b-Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo trí-tuệ:
– 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
– 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ.
c-Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo tác-động:
– 4 đại-thiện-tâm không cần tác-động.
– 4 đại-thiện-tâm cần tác-động.
Giảng Giải
a-Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo thọ:
– 4 đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
– 4 đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả.
* Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ
Nếu khi người đang tạo phước-thiện nào với đại-thiện-tâm nào có đức-tin (saddhā) trong sạch nhiều, vô cùng hoan-hỷ trong phước-thiện ấy, thì đại-thiện-tâm ấy đồng sinh với thọ hỷ (somanassavedanā).
Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ có nhiều năng lực hơn đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả.
* Nhân phát sinh thọ hỷ
Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ có 6 nhân:
1- Somanassapaṭisandhikatā: Tái-sinh-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
2- Saddhābahulatā: Có nhiều đức-tin.
3- Visuddhadiṭṭhitā: Có chánh-kiến thanh-tịnh.
4- Ānisaṃsadassāvitā: Thấy rõ quả báu của đại-thiện-nghiệp ấy.
5- Iṭṭhārammaṇasamāyogo: Tiếp xúc với đối-tượng tốt đáng hài lòng.
6- Kassacipiḷābhāvo: Không gặp điều bất lợi, điều thiệt hại nào cả.
* Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả
Nếu khi người đang tạo phước-thiện nào với đại-thiện-tâm nào có đức-tin (saddhā) trong sạch ít, hoan-hỷ ít trong phước-thiện ấy, thì đại-thiện-tâm ấy đồng sinh với thọ xả (upekkhāvedanā).
Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả có ít năng lực hơn đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
* Nhân phát sinh thọ xả
Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả có 6 nhân:
1- Upekkhāpaṭisandhikatā: Tái-sinh-tâm đồng sinh với thọ xả.
2- Appasaddhatā: Có ít đức-tin.
3- Avisuddhadiṭṭhitā: Có chánh-kiến không thanh-tịnh.
4- Ānisaṃsa adassāvitā: Không thấy rõ quả báu của đại-thiện-nghiệp ấy.
5- Majjhattārammaṇasamāyogo: Tiếp xúc với đối-tượng trung bình không tốt, không xấu.
6- Kassacipiḷikatā: Gặp điều bất lợi, điều thiệt hại nào đó.
Đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ xả có ít năng lực hơn đại-thiện-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
* Sự khác nhau của thọ hỷ, thọ xả trong đại-thiện-tâm với bất-thiện-tâm (ác-tâm):
– Thọ hỷ đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm là đại-thiện-tâm vô cùng hoan-hỷ nhiều trong phước-thiện hoặc trong đại-thiện-nghiệp ấy, nên đại-thiện-nghiệp ấy có nhiều năng lực, có nhiều quả báu đáng hài lòng nhiều.
– Thọ hỷ đồng sinh với 4 tham-tâm là ác-tâm hoan-hỷ trong ác-pháp hoặc trong ác-nghiệp ấy, nên ác-nghiệp ấy là nặng, có nhiều quả khổ đáng kinh sợ.
– Thọ xả đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm là đại-thiện-tâm hoan-hỷ ít trong phước-thiện hoặc trong đại-thiện-nghiệp ấy, nên đại-thiện-nghiệp ấy có ít năng lực, có ít quả báu đáng hài lòng.
– Thọ xả đồng sinh với 4 tham-tâm là ác-tâm hoan-hỷ ít trong ác-pháp ấy hoặc trong ác-nghiệp ấy, nên ác-nghiệp ấy là nhẹ, có ít quả khổ.
b-Đại-thiện-tâm có 8 tâm chia theo trí-tuệ:
– 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
– 4 đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ.
* Đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ
Nếu người tạo phước-thiện nào với đại-thiện-tâm nào hợp với trí-tuệ hiểu biết rõ sự thật chỉ có nghiệp là của riêng mình mà thôi, thì đại-thiện-tâm ấy hợp với trí-tuệ (ñāṇasampayutta).
Đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có nhiều năng lực hơn đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ.
Trí-tuệ đồng sinh với đại-thiện-tâm có 2 loại trí-tuệ là:
– Kammassakatāñāṇa: Trí-tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình.
– Lokiyavipassanāñāṇa: Trí-tuệ thiền-tuệ tam-giới.
1- Kammassakatāñāṇa: Trí-tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình.
Bậc thiện-trí có trí-tuệ hiểu biết rõ chỉ có tất cả mọi thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp mà mình đã tạo rồi là của riêng mình thật sự mà thôi.
Ngoài tất cả mọi nghiệp ấy ra, còn lại những của cải tài-sản khác trong đời này đều thuộc về của chung của mọi người.
Tuy nhiên, nếu người nào đã từng tạo phước-thiện bố-thí trong kiếp quá-khứ thì kiếp hiện-tại người ấy có quyền sở hữu tạm thời của cải tài-sản ấy, được hưởng quả báu của đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy trong khoảng thời gian lâu hoặc mau tùy theo quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy.
