Nội Dung Chính
XUẤT XỨ CỦA LỄ DÂNG Y KATHINA
Hằng năm vào ngày rằm tháng 9 (âm lịch), khắp mọi nơi trên các nước Phật giáo Nguyên Thủy Theravāda, chư tỳ khưu Tăng sau khi làm đại lễ Pavāraṇā (lễ thỉnh mời nhắc nhỡ lỗi lẫn nhau) xong; bắt đầu ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 10, trong suốt 30 ngày ấy, tất cả mọi người Phật tử tại gia là cận sự nam, cận sự nữ nô nức chuẩn bị làm lễ dâng y kathina đến chư tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, tại mỗi ngôi chùa hoặc một nơi thanh vắng trong rừng núi. Lễ dâng y kathina là một nghi lễ theo truyền thống trong Phật giáo từ ngàn xưa cho đến nay.
Trong đời, có số truyền thống bắt nguồn từ thời gian nào, do một vị nào khởi xướng đầu tiên khó mà biết được, cho nên người ta thường nói: “Xưa bày nay làm”. Nhưng truyền thống lễ dâng y kathina đến chư tỳ khưu Tăng có xác định thời gian bắt đầu rõ ràng:
Trong Tạng Luật, bộ Mahāvagga, phần Kathi- nakkhandhaka ghi rõ về tích chuyện bắt đầu Đức Phật cho phép tỳ khưu thọ y kathina như sau:
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika gần kinh thành Sāvatthī. Khi ấy nhóm 30 vị tỳ khưu xứ Pāveyya(1) đều thọ hạnh đầu đà như: Hạnh đầu đà ở trong rừng, hạnh đầu đà đi khất thực, hạnh đầu đà thọ tam y,… Quý Ngài đều có ý định đi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Jetavana. Trên đường đi chưa đến kinh thành Sāvatthī, quý Ngài mới đến xứ Sāketa thì nhằm vào ngày 16 tháng 6 (âm lịch) là ngày chư tỳ khưu phải an cư nhập hạ tại một nơi cố định suốt 3 tháng mùa mưa. Cho nên, quý Ngài đành phải an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại xứ Sāketa, mà tâm của quý Ngài luôn luôn hướng về Đức Thế Tôn, quý Ngài thường nói với nhau rằng:
“Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthī, khoảng cách chỗ ở của chúng ta chỉ có 6 do tuần , nhưng chúng ta không thể đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn được”.
Khi qua 3 tháng mùa mưa, vào ngày rằm tháng 9 (âm lịch), quý Ngài làm đại lễ Pavāraṇā (Lễ thỉnh mời nhắc nhở lỗi lẫn nhau) xong, sáng ngày hôm sau (16 tháng 9), quý Ngài tiếp tục lên đường đi đến kinh thành Sāvatthī. Mặc dù tháng cuối mùa mưa(3) nhưng trời vẫn còn mưa nhẹ hột, trên đường có những vũng nước đầy, đường xá lầy lội, quý Ngài mặc trên thân mình bộ y bị ướt đẫm và dính đầy sình lầy, thân phải chịu vất vả, đi đến ngôi chùa Jetavana vào hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ.
1 Tạng luật Thái gọi xứ Paṭheyya. Nhóm 30 vị tỳ khưu xứ Pāveyya đều là bậc Thánh Hữu Học (bậc Thánh Nhập Lưu, bậc Thánh Nhất Lai và bậc Thánh Bất Lai) vốn là 30 Hoàng tử huynh đệ cùng phụ hoàng với Đức vua Pasenadi Kosala.
2 Một do tuần khoảng 20 cây số.
3 XứẤnĐộmỗinămcó3mùa:Mùamưa,mùalạnhvàmùanóng; mỗi mùa có 4 tháng.
Đức Thế Tôn truyền hỏi chư tỳ khưu rằng:
– Này các con, các con có kham nhẫn được không?
Các con có điều hòa thân tứ đại này được không?
Các con sống với nhau hòa hợp, đồng tâm nhất trí, không cãi cọ lẫn nhau, sống an cư nhập hạ được an lạc trong suốt 3 tháng mùa mưa phải không?
