Đại Phẩm I: Chương Trọng Yếu – Tụng Phẩm Thứ Mười

Đại Phẩm I

Chương Trọng Yếu

Liên kết: Pāḷi | Việt | Anh | Video t.Việt | Video t.Anh | Audio | PDF | Chú Giải Pāḷi | Phụ Chú Giải Pāḷi | Tìm hiểu thêm | Bài giảng khác

Tụng Phẩm Thứ Mười

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu nhóm Lục Sư ban cho sự nương nhờ đến những vị không có liêm sỉ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, không nên ban cho sự nương nhờ đến những vị không có liêm sỉ; vị nào ban cho thì phạm tội dukkaṭa.” Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu sống (với pháp) nương nhờ vào những vị không có liêm sỉ. Chẳng bao lâu sau, các vị ấy cũng trở thành các tỳ khưu ác xấu, không có liêm sỉ. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, không nên sống (với pháp) nương nhờ vào những vị không có liêm sỉ; vị nào sống thì phạm tội dukkaṭa.”

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên ban cho sự nương nhờ đến những vị không có liêm sỉ và không nên sống (với pháp) nương nhờ vào những vị không có liêm sỉ,’ vậy làm thế nào chúng ta biết được (vị nào) là có liêm sỉ hoặc không có liêm sỉ?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép chờ đợi bốn năm ngày đến khi (xác định rằng): “Ta biết được bản chất của vị tỳ khưu.”

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ du hành đường xa trong xứ Kosala. Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng đang du hành đường xa, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu đang du hành đường xa trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ.”

Vào lúc bấy giờ, có hai vị tỳ khưu du hành đường xa trong xứ Kosala. Họ đã đi đến gần trú xứ nọ. Tại đó, một vị tỳ khưu đã bị lâm bệnh. Khi ấy, vị tỳ khưu bị bệnh ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng bị bệnh, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu bị bệnh trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ.”

Khi ấy, vị tỳ khưu chăm sóc vị bị bệnh ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng vị tỳ khưu này thì bị bệnh, vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu chăm sóc vị bị bệnh trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ (dầu) được yêu cầu.”[8]

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ trú ngụ ở rừng. Và ở chỗ trú ngụ ấy có được sự thoải mái cho vị ấy (trong việc tiến tu). Khi ấy, vị tỳ khưu ấy đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên sống không nương nhờ,’ và ta là cần có sự nương nhờ nhưng ta trú ngụ ở trong rừng. Và ở chỗ trú ngụ này có được sự thoải mái cho ta (trong việc tiến tu), vậy ta nên thực hành như thế nào?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu ở rừng đang quan tâm đến việc có chỗ cư trú thoải mái (cho việc tiến tu) trong khi không đạt được sự nương nhờ thì được sống không nương nhờ (nghĩ rằng): “Khi nào có vị ban pháp nương nhờ xứng đáng đi đến thì ta sẽ sống nương nhờ vào vị ấy.”

Vào lúc bấy giờ, có người có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức Mahākassapa. Khi ấy, đại đức Mahākassapa đã phái sứ giả đến gặp đại đức Ānanda nhắn rằng: “Ānanda hãy đi đến và tuyên ngôn cho người này.” Đại đức Ānanda đã nói như vầy: – “Tôi không thể nêu lên tên của ngài trưởng lão, ngài trưởng lão là bậc trưởng thượng của tôi.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép tuyên ngôn với tên của dòng họ.”

Vào lúc bấy giờ, có hai người có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức Mahākassapa. Họ tranh cãi rằng: “Tôi sẽ tu lên bậc trên trước, tôi sẽ tu lên bậc trên trước.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.” – “Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện hai (người) trong một lần tuyên ngôn.”

Vào lúc bấy giờ, có những người có ý muốn tu lên bậc trên với nhiều vị trưởng lão. Họ tranh cãi rằng: “Tôi sẽ tu lên bậc trên trước tiên, tôi sẽ tu lên bậc trên trước tiên.” Các vị trưởng lão đã nói như vầy: – “Này các đại đức, chúng ta hãy thực hiện hết thảy tất cả trong một lần tuyên ngôn đi.” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép thực hiện hai hoặc ba (người) trong một lần tuyên ngôn. Và điều ấy là với cùng một thầy tế độ chứ không phải với thầy tế độ khác nhau.”

