Tiêu đề 14- Trí hiểu rõ về hành (saṅkhāra).
Chánh kinh.
ChưHiền, thế nào là hành (saṅkhārā), thế nào là tập khởi của hành, thế nào là đoạn diệt của hành, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của hành?
Chư Hiền, có ba loại hành này: Thân hành (kāyasaṅkhāra), ngữ hành (vācīsaṅkhāra), tâm hành (cittasaṅkhāra).
Từ tập khởi của vô minh (avijjāsamudayā) có tập khởi của hành, từ đoạn diệt của vô minh (avijjānirrodhā) có đoạn diệt của hành; và Thánh đạo tám ngành là con đường đưa đến đoạn diệt của thức, tức là: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
Giải.
Saṅkhāra xuất nguyên từ Saṃ + căn KAR (làm), saṅkhāra nghĩa là “tạo ra”, như Pāli có giải:
“Saṅkhatamabhisaṅkharontī’ti = saṅkhāra.
Tạo tác thành pháp khác, gọi là Hành.”[81].
Có hai loại Hành: Hành do vô minh làm duyên trực tiếp, như nói “avijjā paccayā saṅkhārā: Vô minh duyên hành”.
Hành không do vô minh làm duyên trực tiếp, như nói “sabbe saṅkhārā aniccāti: Tất cả hành là vô thường”.
Hoặc là:
“Taṃ pavattitaṃ samānaṃ yāvatikā abhisaṅkhārassa gati tāvatikaṃ gantvā akkhāhataṃ maññe aṭṭhāsi:
Bánh xe ấy quay cho đến khi hết lực đẩy ban đầu, thì đứng lại như đang mắc vào trục xe”.[82]Hành ở đây chỉ cho sự chuyển động.
Hành thường được dùng với hai nghĩa “cái trực tiếp tạo ra và cái bị tạo”, như nghiệp và quả của nghiệp đều là pháp hành.
Tâm Siêu thế là pháp hành, Nípbàn là pháp vô hành (asaṅkhāra) vì Nípbàn không tạo ra pháp khác, đồng thời không bị pháp khác tạo ra.
A- Hành không do vô minh làm duyên. Có 4 loại.
1- Hữu vi hành (saṅkhatasaṅkhāra).
Là được sinh ra do sự vận chuyển của pháp hữu vi, được thành tựu do duyên của pháp hữu vi (ngoại trừ vô minh).
Gọi là “hữu vi hành”, vì pháp tạo ra lẫn pháp bị tạo đều là pháp hữu vi, như “sông cạn đá mòn”, hay lửa phát sinh từ hai thanh tre khô cọ xát nhau, âm thanh phát ra do hai vật chạm vào nhau … (hai thanh tre cọ vào nhau là hành (chuyển động), lửa (cũng là pháp hữu vi) phát sinh).
Hay: “Assāsapassāsā kho āvuso Visākha kāyikā ete dhammā kāyapaṭibaddhā, tasmā assāsapassāsa kāyasaṅkhāro.
“Này Hiền giả Visākha, hơi thở ra hơi thở vô là thân hành vì lệ thuộc vào thân.
Pubbe kho āvuso Visākha vitakketvā vicāretvā pacchā vācaṃ bhindati, tasmā vitakkavicārā vacīsaṅkhāro.
Này Hiền giả Visākha, trước phải tầm (vitakka) tứ (vicāra) rồi sau mới phát ra lời nói, nên tầm tứ thuộc ngữ hành (vacīsaṅkhāra).
Saññā ca vedanā ca cetasikā ete dhammā cittapaṭibaddhā, tasmā saññā ca vedanā ca cittasaṅkhāro ti.
Tưởng và thọ là tâm sở, các pháp này lệ thuộc vào tâm, nên thọ và tưởng thuộc tâm hành.”[83]
Như vậy, chúng ta thấy: Trong hữu vi hành này, có thêm ba loại hành cũng không phải là quả của Vô minh, tức là hơi thở (thân hành), bốn tâm sở tầm – tứ (ngữ hành), thọ – tưởng (tâm hành) trong tâm quả, bốn tâm sở này là quả của thức.
