để đọc qua bản thảo và đã đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc giúp cho chúng tôi tránh được một số điểm vụng về trong việc sử dụng từ ngữ tiếng Việt. Chúng tôi cũng xin thành tâm tùy hỷ và tán dương công đức của các thí chủ đã nhiệt tâm đóng góp tài chánh giúp cho Công Trình Ấn Tống Tam Tạng Song Ngữ Pāḷi – Việt được tồn tại và phát triến, mong sao phước báu Pháp thí này luôn dẫn dắt quý vị vào con đường tu tập đúng theo Chánh Pháp, thành tựu Chánh Trí, chứng ngộ Niết Bàn, không còn luân hồi sanh tử nữa.

Nhân đây, cũng xin thành kính tri ân công đức của Ven. Wattegama Dhammawasa, Sanghanāyaka ở Australia và cũng là Tu Viện Trưởng tu viện Sri Subodharama Buddhist Centre ở Peradeniya – Sri Lanka, đã cung cấp trú xứ cho chúng tôi ở Khu Ẩn Lâm Subodha, dưới chân núi Ambuluwawa, Gampola, cách thủ đô Colombo khoảng 150 cây số. Điều kiện yên tĩnh và khí hậu mát mẻ trong lành ở đây đã giúp cho chúng tôi rất nhiều trong việc chú tâm và kiên trì thực hiện bản soạn thảo của các tập Luật. Cũng không quên nhắc đến sự phục vụ và chăm sóc về mọi mặt, nhất là vật thực của hai vị cư sĩ người Sri Lanka là Gunavardhana và Dayānanda ở trú xứ này đã giúp cho chúng tôi có thể tập trung toàn thời gian cho công việc phiên dịch này.

Cuối cùng, ngưỡng mong phước báu phát sanh trong công việc soạn thảo tập Kinh này được thành tựu đến thầy tổ, song thân, và tất cả chúng sanh trong tam giới. Nguyện cho hết thảy đều được an vui, sức khỏe, có trí tuệ, và tinh tấn tu tập ngõ hầu thành đạt cứu cánh giải thoát, chấm dứt khổ đau.

Kính bút,
Khu Ẩn Lâm Subodha
ngày 02 tháng 06 năm 2009
Tỳ Khưu Indacanda (Trương Đình Dũng)

–ooOoo–

CÁC TỪ CHUYÊN MÔN

Một số từ chuyên môn cùng với các từ dịch nghĩa hoặc dịch âm bởi các dịch giả khác đã được trích lục và ghi lại dưới đây:

– Pātimokkha: giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa, biệt biệt giải thoát giới.
– Pārājika: tội bất cộng trụ, ba-la-di, triệt khai, ba-la-thị-ca, giới khí.
– Saṅghādisesa: tội tội tăng tàn, tăng tàng, tăng-già-bà-thi-sa, tăng-già-phạt-thi-sa.
– Aniyata: tội bất định.
– Nissaggiya pācittiya: tội ưng xả đối trị, ni-tát-kỳ-ba-dật-đề, ni-tát-kỳ-ba-dật-để-ca, giới xả đọa.
– Pācittiya: tội ưng đối trị, ba-dật-đề, ba-dật-để-ca, giới đọa.
– Pāṭidesanīya: tội ưng phát lộ, ba-la-đề đề-xá-ni, ba-dạ-đề, ba-la-để-đề-xá-ni, giới hối quá.
– Sekhiya dhamma: ưng học pháp, chúng-học-pháp, pháp chúng học, giới học.
– Adhikaraṇa dhamma: pháp diệt tranh, pháp diệt-tránh, pháp điều giải.
– Thullaccaya: trọng tội, tội thâu lan giá.
– Dukkaṭa: tội tác ác, đột cát la.
– Dubbhāsita: tội ác khẩu.
– Parivāsa: phạt biệt trú.
– Mānatta: hành tự hối.
– Abbhāna: phục vị.
– Uposatha: lễ Bố Tát.
– Pavāraṇā: lễ Tự Tứ.

–ooOoo–

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

VinA. : Vinaya Aṭṭhakathā (Samantapāsādikā)
– Chú Giải Tạng Luật (PTS)
ND : Chú thích của Người Dịch
PTS : Nhà Xuất Bản Pali Text Society (Anh Quốc)
Sđd. : Sách đã dẫn
TTPV : Tam Tạng Pāḷi – Việt

 

Nguồn: Tamtangpaliviet.net

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app