Hằng ngày các con đi khất thực không vất vả lắm phải không?
Chư tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn rằng:
– Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đều kham nhẫn được; chúng con có thể điều hoà thân tứ đại này được; chúng con sống với nhau hòa hợp, đồng tâm nhất trí, không cãi cọ lẫn nhau, sống an cư nhập hạ được an lạc trong suốt 3 tháng mùa mưa. Hằng ngày chúng con đi khất thực không vất vả. Bạch Ngài.
Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con 30 người xứ Pāveyya đều có ý định đi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, sau đó sẽ an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại kinh thành Sāvatthī. Khi chúng con đến xứ Sāketa, thì nhằm vào ngày 16 tháng 6, chúng con đành phải an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại đó, mà tâm của chúng con luôn luôn hướng về Đức Thế Tôn, chúng con thường nói với nhau rằng:
“Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthī, khoảng cách chỗ ở của chúng ta chỉ có 6 do tuần, nhưng chúng ta không thể đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn được”.
Khi qua 3 tháng mùa mưa, vào ngày rằm tháng 9 chúng con làm đại lễ Pavāraṇā xong, sáng ngày hôm sau (16 tháng 9) tất cả chúng con tiếp tục lên đường đến hầu Đức Thế Tôn.
Đức Phật Cho Phép Chư Tăng Thọ Y Kathina
Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết pháp tế độ nhóm 30 vị tỳ khưu xứ Pāveyya, sau khi lắng nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp, quý Ngài đều chứng đắc thành bậc thánh A-ra-hán.
Nhóm 30 vị tỳ khưu xứ Pāveyya là nguyên nhân bắt nguồn đầu tiên Đức Thế Tôn cho phép chư tỳ khưu sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, được thọ y kathina. Đức Phật dạy rằng:
– Này chư tỳ khưu, Như Lai cho phép chư tỳ khưu đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa xong, được thọ y kathina.
Này chư tỳ khưu, tỳ khưu đã thọ y kathina xong rồi, sẽ được hưởng đặc ân 5 quả báu là:
1- Khi được thỉnh mời, vị tỳ khưu ấy có thể ra khỏi chùa, mà không báo cho vị tỳ khưu khác biết. (không phạm giới).
2- Vị tỳ khưu ấy không giữ gìn đủ tam y (không phạm giới).
3- Vị tỳ khưu ấy được dùng vật thực cùng nhóm (4 vị tỳ khưu trở lên), dù thí chủ gọi tên vật thực ấy (không phạm giới).
4- Vị tỳ khưu thọ nhận y dư (ngoài tam y) cất giữ quá 10 đêm (không phạm giới).
5- Y phát sinh nơi nào, tỳ khưu được phép thọ nhận nơi ấy.
Này chư tỳ khưu, tỳ khưu đã thọ y kathina xong rồi, sẽ được hưởng đặc ân 5 quả báu này.
Sau khi đã làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, tỳ khưu nào đã nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina của chư Tăng, không thay đổi chỗ ở, dù đi nơi nào, tâm vẫn lưu luyến với ngôi chùa cũ (chỗ đã an cư nhập hạ), vị tỳ khưu ấy được hưởng đặc ân 5 quả báu ấy suốt 5 tháng, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2, hết hạn quả báu kathina.
Nếu chư tỳ khưu Tăng không làm lễ thọ y kathina, cũng không làm lễ hoan hỷ y kathina của chư Tăng, thì chư tỳ khưu ấy chỉ được hưởng đặc ân 5 quả báu trong 1 tháng, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến rằm tháng 10, hết hạn quả báu.
Như vậy, sự thật rõ ràng là Đức Phật cho phép chư tỳ khưu Tăng sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa được thọ y kathina. Cho nên, lễ dâng y kathina trở thành truyền thống của Phật giáo từ thời kỳ Đức Phật mãi cho đến nay.