Bốn tâm sở này trong tâm Siêu thế và tâm duy tác, là quả của sự vận hành pháp. Và hành ở đây mang ý nghĩa “vận hành”.
2- Tối vi hành (abhisaṅkhatasaṅkhāra).
Abhi là “cao tột”. Abhisaṅkhatasankhāra là “pháp hữu vi được tạo ra cao nhất” mà nó có thể có được, như đứa bé phát huy sức mạnh cao nhất của nó, dĩ nhiên sức mạnh này không thể sánh bằng sức mạnh của người lớn.
Tối vi hành được thành tựu theo hai cách:
– Thành tựu tự nhiên.
Như 32 đại nhân tướng của vua Chuyển luân hay của Bồtát Chánh đẳng giác kiếp chót, 5 vẽ đẹp mỹ diệu của bà Visākhā, thân sắc của các vị Phạm thiên sắc giới, hay sắc diện xấu xí của nàng Pañcapāpā, thân xấu xí của các chúng sinh ngạ quỷ…
Hoặc các tâm quả hiệp thế thành tựu theo cách tự nhiên, như khi mắt chạm cảnh sắc xấu lập tức Nhãn thức thọ xả quả bất thiện sinh khởi…
– Thành tựu do nguyện lực.
Như Ngài Bakkula trong tiền kiếp cúng dường thuốc trị bịnh đến Đức Phật Kassapa (Cadiếp), nguyện thân ít bịnh, hay Hoàng hậu Anojā trong tiền kiếp cúng dường hoa anojā đến bảo tháp thờ Xálợi Đức Chánh giác Kassapa, nàng nguyện có được làn da như màu hoa anojā…
Chi pháp trong Tối vi hành là: Sắc nghiệp và tâm quả hiệp thế.
3- Chuyên tạo hành (abhisaṅkharaṇakasaṅkhāra).
Đây là nói đến ảnh hưởng di truyền của tâm sở Tư trong tâm bất thiện hay trong tâm thiện hiệp thế sau khi đã diệt, ảnh hưởng này sẽ tạo ra sắc nghiệp và tâm quả trong tương lai (xem kinh Tiểu Nghiệp phân biệt, Trung bộ III), ví như vị trưởng giả có di chúc, sau khi mệnh chung người ta theo di chúc ấy mà phân chia tài sản.
4- Tối cần hành (payogābhisaṅkhāra).
Là nỗ lực cao tột để thành tựu mục đích, ví như người thợ săn rượt theo con mồi, con vật chạy đến đâu người thợ săn đuổi đến đó.
Sự tinh tấn của Bồtát dưới cội Bồđề trong đêm thành Chánh đẳng giác:
“Dù chỉ còn xương da, máu và thịt có khô cạn, chưa chứng đắc quả Vô thượng Chánh giác, ta không rời bảo tọa này”. Đó là tối cần hành của Bồtát.
Hay như Ngài Cakkhupāla, cố gắng giữ hạnh “ngăn oai nghi nằm”, cho dù bị bịnh đau mắt, với mục đích “chứng đạt đạo quả”, đó là tối cần hành của Ngài Cakkhupāla …
Chi pháp ở đây chính là tâm sở Cần (viriyacetasika), trợ giúp cho thân và ý không lui sụt trước khó khăn, chướng ngại.
B- Hành do vô minh làm duyên.
Hành do vô minh làm duyên, là loại hoạt động do vô minh trực tiếp tác động, ám chỉ cho hành uẩn.
Hành uẩn là nhóm có phận sự tạo tác, đứng đầu nhóm này là tâm sở Tư (cetanācetasika), nên chi pháp của Hành thường nêu ra là tâm sở Tư, ví như thường nói “công trình của kỷ sư A…”
Hành là quả của Vô minh, được các Ngài giài thích như sau:
“Saṅkhataṃ kāyavacīmanokammaṃ abhisaṅkharontī ti etehi’ti = saṅkhāro.