Vào lúc bấy giờ, đại đức Kumārakassapa là hai mươi (tuổi) tính theo thai bào đã được tu lên bậc trên. Sau đó, đại đức Kumārakassapa đã khởi ý điều này: “Đức Thế Tôn đã quy định rằng: ‘Không nên cho tu lên bậc trên người chưa đủ hai mươi tuổi,’ và ta là hai mươi (tuổi) tính theo thai bào đã được tu lên bậc trên, vậy thì ta đã được tu lên bậc trên hay là chưa được tu lên bậc trên?” Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, khi tâm đầu tiên sanh khởi trong bụng của người mẹ thì thức đầu tiên đã xuất hiện; do điều ấy nên chính thời điểm đó là sự sanh ra của người ấy. Này các tỳ khưu, ta cho phép cho tu lên bậc trên người hai mươi (tuổi) tính theo thai bào.”

Vào lúc bấy giờ, các vị đã tu lên bậc trên được phát hiện là có (liên quan đến) bệnh cùi, bệnh mụt nhọt, bệnh chàm, bệnh lao phổi, bệnh động kinh. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép vị đang ban phép tu lên bậc trên được hỏi về mười ba pháp chướng ngại. Và này các tỳ khưu, nên hỏi như vầy: “Ngươi có các bệnh như vầy không: Bệnh cùi? Bệnh mụt nhọt? Bệnh chàm? Bệnh lao phổi? Bệnh động kinh? Ngươi là loài người? Ngươi là người nam? Ngươi là người được tự do (không phải nô lệ)? Ngươi không bị thiếu nợ? Ngươi không phải là lính của đức vua? Ngươi đã được cha mẹ cho phép? Ngươi đã tròn hai mươi tuổi? Ngươi có đầy đủ y bát không? Ngươi tên gì? Vị thầy tế độ của ngươi tên gì?”

Vào lúc bấy giờ, các tỳ khưu hỏi các pháp chướng ngại đến các người có ý muốn tu lên bậc trên chưa được chỉ bảo trước. Các người có ý muốn tu lên bậc trên đã bị bối rối, trở nên mắc cở, rồi không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ bảo trước rồi hỏi các pháp chướng ngại sau.” Các vị đã chỉ bảo ngay tại chỗ ấy, ở giữa hội chúng. Như thế ấy, các người có ý muốn tu lên bậc trên đã bị bối rối, trở nên mắc cở, rồi không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ bảo ở một góc rồi hỏi các pháp chướng ngại ở giữa hội chúng. Và này các tỳ khưu, nên chỉ bảo như vầy: Trước tiên, nên bảo chọn vị thầy tế độ. Sau khi đã bảo chọn vị thầy tế độ rồi nên chỉ dẫn về y và bình bát: “Đây là bình bát của ngươi, đây là y hai lớp của ngươi, đây là thượng y của ngươi, đây là y nội của ngươi. Hãy đi đến đứng ở chỗ trống đàng kia.”

Các vị (tỳ khưu) ngu dốt, thiếu kinh nghiệm đã chỉ bảo. Những người có ý muốn tu lên bậc trên do được chỉ bảo tồi nên đã bị bối rối, trở nên mắc cở, rồi không thể trả lời. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, vị (tỳ khưu) ngu dốt thiếu kinh nghiệm không nên chỉ bảo; vị nào chỉ bảo thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ khả năng được chỉ bảo.”

Những vị (tỳ khưu) không được chỉ định đã chỉ bảo. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, vị không được chỉ định không nên chỉ bảo; vị nào chỉ bảo thì phạm tội dukkaṭa. Này các tỳ khưu, ta cho phép chỉ bảo đối với vị đã được chỉ định. Và này các tỳ khưu, nên chỉ định như vầy: Tự mình chỉ định cho chính mình, hoặc người khác chỉ định cho người khác.

Thế nào là tự mình chỉ định cho chính mình? Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ chỉ bảo cho người tên (như vầy).” Như vậy là tự mình chỉ định cho chính mình.

Thế nào là người khác chỉ định cho người khác? Hội chúng cần được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, vị tên (như vầy) sẽ chỉ bảo cho người tên (như vầy).” Như vậy là người khác chỉ định cho người khác.