1 Tạng Luật, bộ Mahāvagga, phần Kathinakkhandhaka.
Đức Phật Gotama cho phép tỳ khưu Tăng được thọ y kathina từ thời gian nào?
Từ khi Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian cho đến khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn có 45 hạ (vassa: năm). Vào hạ thứ 14, Đức Phật cùng chư tỳ khưu Tăng an cư nhập hạ tại ngôi chùa Jetavana của ông phú hộ Anāthapiṇḍika, gần kinh thành Sāvatthī. Sau khi ra hạ, nhóm 30 vị tỳ khưu xứ Pāveyya đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn tại ngôi chùa Jetavana. Chính nhóm 30 vị tỳ khưu xứ Pāveyya là nguyên nhân bắt nguồn đầu tiên, Đức Thế Tôn cho phép chư tỳ khưu Tăng sau khi đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa, được thọ y kathina.
Như vậy, lễ dâng y kathina bắt đầu từ sau hạ thứ 14 của Đức Phật và được lưu truyền trở thành truyền thống của Phật giáo mãi cho đến nay.
Y Kathina Không Thành Tựu và Thành Tựu
Thời xưa, những thí chủ dâng vải đến chư tỳ khưu Tăng để may y, cho nên, may y là công việc của chư tỳ khưu. Đặc biệt vải may y kathina phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý. Trong Tạng Luật bộ Mahāvagga, phần Kathinak- khandhaka, Đức Phật quy định có 24 trường hợp vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu và 17 trường hợp vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
* Lễ thọ y kathina không thành tựu
Đức Phật dạy:
– Này chư tỳ khưu, 24 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu như sau:
1- Tấm vải chỉ vạch đường ngang đường dọc để cắt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
2- Tấm vải mới giặt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
3- Tấm vải mới được chia 5 điều hoặc 7 điều chưa may thành y: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
4- Tấm vải được cắt rời từng điều chưa may thành y: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
5- Tấm y mới được ráp vào: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
6- Tấm y đang được may chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
7- Tấm y được may hai thành đứng hai bên chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
8- Tấm y được may ráp các điều vào chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
9- Tấm y được may hai thành y trên và dưới chưa xong: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
10- Tấm y mới được may chỗ cột dây (y chưa xong): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
11- Tấm y mới được kết gút (y chưa xong): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
12- Tấm y nhuộm màu còn nhạt: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
13- Tấm vải may y có được do vị tỳ khưu biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ biết: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
14-Tấm vải may y có được do vị tỳ khưu nói trực tiếp hoặc gián tiếp với thí chủ: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
15- Tấm vải may y được mượn của người khác: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
16- Tấm vải may y kathina, vị tỳ khưu nhận xong cất giữ qua đêm: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
17- Tấm vải may y kathina may chưa xong đã qua rạng đông (sang ngày khác): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
18- Tấm y chưa làm dấu tròn kappabindu: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
19- Tấm y không phải là y 2 lớp (saṃghāṭi): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
20- Tấm y không phải là y vai trái (uttara- saṅga): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
21- Tấm y không phải là y nội (antaravāsaka): Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
22- Tấm y không cắt may thành 5 điều hoặc 7 điều: Làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
23- Không phải là vị tỳ khưu: Làm lễ thọ y kathina thì không thành tựu.
24- Tỳ khưu thọ y kathina bên ngoài sīmā (ngoài phạm vi) và chư tỳ khưu nói lời hoan hỷ: Lễ kathina không thành tựu.
– Này chư tỳ khưu, đó là 24 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina không thành tựu.
* Lễ thọ y kathina được thành tựu
Đức Phật dạy:
– Này chư tỳ khưu, 17 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu như sau:
1- Tấm vải còn mới may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
2- Tấm vải giặt rồi còn mới may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
3- Tấm vải cũ may thành y: Làm lễ thọ y được kathina được thành tựu.