Ba nghiệp (thân, ngữ, ý) được hình thành bằng cái gì, cái đó được gọi là hành”[84].
Như vậy, chi pháp của Hành ở đây là tâm sở Tư trong những tâm thiện hay bất thiện, chính trong những tâm này, tâm sở Tư mới có tác năng tạo nghiệp.
Trong những tâm quả hay tâm duy tác, tuy có tâm sở Tư nhưng đó không phải là quả của vô minh, tâm quả là kết quả của Hành, như kinh văn:
“Saṅkhāra paccayā viññānaṃ: Hành duyên cho thức”.
Còn tâm Duy tác là kết quả của sự vận hành của pháp hữu vi (ám chỉ ba tâm duy tác vô nhân), hay do dứt tuyệt vô minh của vị Thánh Alahán (tâm duy tác đổng lực – kiriyājavanacitta), tuy có tâm sở Tư nhưng không tạo tâm quả.
Nói cách khác, hành do duyên vô minh là loại hành tạo ra tâm quả dị thục, chủ yếu là tâm quả làm việc tục sinh.
Tâm sở Tư tự mình tạo tác, lại còn đôn đốc các pháp đồng sinh cùng tạo tác, theo chức năng có được của các pháp ấy.
D0 đó, bốn ý nghĩa thực tính của hành là nêu lên “thực tính pháp” chung của hành uẩn, không chỉ riêng cho tâm sở Tư .
Bốn ý nghĩa thực tính của hành (uẩn) là:
– Trạng thái: Tạo tác (abhisaṅkharanalakkhaṇā).
– Phận sự: Tích trữ (āyūhanarasā).
–Thành tựu: Cố ý (cetanāpaccupaṭṭhānā)
– Nhân cần thiết: Có vô minh (avijjāpadaṭṭhānā).
Giải:
-“Tạo tác”.
Là tạo ra một pháp khác. Ở đây (trong phần vô minh duyên hành này) được hiểu là tạo ra pháp thiện hay pháp bất thiện mới. Hay tạo ra tâm quả dị thục (vipākacitta) và sắc nghiệp sau này.
-“Tích trữ”.
Là chất chứa những mầm giống (bīja) để tạo ra tâm quả và sắc nghiệp.
– “Cố ý”.
Là có sự quyết định thực hiện, tức là hành có sự thành tựu là nghiệp. Như Phật ngôn:
“Cetanāhaṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi: Này các Tỳkhưu, Ta tuyên thuyết “cố ý” là nghiệp”.
– “Có vô minh là nhân gần”.
Là không biết rằng “có danh sắc là có khổ”, cho dù danh sắc ấy hiện khởi ở trong cõi Phạm thiên cao cấp, danh sắc ấy vẫn bị hoại diệt.
Có Phật ngôn “sabbe saṅkhārā dukkhāti: Các pháp hành là khổ”.
Mà nghiệp thì tạo ra danh sắc.
Đức Sāriputta nêu rõ là:Thân hành (kāyasaṅkhāra), ngữ hành (vacīsaṅkhāra) và tâm hành (manosaṅkhāra), (chúng tôi trình bày ba loại hành theo thứ tự nêu trong kinh văn, còn trong sách Thanh tịnh đạo, Ngài Buddhaghosa trình bày 6 hành kể từ phúc hành, phi phúc hành, bất động hành, thân hành, ngữ hành và ý hành).
1- Thân hành (kāyasaṅkhāra).
Khác với hơi thở ra hơi thở vào (cũng là thân hành), hơi thở ra hơi thở vào không tạo nghiệp, trái lại thân hành này tạo ra nghiệp, gọi là thân nghiệp (kāyakammaṃ)[85], nên thân nghiệp do vô minh làm duyên.
Pāli có giải thích: “Kāyaṃ saṅkharotī’ti = kāyasaṅkhāro:
Điều khiển thân(tạo nghiệp), là thân hành”.