Vị tỳ khưu đã được chỉ định ấy nên đi đến gần người có ý muốn tu lên bậc trên và nên nói với như vầy: “Này người tên (như vầy), hãy lắng nghe. Đối với ngươi, bây giờ là thời điểm của sự thật, là thời điểm của bản chất. Trong khi được hỏi ở giữa hội chúng về việc đã sanh khởi, nếu điều ấy là đúng thì nên nói: ‘Có;’ nếu không đúng, nên nói: ‘Không có.’ Chớ có bối rối, chớ nên mắc cở. Các vị sẽ hỏi ngươi như vầy: ‘Ngươi có các bệnh như thế này không: Bệnh cùi? Bệnh mụt nhọt? Bệnh chàm? Bệnh lao phổi? Bệnh động kinh? Ngươi là loài người? Ngươi là người nam? Ngươi là người được tự do (không phải nô lệ)? Ngươi không thiếu nợ? Ngươi không phải là lính của đức vua? Ngươi đã được cha mẹ cho phép? Ngươi đã tròn hai mươi tuổi? Ngươi có đầy đủ y bát không? Ngươi tên gì? Vị thầy tế độ của ngươi tên gì?”

Họ đi đến cùng một lúc. – “Này các tỳ khưu, không nên đi đến cùng một lúc. Vị chỉ bảo nên đi đến trước và thông báo cho hội chúng:

“Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Tôi đã chỉ bảo cho người ấy. Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, thì người tên (như vầy) có thể đi đến.” Và nên nói rằng: “Ngươi hãy đi đến.”

Nên bảo (người ấy) đắp thượng y một bên vai, bảo đảnh lễ ở chân các tỳ khưu, bảo ngồi chồm hổm, bảo chắp tay lên, và bảo cầu xin sự tu lên bậc trên:

Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên lần thứ nhì. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót. Bạch các ngài, tôi cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên lần thứ ba. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy tế độ tôi vì lòng thương xót.”

Hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực: “Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, tôi sẽ hỏi người tên (như vầy) về các pháp chướng ngại.” “Này người tên (như vầy), hãy lắng nghe. Đối với ngươi, bây giờ là thời điểm của sự thật, là thời điểm của bản chất. Ta hỏi về việc đã sanh khởi, nếu điều ấy là đúng thì nên nói: ‘Có;’ nếu không đúng, nên nói: ‘Không có.’ Ngươi có các bệnh như thế này không: Bệnh cùi? Bệnh mụt nhọt? Bệnh chàm? Bệnh lao phổi? Bệnh động kinh? Ngươi là loài người? Ngươi là người nam? Ngươi là người được tự do (không phải nô lệ)? Ngươi không thiếu nợ? Ngươi không phải là lính của đức vua? Ngươi đã được cha mẹ cho phép? Ngươi đã tròn hai mươi tuổi? Ngươi có đầy đủ y bát không? Ngươi tên gì? Vị thầy tế độ của ngươi tên gì?”

Hội chúng nên được thông báo bởi vị tỳ khưu có kinh nghiệm, đủ năng lực:

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy), là người trong sạch về các pháp chướng ngại, là người có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với thầy tế độ tên (như vầy). Nếu là thời điểm thích hợp cho hội chúng, hội chúng nên cho người tên (như vầy) tu lên bậc trên với thầy tế độ tên (như vầy). Đây là lời đề nghị.

Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy), là người trong sạch về các pháp chướng ngại, là người có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với thầy tế độ tên (như vầy). Hội chúng cho người tên (như vầy) tu lên bậc trên với thầy tế độ tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của người tên (như vầy) với thầy tế độ tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ nhì. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy), là người trong sạch về các pháp chướng ngại, là người có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với thầy tế độ tên (như vầy). Hội chúng cho người tên (như vầy) tu lên bậc trên với thầy tế độ tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của người tên (như vầy) với thầy tế độ tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Tôi xin thông báo sự việc này lần thứ ba. Bạch các ngài, xin hội chúng hãy lắng nghe tôi. Người này tên (như vầy) có ý muốn tu lên bậc trên với đại đức tên (như vầy), là người trong sạch về các pháp chướng ngại, là người có đầy đủ y bát. Người tên (như vầy) cầu xin hội chúng sự tu lên bậc trên với thầy tế độ tên (như vầy). Hội chúng cho người tên (như vầy) tu lên bậc trên với thầy tế độ tên (như vầy). Đại đức nào đồng ý sự tu lên bậc trên của người tên (như vầy) với thầy tế độ tên (như vầy) xin im lặng; vị nào không đồng ý có thể nói lên.