4-Lượm lặt những tấm vải dơ (paṃsukūla- cīvara) may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
5- Lượm lặt vải người ta xả bỏ may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
6- Tấm vải may y có được không phải do vị tỳ khưu biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
7- Tấm vải may y có được không phải do vị tỳ khưu nói trực tiếp hoặc gián tiếp với thí chủ, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
8- Tấm vải may y có được không phải mượn của người khác, may thành y: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
9- Tấm vải may y kathina mà vị tỳ khưu may thành y xong, không cất giữ qua đêm: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
10- Tấm y kathina may hoàn thành xong trước lúc rạng đông (chưa qua ngày khác): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
11-Tấm y đã làm dấu tròn nhỏ kappabindu xong: Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
12- Tấm y ấy là y 2 lớp (saṃghāṭi): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
13- Tấm y ấy là y vai trái (uttarasaṅga): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
14- Tấm y ấy là y nội (antaravāsaka): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
15- Tấm y cắt may đủ 5 điều (hoặc 7 điều) làm xong trong ngày: Làm lễ thọ y kathina thành tựu.
16- Vị tỳ khưu là người làm lễ thọ y (không phải nhóm hoặc chư tỳ khưu Tăng): Làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
17- Tỳ khưu làm lễ thọ y kathina bên trong sīmā và chư tỳ khưu Tăng nói lời hoan hỷ: Lễ thọ y kathina được thành tựu.
– Này chư tỳ khưu, đó là 17 trường hợp phát sinh vải may y làm lễ thọ y kathina được thành tựu.
Lễ Dâng Y Kathina Thời Xưa và Thời Nay
Trong thời xưa, thí chủ làm lễ dâng vải may y kathina (kathinadussa) đến chư tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa. Sau khi thọ nhận vải may y kathina xong, chư tỳ khưu Tăng hội họp tại sīmā, tuyển chọn một vị tỳ khưu nào xứng đáng, hiểu biết rõ 8 chi pháp mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư tỳ khưu Tăng. Chưtỳ khưu Tăng làm lễ hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakammavācā trao tấm vải may y kathina đến cho vị tỳ khưu đã được chọn ấy.
Việc may y để làm lễ thọ y kathina rất quan trọng và cần kíp, bởi vì tấm y cần phải được may xong trong ngày hôm ấy, để làm lễ thọ y kathina trước lúc rạng đông. Nếu tấm y may chưa xong, trễ sang ngày hôm sau, thì không thể làm lễ thọ y kathina với tấm y ấy được. Vì vậy, tất cả chư tỳ khưu trong ngôi chùa, bất luận là vị tỳ khưu nào đều phải tập hợp lại, lo may cho xong một tấm y, để kịp làm lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Cho nên, mỗi vị tỳ khưu mỗi việc, trước tiên, vạch đường ngang đường dọc, cắt tấm vải thành tấm y 2 lớp (saṃghāṭi), hoặc y vai trái (uttarasaṅga), hoặc y nội (antaravāsaka).
Tất cả chư tỳ khưu, mỗi vị lo may mỗi phần, ráp vào thành tấm y rồi nhuộm cho đúng màu mà Đức Phật đã chế định. Vị tỳ khưu kính thỉnh chư tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại ngôi chùa ấy hội họp lại, để cho vị tỳ khưu đã được tuyển chọn làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y ấy xong, tiếp theo vị tỳ khưu ấy thỉnh mời tất cả chư tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Tất cả chư tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng.
Sau khi làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong, nếu vị tỳ khưu nào tâm không muốn từ bỏ ngôi chùa cũ, thì vị tỳ khưu ấy hưởng được đặc ân 5 quả báu, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến ngày rằm tháng 2 (suốt 5 tháng) mới hết quả báu của kathina.
Trong thời nay, phần đông thí chủ không làm lễ dâng vải may y kathina, mà dâng y kathina (kathinacīvara), tấm y đã may sẵn đến chư tỳ khưu Tăng đã an cư nhập hạ suốt 3 tháng mùa mưa tại trong ngôi chùa ấy. Cho nên, tất cả chư tỳ khưu không bận rộn chung lo công việc may y, để làm lễ thọ y kathina. Sau khi thọ nhận tấm y kathina xong, chư tỳ khưu Tăng hội họp tại sīmā, tuyển chọn một vị tỳ khưu nào xứng đáng, hiểu biết rõ 8 chi pháp mà Đức Phật đã chế định và ban hành đến chư tỳ khưu Tăng. Chư tỳ khưu Tăng làm lễ hành Tăng sự tụng Ñattidutiyakammavācā trao tấm y kathina đến cho vị tỳ khưu đã được chọn ấy.