Thân nghiệp (hay thân hành) có hai loại: Thân ác nghiệp và thân thiện nghiệp.
– Thân ác nghiệp là thân thực hành ba ác pháp: sát sanh, trộm cắp và tà hạnh trong dục lạc, ngoài ra còn dùng gậy gộc, đao trượng … để hành hạ chúng sinh khác.
Đây là tâm sở Tư trong 12 tâm bất thiện, điều khiển thân hành động.
– Thân thiện nghiệp.
*- Về mặt tiêu cực, thân thiện nghiệp là lánh xa ba ác pháp: Sát sinh, trộm cắp, tà hạnh trong dục lạc cùng với các cách thức dùng thân làm khổ chúng sinh khác.
*- Về mặt tích cực, dùng thân này tạo những lợi ích đến cho người hay cho mình theo đúng pháp như “phục vụ”, “cung kỉnh bậc đáng cung kỉnh”, “nghe pháp”, “ngồi kiết già, lưng thẳng đặt niệm trước mặt”…
Nếu chỉ thực hiện mặt tiêu cực, Đức Phật gọi là “thân có chỗ cong (kāyavaṅkāna), thân có chỗ hỏng (kāyadosana), thân có chỗ khuyết (kāyakasāvāna)”.[86]
Hành giả cần phải đoạn tận chỗ cong của thân, chỗ hỏng của thân, chỗ khuyết điểm của thân qua phương thức tích cực.
Chi pháp ở đây là tâm sở Tư có trong 8 tâm đại thiện, điều sử thân hành động.
Chi tiết hơn thi chi pháp của thân hành là sắc “thân biểu tri (kāyaviññāti rūpa)”.
2- Ngữ hành (vacīsaṅkhāra).
Có hai loại ngữ hành: Loại không tạo nghiệp như “tiếng nói trong mơ”, tiếng hú, tiếng cười … và loại tạo nghiệp.
Chính loại ngữ hành tạo nghiệp được nói đến ở đây, đó là loại ngữ hành do vô minh làm duyên, gọi là ngữ nghiệp (vacīkammaṃ).
Pāli có giải thích: “Vacaṃ saṅkhārotīti = vacīsaṅkhāro:
Điều khiển ngữ (tạo nghiệp), là ngữ hành.
Ngữ nghiệp có hai loại:
– Ngữ ác nghiệp, là thực hành bốn loại lời nói: Nói dối, nói đâm thọc, nói thô ác và nói phù phiếm.
Chi pháp ở đây là tânm sở Tư trong 12 tâm bất thiện, điều khiển ngữ hoạt động.
– Ngữ thiện nghiệp.
*- Về mặt tiêu cực thì lánh xa bốn ác ngữ nghiệp ở trên.
*- Về mặt tích cực là: Nói những lời có lợi ích, như thuyết giảng chánh pháp…
Lời lợi ích có 10 là:
“Nói về thiểu dục, nói về tri túc, nói về độc cư, nói về không ô nhiễm, nói về tinh tấn, nói về giới hạnh, nói về thiền định, nói về trí tuệ, nói về giải thoát, nói về giải thoát tri kiến.”[87]
Trong Kinh Vô úy vương tử (Abhayarājakumārasuttaṃ)[88], có ghi:
“Yam-pi Tathāgato vācaṃ jānāti bhūtaṃ taccaṃ anatthasaṃhitaṃ, sā ca paresaṃ appiyā amanāpā, yam – pi, Tathāgato vācaṃ na bhāsati.
“Lời nói nào Như Lai biết như thật như chân, không tương ứng với mục đích, lời nói ấy người khác không ưa, không thích, Như Lai không nói.
“Yam-pi kho Tathāgato vācaṃ jānāti bhūtaṃ taccaṃ atthasaṃhitaṃ, sā ca paresaṃ appiyā amanāpā , tatrā kālaññū, Tathāgato hoti tassā vācāya veyyākaraṇāya.