Người tên (như vầy) đã được hội chúng cho tu lên bậc trên với thầy tế độ tên (như vầy). Sự việc được hội chúng đồng ý nên mới im lặng. Tôi ghi nhận sự việc này là như vậy.”

Dứt hành sự tu lên bậc trên.

–ooOoo–

Ngay khi ấy, bóng nắng cần được đo đạc, việc xác định mùa tiết nên được chỉ dạy, việc phân chia ngày (giờ) nên được chỉ dạy, điều đã được kết tập lại nên được chỉ dạy, bốn vật nương nhờ nên được chỉ dạy:

“Việc xuất gia nương vào thức ăn do khất thực, trong trường hợp ấy ngươi nên thể hiện sự nỗ lực cho đến hết đời; phần thọ lãnh ngoại lệ là bữa ăn dâng hội chúng, bữa ăn được chỉ định, sự mời thỉnh, bữa ăn theo thẻ, vào mỗi nửa tháng, vào ngày Uposatha, vào ngày đầu của mỗi nửa tháng. (1)

Việc xuất gia nương vào y làm bằng vải dơ bị quăng bỏ; trong trường hợp ấy ngươi nên thể hiện sự nỗ lực cho đến hết đời; phần thọ lãnh ngoại lệ là (y làm bằng) sợi lanh, bông vải, tơ lụa, sợi len, gai thô, chỉ bố. (2)

Việc xuất gia nương vào chỗ trú ngụ là gốc cây; trong trường hợp ấy ngươi nên thể hiện sự nỗ lực cho đến hết đời; phần thọ lãnh ngoại lệ là trú xá, nhà một mái, tòa nhà dài, khu nhà lớn, hang động. (3)

Việc xuất gia nương vào dược phẩm là nước tiểu gia súc, trong trường hợp ấy ngươi nên thể hiện sự nỗ lực cho đến hết đời; phần thọ lãnh ngoại lệ là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật, đường mía.” (4)

Dứt bốn vật nương nhờ.

–ooOoo–

Vào lúc bấy giờ, các vị tỳ khưu sau khi cho tu lên bậc trên vị tỳ khưu nọ đã bỏ lại (vị ấy) mỗi một mình rồi ra đi. Sau đó trong khi đang đi chỉ mỗi một mình, giữa đường vị ấy đã gặp lại người vợ cũ. Cô ta đã nói như vầy: – “Nay chàng đã xuất gia rồi sao?” – “Đúng vậy, tôi đã xuất gia.” – “Đối với các vị xuất gia việc đôi lứa là khó đạt được. Hãy đến và thực hiện việc đôi lứa đi.” Vị ấy sau khi thực hiện việc đôi lứa với nàng ta đã đi về trễ. Các vị tỳ khưu đã nói như vầy: – “Này sư đệ, vì sao sư đệ đã đi về trễ như vậy?” Khi ấy, vị ấy đã kể lại sự việc ấy cho các tỳ khưu. Các tỳ khưu đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn. – “Này các tỳ khưu, ta cho phép ban cho người cộng sự và chỉ dạy bốn điều không nên làm ngay sau khi cho tu lên bậc trên:

“Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên thực hành việc đôi lứa, thậm chí với loài thú cái. Vị tỳ khưu nào thực hành việc đôi lứa thì không còn là Sa-môn không còn là Thích tử nữa. Cũng giống như người đàn ông đã bị chặt đầu không thể sống với việc gắn lại cái đầu ấy vào thân; tương tự như thế, vị tỳ khưu sau khi thực hiện việc đôi lứa thì không còn là Sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời. (1)

Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên lấy vật không được cho được xem là sự trộm cắp, thậm chí có liên quan đến cọng cỏ. Vị tỳ khưu nào lấy vật không được cho là một pāda hoặc tương đương một pāda hoặc hơn một pāda được xem là sự trộm cắp thì không còn là Sa-môn không còn là Thích tử nữa. Cũng giống như chiếc lá vàng đã lìa khỏi cành không thể trở lại màu xanh; tương tự như thế, vị tỳ khưu sau khi lấy vật không được cho là một pāda hoặc tương đương một pāda hoặc hơn một pāda được xem là sự trộm cắp thì không còn là Sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời. (2)

Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên tước đoạt lấy mạng sống của chúng sanh một cách cố tình thậm chí có liên quan đến loài kiến, mối. Vị tỳ khưu nào tước đoạt lấy mạng sống khỏi cơ thể con người một cách cố tình thậm chí có liên quan đến việc phá thai thì không còn là Sa-môn không còn là Thích tử nữa. Cũng giống như tảng đá lớn đã bị vỡ làm hai mảnh không gắn liền lại được; tương tự như thế, vị tỳ khưu sau khi tước đoạt lấy mạng sống khỏi cơ thể con người một cách cố tình thì không còn là Sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời. (3)

Vị đã được tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu không nên khẳng định về pháp của bậc thượng nhân thậm chí (nói rằng): ‘Tôi thỏa thích trong ngôi nhà trống vắng.’ Vị tỳ khưu nào có ước muốn xấu xa, bị thúc đẩy bởi ước muốn, rồi khẳng định về pháp của bậc thượng nhân (mà bản thân) không có, không thực chứng, là pháp thiền, hoặc là pháp giải thoát, hoặc là sự nhập định, hoặc là sự chứng đắc, hoặc là Đạo, hoặc là Quả thì không còn là Sa-môn không còn là Thích tử nữa. Cũng giống như cây thốt nốt bị chặt ngọn không thể đâm chồi lại được nữa; tương tự như thế, vị tỳ khưu có ước muốn xấu xa, bị thúc đẩy bởi ước muốn, sau khi khẳng định về pháp của bậc thượng nhân (mà bản thân) không có, không thực chứng thì không còn là Sa-môn không còn là Thích tử nữa. Ngươi không nên làm điều ấy cho đến hết đời.” (4)

Dứt bốn điều không nên làm.

–ooOoo–

Vào lúc bấy giờ, có vị tỳ khưu nọ là người bị án treo trong việc không nhìn nhận tội đã hoàn tục. Vị ấy đã quay trở lại và cầu xin các tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Các vị đã trình sự việc ấy lên đức Thế Tôn.

– “Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là người bị án treo trong việc không nhìn nhận tội lại hoàn tục. Vị ấy quay trở lại và cầu xin các tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Vị ấy nên được nói như vầy: “Ngươi sẽ nhìn nhận tội ấy?” Nếu (trả lời): “Tôi sẽ nhìn nhận” thì nên cho xuất gia. Nếu (trả lời): “Tôi sẽ không nhìn nhận” thì không nên cho xuất gia. Sau khi cho xuất gia, nên nói rằng: “Ngươi sẽ nhìn nhận tội ấy?” Nếu (trả lời): “Tôi sẽ nhìn nhận” thì nên cho tu lên bậc trên. Nếu (trả lời): “Tôi sẽ không nhìn nhận” thì không nên cho tu lên bậc trên. Sau khi đã cho tu lên bậc trên, nên nói rằng: “Ngươi sẽ nhìn nhận tội ấy?” Nếu (trả lời): “Tôi sẽ nhìn nhận” thì nên phục hồi. Nếu (trả lời): “Tôi sẽ không nhìn nhận” thì không nên phục hồi. Sau khi đã phục hồi nên nói rằng: “Ngươi nhìn nhận tội ấy?” Nếu vị ấy nhìn nhận thì việc ấy được tốt đẹp, nếu vị ấy không nhìn nhận thì trong khi đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) nên phạt án treo lại. Nếu không đạt được sự hợp nhất thì không phạm tội trong việc thọ hưởng chung, cư ngụ chung (với vị ấy).

Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là người bị án treo trong việc không sửa chữa lỗi lại hoàn tục. Vị ấy quay trở lại và cầu xin các tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Vị ấy nên được nói như vầy: “Ngươi sẽ sửa chữa lỗi ấy?” Nếu (trả lời): “Tôi sẽ sửa chữa” thì nên cho xuất gia. Nếu (trả lời): “Tôi sẽ không sửa chữa” thì không nên cho xuất gia. Sau khi cho xuất gia, nên nói rằng: “Ngươi sẽ sửa chữa lỗi ấy?” Nếu (trả lời): “Tôi sẽ sửa chữa” thì nên cho tu lên bậc trên. Nếu (trả lời): “Tôi sẽ không sửa chữa” thì không nên cho tu lên bậc trên. Sau khi đã cho tu lên bậc trên, nên nói rằng: “Ngươi sẽ sửa chữa lỗi ấy?” Nếu (trả lời): “Tôi sẽ sửa chữa” thì nên phục hồi. Nếu (trả lời): “Tôi sẽ không sửa chữa,” thì không nên phục hồi. Sau khi đã phục hồi nên nói rằng: “Ngươi sửa chữa lỗi ấy?” Nếu vị ấy sửa chữa thì việc ấy được tốt đẹp, nếu vị ấy không sửa chữa thì trong khi đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) nên phạt án treo lại. Nếu không đạt được sự hợp nhất thì không phạm tội trong việc thọ hưởng chung, cư ngụ chung (với vị ấy).

