[19]
ANUMODANĀVIDHI
VỀ CÁCH DÙNG KỆ HOAN HỶ
Nếu có dịp quí như thọ lãnh CA SA trong đền Vua hoặc nơi người thường, bố thí đến Chư Tăng, theo lệ trong năm (như trong mỗi năm 3 kỳ) thì phải tụng bài: KĀLADĀNASUTTAGĀTHĀ và ĀYU VAṆṆO SUKHAṂ BALAṂ.
Nếu trong đền Vua có dâng cúng nhiều tài vật, thì thọ lãnh bằng bài: MAṄGALACAKKAVĀḶA cùng BHAVATU SABBAMAṄGALAṂ để phúc chúc cho đức Vua.
Nếu dâng cúng Y VASSAVĀSIKA thì phải tụng KĀLADĀNASUTTAGĀTHĀ, như thọ lãnh Ca-Sa theo lệ trong năm.
Nếu người dâng cúng KAṬHINA thì phải tụng SABBĪTIYO, KEṆIYĀNUMODANAGĀTHĀ, rồi đồng cùng nhau tụng KĀLADĀNASUTTAGĀTHĀ và tụng dứt bằng BHAVATU SABBAMAṄGALAṂ.
Khi người dâng cúng VASSIKASĀṬIKĀ (y tắm mưa) thì phải tụng phúc chúc như trong lễ KAṬHINA. Khi người dâng cúng thất, thì phải tụng VIHĀRADĀNAGĀTHĀ, thêm ĀYU VAṆṆO SUKHAṂ BALAṂ.
Ngày mà người làm lễ chúc thọ thì phải tụng: DEVATODISSADAKKHIṆĀNUMODANAGĀTHĀ.
Nếu ngày lễ khánh thành đức kim thân (Tượng Phật), Tháp Bảo thì phải cầu chúc bằng bài AGGAPPASĀDASUTTAGĀTHĀ và SAṄGAHAVATTHUGĀTHĀ.
Nếu người thỉnh đi thọ thực hoặc đi dâng cơm thì phải tụng bài: BHOJANĀNUMODANAGĀTHĀ và ĀDIYASUTTA GĀTHĀ, tụng phúc chúc theo lễ trong năm, như trong ngày Xuân nhựt, nhập Hạ và xuất Hạ.v.v…
JĪVABHATTĀNUMODANAGĀTHĀ chỉ dùng trong lễ đền ơn đến các bậc ân nhân, nhứt là đến cha mẹ, Thầy Tổ còn tại tiền, gọi là lễ chúc thọ (ngoài ra thì không nên dùng đến).
Nếu người làm lễ hồi hướng cho những kẻ đã quá vãng, thì phải tụng:
PUBBAPETABALIDĀNĀNUMODANAGĀTHĀ;
SIDDHIYĀCANAGĀTHĀ; và
BHAVATU SABBAMAṄGALAṂ.
Dứt kinh kệ bố cáo (cho thí chủ) hoan hỷ.
-ooOoo-