“Lời nào Như Lai biết như thật như chân, tương ứng với mục đích, lời nói ấy khiến những người khác không ưa, không thich, ở đây, Như Lai biết thời giải thích lời nói ấy.
““Yam- pi Tathāgato vācaṃ jānāti bhūtaṃ taccaṃ anatthasaṃhitaṃ, sā ca paresaṃ piyā manāpā, yam – pi Tathāgato vācaṃ na bhāsati
“Lời nào như thật như chân, không tương ứng với mục đích, lời nói ấy khiến những người khác ưa và thích, Như Lai không nói lời ấy.
“Yam-pi kho Tathāgato vācaṃ jānāti bhūtaṃ taccaṃ atthasaṃhitaṃ, sā ca paresaṃ piyā manāpā , tatrā kālaññū Tathāgato hoti tassā vācāya veyyākaraṇāya.
“Lời nào như thật như chân, tương ứng với mục đích, lời ấy khiến những người khác ưa và thích. Như Lai biết thời giảỉ thích lời nói ấy.”
Xét ra, im lặng suông tuy không vi phạm vào bốn ác ngữ nghiệp, nhưng không phải là phương thức hoàn hảo cho ngữ nghiệp thiện.
“Na monena munī hoti. Mūḷharūpo avidasu
Yo ca tulaṃ’ va paggayha.Varaṃ ādāya paṇḍito.
Im lặng nhưng ngu si. Đâu được gọi ẩn sĩ
Như người cầm cán cân. Bậc trí chọn điều lành.”[89]
Trong ý nghĩa nào đó, sự im lặng đồng nghĩa với chấp nhận, như:
“Ekamantaṃ nisinno kho Citto gahapati there bhikkhū etadavoca:
“Adhivāsentu me, bhante, therā svātanāya bhattan’ti.
“Ngồi xuống một bên, gia chủ Citta thưa với các Tỳkhưu trưởng lão:
– Bạch các Ngài, mong rằng các Trưởng lão ngày mai nhận lời mời dùng bữa ăn của con.”
Adhivāsesuṃ kho therā bhikkhū tuṇhibhāvena.
Các Tỳkhưu trưởng lão im lặng nhận lời.”[90]
Im lặng trước chánh pháp là điều tốt, trái lại thì tai hại vô cùng.
Mặt khác, qua đoạn kinh văn trong bài kinh Vô úyVương tử ở trên, “sự thật mà không mang lại lợi ích, không tương ứng với lợi ích”, cũng không nên nói.
Như vậy, thiện ngữ hành là: “Nói chân thật có tương ứng với lợi ích”.
Nếu ngữ thiện hạnh không thực hiện được điều này, gọi là “ngữ có chỗ cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm” [91].
Chi pháp ngữ thiện nghiệp là tâm sở Tư trong tâm đại thiện, điều khiển sự nói, chi tiết hơn thì chi pháp của ngữ hành là sắc “ngữ biểu tri (vacīviññatti)”.
3-Ý hành (manosasaṅkhāra).
Theo nghĩa đen, ý hành là sự tạo tác của tâm. Pāli có giải thích như sau:
“Cittaṃ saṅkharotī’ti = cittasaṅkharo.
Điều khiển tâm (tạo nghiệp), là tâm hành.”
Ý hành trong phần này bao gồm hai loại:
– Trong tương lai, cho quả dị thục làm phận sự tái sinh.
– Trong tương lai, cho quả dị thục nhưng không làm phận sự tái sinh.
Ý hành cho quả làm phận sự tái tục là quan trọng nhất
Chính tâm bất thiện hay tâm thiện hiệp thế liên đới với tâm sở Tư tạo ra ý nghiệp (manokammaṃ), chức năng của tâm sở Tư là tự mình tạo tác, đồng thời khích động các pháp đồng sinh cùng tạo tác.
Ý là một pháp đồng sinh với tâm sở Tư, dù rằng “ý dẫn đầu các pháp”, nhưng ý vẫn bị tâm sở Tư kích động tham gia vào việc tạo tác của chúng, ví như vị Đại thần trình tấu lên vua một sở cầu và Đức vua chấp nhận sở cầu đó.