Ví dụ: Đất đai thuộc về của chung, không phải là của riêng một ai cả, nhưng nếu người nào đã từng tạo phước-thiện bố-thí trong kiếp quá-khứ thì kiếp hiện-tại người ấy có quyền sở hữu tạm thời phần đất đai ấy, được hưởng quả báu của đại-thiện-nghiệp bố-thí đó là phần đất đai ấy trong khoảng thời gian lâu hoặc mau tùy theo quả của đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy, đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, thì phần đất đai ấy lại thuộc về của người khác.
Nếu người thiện-trí nào có trí-tuệ kammas-sakatāñāṇa biết sử dụng phần tiền của nào mà mình đang tạm thời có quyền sở hữu, đem ra tạo phước-thiện bố-thí thì đại-thiện-nghiệp bố-thí ấy vĩnh viễn thuộc về của riêng người ấy.
Như vậy, người thiện-trí ấy biết biến đổi của cải tạm thời trở thành đại-thiện-nghiệp bố-thí quý báu vĩnh-viễn thuộc về của riêng mình.
Tất cả mọi chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng sau khi chết, nghiệp nào có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới nào trong 31 cõi-giới, thuộc về hạng chúng-sinh nào trong bốn loài chúng-sinh, hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh.
Mỗi chúng-sinh trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài, từ vô thủy trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại đã từng tạo mọi đại-thiện-nghiệp và mọi ác-nghiệp của mỗi chúng-sinh từ kiếp này sang kiếp kia, tất cả mọi nghiệp ấy dù nặng dù nhẹ cũng đều được tích lũy, được lưu trữ đầy đủ trọn vẹn ở trong tâm, không hề mất mát một mảy may nào cả.
Nếu đại-thiện-nghiệp nào trong đại-thiện-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có đại-quả-tâm là quả của đại-thiện-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 7 cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc 6 cõi trời dục-giới, hưởng quả an-lạc của đại-thiện-nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của đại-thiện-nghiệp ấy, mới rời khỏi cõi thiện-dục-giới.
Nếu ác-nghiệp nào trong ác-tâm có cơ hội cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) có suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của ác-nghiệp gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhi-citta) làm phận sự tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu quả khổ trong cõi ác-giới ấy, cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới.
Người có kammassakatāñāṇa: Trí-tuệ hiểu biết rõ nghiệp là của riêng mình là người có chánh-kiến thấy đúng, biết đúng theo 10 pháp chánh-kiến.
Dasavatthusammādiṭṭhi:
1- Atthi dinnaṃ: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Phước-thiện bố-thí có quả tốt, quả an-lạc.
2- Atthi yiṭṭhaṃ: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Phước-thiện cúng-dường có quả tốt, quả an-lạc.
3- Atthi hutaṃ: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Đón rước, tiếp đãi có quả tốt, quả an-lạc.
4- Atthi sukatadukkatānam kammānaṃ phalaṃ vipāko: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Đã tạo thiện-nghiệp, ác-nghiệp rồi, thiện-nghiệp cho quả an-lạc, ác-nghiệp cho quả khổ.
5- Atthi ayaṃ loko: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Có cõi-giới này nghĩa là có chúng-sinh tái-sinh đến cõi-giới này.
6- Atthi paro loko: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Có cõi-giới khác nghĩa là sau khi chúng-sinh chết, nghiệp của họ cho quả tái-sinh kiếp sau trong cõi-giới khác.
7- Atthi mātā: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Đối xử tốt với mẹ có quả tốt, quả an-lạc; đối xử xấu với mẹ có quả xấu, quả khổ.
8- Atthi pitā: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Đối xử tốt với cha có quả tốt, quả an-lạc; đối xử xấu với cha có quả xấu, quả khổ.
9- Atthi sattā opapātikā: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Có các chúng-sinh loài hóa-sinh to lớn ngay tức thì như chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới, chư phạm-thiên trong 16 cõi trời sắc-giới, 4 cõi trời vô-sắc-giới, chúng-sinh địa-ngục, ngạ-quỷ, a-su-ra.
10- Atthi loke samaṇabrāhmaṇā samaggatā sammāpaṭipannā ye imañca lokaṃ parañca lokaṃ abhiññā sacchikatvā pavedenti: Chánh-kiến thấy đúng rằng: Trong đời này, có sa-môn, bà-la-môn thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép-thần-thông, thấy rõ biết rõ cõi-giới này, cõi-giới khác, rồi thuyết giảng cho mọi người cùng biết, đó là điều có thật.
Lokiyavipassanāñāṇa: Trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới
Trí-tuệ phát sinh có 3 cách:
1- Sutamayapaññā: Trí-tuệ phát sinh do lắng nghe chánh-pháp của bậc thiện-trí, học hỏi, nghiên cứu chánh-pháp, gọi là trí-tuệ phát sinh do học (sutamayapaññā).
2- Cintāmayapaññā: Trí-tuệ phát sinh do nghe nhiều hiểu rộng, học hỏi, nghiên cứu chánh-pháp của bậc thiện-trí làm nền tảng, rồi trí-tuệ suy xét, tư duy sâu sắc về chánh-pháp, gọi là trí-tuệ phát sinh do tư duy (cintāmayapaññā).