Vị tỳ khưu ấy làm lễ thọ y kathina của chư Tăng với tấm y ấy, và thỉnh mời chư tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng. Chư tỳ khưu Tăng đồng thanh nói lên lời hoan hỷ lễ thọ y kathina hợp pháp của chư Tăng.
Sau khi làm lễ thọ y kathina của chư Tăng xong rồi, nếu vị tỳ khưu nào tâm không muốn từ bỏ ngôi chùa cũ, thì vị tỳ khưu ấy hưởng được đặc ân 5 quả báu, kể từ ngày 16 tháng 9 cho đến rằm tháng 2 (suốt 5 tháng) mới hết quả báu của kathina.
Tấm y kathina như thế nào?
Tấm y kathina được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, do thiện tâm trong sáng của thí chủ. Nếu vải may y kathina (kathinadussa) hoặc tấm y kathina (kathinacīvara) được phát sinh không hợp pháp, bởi do một nguyên nhân, một trong những trường hợp mà Đức Phật đã quy định, thì nghi lễ thọ y kathina chắc chắn không thành tựu, và tất cả chư tỳ khưu Tăng cũng không hưởng được đặc ân 5 quả báu của kathina.
Ví dụ: Nếu có vị tỳ khưu nào tự mình biểu lộ bằng lời nói để cho thí chủ biết, để làm lễ dâng y kathina, hoặc tỳ khưu gián tiếp nói với thí chủ rằng:
“Tấm vải này làm lễ dâng y kathina được” hoặc “Thí chủ làm lễ dâng y kathina được nhiều phước thiện thanh cao”… Khi nghe tỳ khưu động viên khuyến khích như vậy, thí chủ xin làm lễ dâng y kathina đến chư tỳ khưu Tăng, thì tấm y kathina ấy phát sinh không hợp pháp, vị tỳ khưu làm lễ thọ y kathina với tấm y ấy chắc chắn không thành tựu lễ thọ y kathina, và tất cả chư tỳ khưu Tăng cũng không hưởng được đặc ân 5 quả báu của kathina.
Trong chú giải bộ Luật Mahāvagga dạy rằng: “Kathinaṃ nāma ati ukkaṭṭham vaṭṭati, mātarampi viññāpetuṃ na vaṭṭati, ākāsato otiṇṇasadisameva vaṭṭati”.
“Gọi tấm y kathina là tấm y được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý tuyệt vời, cho nên tỳ khưu làm lễ thọ y kathina không được phép xin tấm y, dù người thí chủ ấy là mẫu thân của mình. Tấm y kathina nên được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch, ví như từ trên hư không rơi xuống”.
Thật ra, Đức Phật cho phép tỳ khưu có thể xin 4 thứ vật dụng (y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh) từ mẫu thân, phụ thân và những người thân quyến có thỉnh mời trước, thậm chí từ thí chủ có thỉnh mời trước.
Ví dụ: “Kính bạch Ngài Đại đức, khi Ngài cần thứ vật dụng nào, kính xin Ngài nói cho con biết, con sẽ dâng thứ vật dụng ấy đến cho Ngài”.
Nhưng về y kathina, tỳ khưu không được phép xin trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc biểu lộ bằng lời nói cho thí chủ biết, để làm lễ dâng y kathina đến chư tỳ khưu Tăng, dù thí chủ đó là mẫu thân, phụ thân của mình, huống gì những thí chủ khác. Bởi vì, y kathina phải được phát sinh một cách hoàn toàn trong sạch và cao quý (kathinaṃ nāma ati ukkaṭṭhaṃ).
1 Chú giải Tạng Luật, bộ Mahāvagga, Kathinakkhandhaka.
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)