Trong ba loại nghiệp: Thân nghiệp, ngữ nghiệp và ý nghiệp thì ý nghiệp là quan trọng nhất.
“Ime saṃ kho ahaṃ Tapassi tiṇṇaṃ kammāna evaṃ paṭivibhattānaṃ evaṃ paṭivisiṭṭhānaṃ manokammaṃ mahāsāvajjataraṃ.
“Này Tapassi, trong ba loại nghiệp này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Ta chủ trương ý nghiệp là tối trọng.[92]
Chi pháp chủ yếu trong ý hành này là tâm sở Tư tạo thành ý nghiệp, để rồi trong tương lai tạo ra tâm quả hiệp thế và sắc nghiệp.
Tâm sở Tư tạo ra 3 loại ý nghiệp:
a- Ý nghiệp thiện, gọi là phúc hành (apuññābhisaṅkhāra).
Tức là tâm sở Tư trong 8 tâm đại thiện và thiện (thiền) Sắc giới. Vì đi chung với vô tham, vô sân và vô si [93] nên tâm sở Tư tạo thành ý nghiệp thiện. Tâm sở Tư tạo tác kết quả tốt trong tương lai, gọi là phúc hành.
Pāli có giải thích về phúc (puñña):
“Attano santānaṃ punāti sodhetī’ti = puññaṃ:
Rữa sạch bợn nhơ trong ta, gọi là phúc”.
“Puññañca taṃ abhisaṅkhāro cāti = puññābhisaṅkhāro:
Vừa là phước vừa là động cơ tạo nghiệp, gọi là phúc hành.”
Tâm sở Tư hiệp trong 8 tâm đại thiện, khiến “lánh ra 10 ác hạnh”, đồng thời thực hiện 10 hạnh phúc: Bố thí, trì giới, tu thiền, cung kỉnh, phục vụ, hoan hỷ phước, hồi hường phước, nghe pháp, thuyết pháp và củng cố tri kiến chân chính thuộc về ý.
Nên hiểu rằng “cả 2o điều trên là do có ý muốn thực hiện” mới thành tựu, nếu “không có ý bố thí” thì bố thí sự không thành, không có ý cung kỉnh thì sự vái chào, đảnh lễ bằng thân không có, không có ý muốn nghe pháp thì sự nghe pháp không sinh lên ….
Tâm sở Tư trong năm tâm thiền Sắc giới, tạo ra quả tái sinh về cảnh giới thiền tương ứng cùng với sắc nghiệp nơi cảnh giới ấy.
Tuy tâm Thông thiện (kusalābhiññāṇacittaṃ) không cho tâm quả dị thục thức, các pháp thần thông là chỉ cho những thành quả cụ thể ngay trong hiện tại của tâm thông, nhưng vẫn được kể vào phúc hành, vì đó là tâm thiện ngũ thiền và cũng do vô minh trợ giúp.
b- Ý nghiệp bất thiện, gọi là phi phúc hành (apuññābhisaṅkhāra).
Trái ngược với phúc là phi phúc. Như Pāli gỉải thích:
“Na puññaṃ = apuññaṃ: Không phúc là vô phúc (hay phi phúc)”.
“Apuññañca taṃ abhisaṅkhāro cāti = apuññābhisaṅkhāro:
Vừa vô phúc vừa là động cơ tạo nghiệp, gọi là phi phúc hành.”.
Chi pháp phi phúc hành là tâm sở Tư hiệp trong 12 tâm bất thiện, tạo ra 1o ác hạnh: Sát sanh, trộm cắp, tà hạnh trong dục lạc … tà kiến ác.
Thế là tâm quả bất thiện cùng sắc nghiệp bất thiện xuất hiện trong tương lai.
“Na hi pāpaṃ kataṃ kammaṃ; sajju khīraṃ’va muccati.
Dahantaṃ bālaṃ anveti; bhasmacchanno’va pāvako.