Này các tỳ khưu, trường hợp vị tỳ khưu là người bị án treo trong việc không chịu từ bỏ tà kiến ác lại hoàn tục. Vị ấy quay trở lại và cầu xin các tỳ khưu sự tu lên bậc trên. Vị ấy nên được nói như vầy: “Ngươi sẽ từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu (trả lời): “Tôi sẽ từ bỏ” thì nên cho xuất gia. Nếu (trả lời): “Tôi sẽ không từ bỏ” thì không nên cho xuất gia. Sau khi cho xuất gia, nên nói rằng: “Ngươi sẽ từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu (trả lời): “Tôi sẽ từ bỏ” thì nên cho tu lên bậc trên. Nếu (trả lời): “Tôi sẽ không từ bỏ” thì không nên cho tu lên bậc trên. Sau khi đã cho tu lên bậc trên, nên nói rằng: “Ngươi sẽ từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu (trả lời): “Tôi sẽ từ bỏ” thì nên phục hồi. Nếu (trả lời): “Tôi sẽ không từ bỏ” thì không nên phục hồi. Sau khi đã phục hồi nên nói rằng: “Ngươi từ bỏ tà kiến ác ấy?” Nếu vị ấy từ bỏ thì việc ấy được tốt đẹp, nếu vị ấy không từ bỏ thì trong khi đạt được sự hợp nhất (của hội chúng) nên phạt án treo lại. Nếu không đạt được sự hợp nhất thì không phạm tội trong việc thọ hưởng chung, cư ngụ chung (với vị ấy).

Chương Trọng Yếu là thứ nhất.

Tóm lược chương này

Luật, về các ý nghĩa quan trọng, là nguồn đem đến sự an lạc cho các tỳ khưu hiền thiện có sự ngăn chặn các ước muốn về việc ác và có sự khiêm nhường trong những việc ra sức.

Và còn là sự nâng đỡ của Giáo Pháp, là hành xứ của các đấng Toàn Tri và các bậc Chiến Thắng, là lãnh vực không xa lạ, được an toàn, đã khéo được quy định, không có điều nghi hoặc.

Tương tự như người làm điều lợi ích, (vị tỳ khưu) tốt thực hành một cách đúng đắn về Luật ở bộ Hợp Phần (Đại Phẩm và Tiểu Phẩm), luôn cả bộ Tập Yếu và các tiêu đề (bộ Đại Phân Tích).

Người không hiểu biết về loài bò không chăn giữ đàn bò được. Như vậy, trong khi không biết giới, làm sao vị ấy có thể gìn giữ sự thu thúc?

Cho đến khi Kinh và Vi Diệu Pháp bị quên lãng mà Luật chưa bị tiêu hoại thì Giáo Pháp vẫn còn tồn tại.

Vì điều đó, với việc kết tập là nguyên nhân, tôi sẽ tuần tự nói về phần tóm lược theo như sự hiểu biết, xin các vị hãy lắng nghe tôi nói.

Câu chuyện, phần duyên khởi, tội vi phạm, phương thức, và luôn cả phần trùng lặp. Để không giản lược thì việc ấy thật khó làm. Các vị hãy hiểu rõ điều ấy đúng theo phương pháp.”

Sự giác ngộ, và cội cây Rājayatana, cội cây người chăn dê, vị Sahampati, đấng Phạm Thiên, vị Aḷāra, và vị Uddaka, (năm) tỳ khưu, và ẩn sĩ Upaka.

Koṇḍañña, Bhaddiya, Vappa, Mahānāma, và Assaji, Yasa, bốn (người bạn), năm mươi (người bạn), Ngài đã phái đi tất cả, (việc xuất gia ở) các phương.

Câu chuyện với các Ma Vương, và ba mươi (vị vương tử), ba đạo sĩ bện tóc ở Uruvelā, nhà thờ lửa, vị đại vương Sakka, Phạm Thiên, và toàn thể (dân chúng).