3- Bhāvanāmayapaññā: Trí-tuệ phát sinh do thực-hành pháp-hành thiền-tuệ.
Hành-giả là hạng người tam-nhân thực-hành pháp-hành thiền-tuệ có khả năng dẫn đến phát sinh từ trí-tuệ thứ nhất gọi là nāmarūpa-paricchedañāṇa: trí-tuệ thấy rõ, biết rõ phân tích rõ thật-tánh của danh-pháp sắc-pháp đúng theo chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải đàn ông, không phải đàn bà, không phải chúng-sinh, v.v… mà chỉ là sắc-pháp, danh-pháp mà thôi, và các trí-tuệ-thiền-tuệ tuần tự phát sinh tiếp theo đến,
Trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 4 gọi là uddayabbayā-nupassanāñāṇa: trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh sự diệt của sắc-pháp danh-pháp hiện-tại do nhân-duyên sinh, do nhân-duyên diệt, nên thấy rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái vô-thường, trạng-thái khổ, trạng-thái vô-ngã của sắc-pháp, danh-pháp hiện-tại, v.v… cho đến,
Trí-tuệ-thiền-tuệ thứ 13 gọi là gotrabhuñāṇa: trí-tuệ-thiền-tuệ có khả năng đặc biệt thấy rõ, biết rõ đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, nên vẫn còn lokiya-vipassanāñāṇa: trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới.
* Nhân hợp với trí-tuệ (1)
Đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có 4 nhân:
1- Paññāsaṃvattanikakammupanissayatā: Khi tái-sinh đầu thai làm người với đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ.
2- Abyāpajjalokupapattiyā: Kiếp tái-sinh không có phiền muộn, tâm mong mỏi trong thiện-pháp.
3- Kilesadūratā: Tránh xa mọi phiền-não.
4- Indriyaparipākatā: Có 5 tuệ-chủ đầy đủ.
* Nhân hợp với trí-tuệ (2)
Đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ có 7 nhân:
1- Paripucchakatā: Thường tìm hiểu học hỏi trong chánh-pháp.
2- Vatthuvisuddhakariyatā: Thân tâm trong sạch lẫn các thứ vật dụng sạch sẽ.
3- Indriyasamattapaṭipādanatā: Giữ gìn 5 pháp-chủ (tín, tấn, niệm, định, tuệ) đều đặn với nhau.
4- Duppaññapuggalaparivajjanā: Tránh xa hạng người thiểu trí.
5- Paññāvantapuggalasevanā: Thường hay gần gũi thân cận với bậc thiện-trí.
6- Gambhīrañāṇacariyapaccavekkhaṇā: Ham thích suy xét, tư-duy các chánh-pháp sâu sắc.
7- Tadadhimuttatā: Thường hướng tâm tìm hiểu chánh-pháp để phát sinh trí-tuệ.
* Đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ
Nếu người tạo phước-thiện nào với đại-thiện-tâm nào chỉ có đức-tin (saddhā) mà không hợp với trí-tuệ, không có kammassakatāñāṇa thì đại-thiện-tâm ấy không hợp với trí-tuệ (ñāṇa-vippayutta).
Như trường hợp người tạo phước-thiện bố-thí theo truyền thống của gia-đình, nên chỉ có đức-tin mà không có trí-tuệ đồng sinh với đại-thiện-tâm ấy; hoặc khi có bạn thân đến tác-động, khuyến khích tạo phước-thiện bố-thí, người ấy phát sinh đức-tin tạo phước-thiện bố-thí theo bạn thân mà không hiểu biết về kammassakatāñāṇa, nên đại-thiện-tâm ấy không hợp với trí-tuệ.
Đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có ít năng lực hơn đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.
* Nhân không hợp với trí-tuệ (1)
Đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có 4 nhân:
1- Paññā asaṃvattanikakammupanissayatā: Khi tái-sinh đầu thai làm người với đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ.
2- Sabyāpajjalokupapattiyā: Kiếp tái-sinh có phiền muộn, không mong mỏi trong thiện-pháp.
3- Kilesādūratā: Không tránh xa mọi phiền-não.
4- Indriya aparipākatā: Có 5 pháp-chủ kém.
* Nhân không hợp với trí-tuệ (2)
Đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ có 7 nhân:
1- Aparipucchakatā: Không thích tìm hiểu học hỏi trong chánh-pháp.
2- Vatthu avisuddhakariyatā: Thân tâm không trong sạch lẫn các thứ vật dụng không sạch sẽ.
3- Indriya asamattapaṭipādanatā: Có 5 pháp-chủ (tín, tấn, niệm, định, tuệ) không đều đặn.
4- Duppaññapuggalasevanā: Thường hay gần gũi thân cận với hạng người thiểu-trí.
5- Paññāvantapuggalaparivajjanā: Không gần gũi thân cận với bậc thiện-trí.
6- Gambhīrañāṇacariya apaccavekkhaṇā: Không thích suy xét các chánh-pháp sâu sắc.
7- Atadadhimuttatā: Không hướng tâm tìm hiểu chánh-pháp.