“Nghiệp ác đã được làm, như sữa không đông ngay,
Cháy ngầm theo kẻ ngu, như tro che đậy lửa.”[94]
c- Bất động hành (aneñjhābhisaṅkhāra).
Bất động hành cũng là phúc hành, nhưng phúc hành còn rung động bởi các tưởng sai biệt hay các tưởng đối lập, tạo ra chướng ngại cho tâm, như Bàlamôn Cūḷekasātaka đầu hôm tâm hoan hỷ muốn cúng dường đến Đức Phật tấm áo choàng, nhưng một tư tưởng bỏn xẻn nổi lên chặn đứng tâm thiện ấy.
Bất động hành chỉ cho sự chứng đắc các tầng thiền Vô sắc, như kinh văn ghi:
“Vị tỷ khưu vượt qua sắc tưởng, diệt đối ngại tưởng do không tác ý đến dị biệt tưởng, chứng và trú thiền Không vô biên xứ với tác ý “cái không vô cùng tận”.
Pāli có giải thích như sau:
“Aneñjanañca taṃ abhisaṅkhāro cāti = aneñjābhisaṅkhāro.
Vừa không rung động, vừa tạo nghiệp, gọi là bất động hành.”
Chi pháp là tâm sở Tư hiệp trong những tâm thiện Vô sắc giới.
Tâsm thiền Vô sắc không hề rung động do sắc tưởng, các tưởng sai khác, các tưởng đối lập với tưởng vô sắc, do đó gọi là “bất động”.
Ba hành đối với ba nghiệp.
–Phúc hành là 8 tâm đại thiện thì tạo được ba loại nghiệp: Thân nghiệp thiện, ngữ nghiệp thiện và ý nghiệp thiện.
– Phúc hành là 5 tâm thiện Sắc giới và bất động hành, tạo được ý nghiệp thiện.
– Phi phúc hành tạo được: Thân nghiệp bất thiện, ngữ nghiệp bất thiện và ý nghiệp bất thiện.
Hành làm duyên cho thức ra sao?.
Như đã giải, tâm sở Tư có hai khía cạnh: Là quả của vô minh (Vô minh duyên hành), là nhân của thức (hành duyên thức).
Hành làm duyên cho thức sinh khởi qua hai thời điểm:
– Thời tục sinh.
Phi phúc hành tạo tâm Quan sát thọ xả quả bất thiện trong thời tục sinh, như vậy chi pháp ở đây chỉ là tâm sở Tư hiệp trong 11 tâm bất thiện (trừ tâm si hợp phóng dật), vì Tư hợp với phóng dật rất yếu, chỉ có khả năng tạo quả bất thiện trong thời bình nhật.
Phúc hành tạo được 13 tâm quả làm việc tục sinh, là: 8 tâm đại quả và 5 tâm quả Thiền Sắc giới (tương ứng với tầng thiền đắc chứng).
Bất động hành tạo được 4 tâm quả thiền Vô sắc giới (tương ứng với tầng thiền đắc chứng).
– Thời bình nhựt.
Phi phúc hành là 12 tâm sở Tư trong 12 tâm bất thiện, mỗi tâm sở Tư tạo ra 7 tâm quả bất thiện.
Phúc hành là 8 tâm sở Tư trong tám tâm đại thiện, thì:
– Tâm sở Tư trong tâm thiện ly trí thiếu một trong ba Tư (cố ý trước khi làm, cố ý trong khi làm và cố ý sau khi làm) cho 8 tâm quả thiện vô nhân.
– Tâm sở Tư trong tâm thiện ly trí thọ hỷ đủ tam tư, cho 12 tâm quả: 8 tâm quả thiện vô nhân + 4 tâm đại quả ly trí.
– Tâm sở Tư trong tâm thiện ly trí thọ xả đủ tam tư, cho 10 tâm quả: 8 tâm quả thiện vô nhân + 2 tâm đại quả ly trí thọ xả (vì tâm thiện thọ xả không thể cho tâm quả thọ hỷ).