Y paṃsukūla, hồ nước, tảng đá, và (cành cây) Kakudha, khối đá (phơi y), trái Jambu, trái xoài, trái Āmalakī, và Ngài đã mang lại bông hoa san hô.

Này Kassapa, hãy chẻ ra, hãy đốt lên, và hãy dập tắt đi. Các vị hụp (xuống nước), chảo lửa, đám mây đen, (đỉnh) Gayā, (khu rừng) Laṭṭhi, và vua xứ Magadha.

Rồi Upatissa và Kolita danh tiếng đã xuất gia. Các vị mặc y luộm thuộm, (cho phép) việc đuổi đi, và vị Bà-la-môn bị ốm o cằn cỗi.

Vị làm hành động sai trái, (vì) bao tử, chàng trai trẻ, hội chúng (là mười vị). (Bao nhiêu) năm, với các vị ngu dốt, trong khi (thầy) ra đi, mười năm, việc nương nhờ.

Các vị không thực hành, để đuổi đi, các vị ngu dốt, sự đình chỉ, năm, sáu (điều kiện), vị nào là ngoại đạo, lõa thể, tóc chưa cắt, đạo sĩ bện tóc, và dòng Sakya.

Ở xứ Magadha, năm thứ bệnh, một (trường hợp), (lính của) đức vua, và (kẻ cướp đeo) ngón tay, và vua Magadha đã cho phép, kẻ (phá) ngục, án ghi, bị phạt roi.

Các dấu hiệu, kẻ nợ và nô tỳ, kẻ sói đầu, (thiếu niên) Upāli, bệnh dịch, gia đình có đức tin, sa di Kaṇṭaka, và luôn cả chuyện bị tắt nghẽn (hướng đi).

Về việc nương nhờ, đứa trẻ trai, các điều học, chúng sống, và điều gì nữa? (việc ngăn cấm) toàn bộ, miệng, các thầy tế độ, việc dụ dỗ, chuyện Kaṇṭaka.

Kẻ vô căn, trộm (tướng mạo), chuyển sang (ngoai đạo), con rồng, và (kẻ giết) mẹ, cha, A-la-hán, (làm nhơ) tỳ khưu ni, chia rẽ, (làm chảy) máu, và kẻ lưỡng căn.

Thầy tế độ không có, với hội chúng, hoặc nhóm, kẻ vô căn, không bình bát, không y, hoặc cả hai, với đồ mượn là ba.

Các người (bị đứt) bàn tay, bàn chân, bàn tay và bàn chân, lỗ tai và lỗ mũi, hoặc cả hai điều ấy, các ngón, móng tay, và gân chân, tay có màng, gù lưng, và người lùn.

Người bị bướu cổ, và luôn cả người bị đóng dấu, bị phạt roi, bị tầm nã, phù chân voi, bệnh nặng, kẻ bôi nhọ hội chúng, người chột mắt và bị bệnh co rút, là tương tự như thế.

Người què, và luôn cả người bị liệt nửa thân, người có tướng đi khập khiễng, người già yếu, người mù, người câm, người điếc, người mù và câm là ở nơi ấy.

Người mù và điếc đã được nói đến, và luôn cả người bị câm và điếc, người bị mù câm điếc, và việc nương nhờ của những kẻ không liêm sỉ.

Có thể sống, và đi đường xa là tương tự, với vị yêu cầu, những người mong muốn, hãy đi đến, chúng tranh cãi, với cùng thầy tế độ, vị Kumārakassapa.

Và được thấy những vị đã tu lên bậc trên bị khổ sở vì các thứ bệnh, chưa được chỉ dạy, các vị bị bối rối, việc chỉ dạy ở ngay chính nơi ấy.

Rồi ở nơi hội chúng, kẻ ngu, chưa được chỉ định, cùng một lúc, xin hãy tế độ, sự tu lên bậc trên, vật nương nhờ, mỗi một mình, ba (trường hợp).

Dứt phần tóm lược của chương Trọng Yếu.

[8] Được vị bị bệnh yêu cầu hãy sống nương nhờ vào vị ấy (VinA. v, 1032).

TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)

* Thuộc ĐẠI PHẨM I - HỢP PHẦN - TẠNG LUẬT - TAM TẠNG TIPITAKA |Dịch Việt: Tỳ Khưu Indacanda | Nguồn: Tamtangpaliviet.net
Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app