– Tâm sở Tư trong tâm đại thiện có trí thiếu tam tư, cho 12 tâm quả: 8 tâm quả thiện vô nhân + 4 đại quả ly trí (vì thiếu một trong tam tư, nên mãnh lực yếu không thể duy trì nhân trí).
– Tâm sở Tư trong tâm đại thiện có trí thọ hỷ, đủ tam tư tạo 16 quả: 8 tâm quả thiện vô nhân + 8 đại quả.
– Tâm sở Tư trong tâm đại thiện có trí thọ xả, đủ tam tư tạo 12 quả: 8 quả thiện vô nhân + 4 đại quả thọ xả có trí,
Phúc hành là 5 tâm sở Tư trong 5 tâm thiện thiền Sắc giới cùng 4 tâm sở Tư trong 4 tâm thiện thiền Vô sắc, trong thời bình nhật cho tâm quả thiền tương ứng làm việc hữu phần (bhavaṅga kiccaṃ).
Dứt phần giải về Hành.
-ooOoo-
[1]_ Phạm Kim Khánh (d), Vi Diệu Pháp toát yếu.
[2]- Đại trưởng lão Tịnh Sự (sd)- Siêu lý cao học.
[3]- Vsm, chương XVII. Xiển minh nền tảng của Tuệ (paññābhūminiddesa), số 642.
[4]- Tức là:
– Nhĩ xứ + thinh xứ + pháp xứ +ý xứ à nhĩ xúc.
– Tỷ xứ + khí xứ + pháp xứ + ý xứ–> tỷ xúc.
– Thiệt xứ + vị xứ + pháp xứ + ý xứ à thiệt xúc.
-Thân xứ + xúc xứ + pháp xứ + ý xứ à thân xúc; pháp xứ + ý xứ à ý xúc. (Ns).
[5]- HT. THC (d), S.ii, 140.Tương ưng Giới(dhātusaṃyuttaṃ)
[6]- HT. TMC (d), S.ii, 142.
[7]- HT. TMC (d), A.iii, 410.
[8]- M.iii, kinh Sáu sáu (Chacakka suttaṃ).
[9]- Ý ở đây chỉ cho tâm hữu phần- Ns.
[10]- A.iv, 338. Kinh Cội rễ của sự vật (Mūlakasuttaṃ). HT. TMC dịch.
[11]- M.iii, kinh Nhất dạ hiền giả (Bhaddekarattasuttaṃ).
[12]- A.iii,89.
[13]- Trần Phương Lan (d), JA, truyện số 527, tiền thân nàng Ummadantī.
[14]- DhpA, kệ ngôn số 215.
[15]- JA, câu truyện số 34 (Maccajātaka).
[16]- HT. TMC (d), S.ii, 147. (Bāhiraphassanaanattaṃ)
[17]- HT. TMC (d), A.i, 279.
[18]- DhpA, câu số 170.
[19]- Đại Đức Giác Giới (s), Tầm nguyên ngữ căn Pāli.
[20] – Vsm, 511- 512.
[21]- HT. TMC (d), A.i, 173 ; S.ii, 3. Kinh Phân biệt (vibhaṅgasuttaṃ).
[22]- HT. TMC (d), S.iv, 93 .Tương ưng xứ (saḷāyatanasaṃyuttaṃ), kinh thế giới công đức (Lokantagamanasuttaṃ).
[23]- HT. TMC (d), A.v, 49.
[24]- Ý xứ , chi pháp là “tất cả tâm” (Ns).
[25]- Đại Đức Giác Nguyên (d), Giáo lý duyên khởi.
[26]- Dhs. mẫu đề tam (tikamātikā).
[27]- S.iii, 232.
[28]- Vsm, chương XV- Xiển minh về Xứ- Giới (āyatanadhātu niddesa).
[29]- Đại trưởng lão Tịnh Sự (sd), Siêu lý Sơ học.
[30]- TK Chánh Minh (soạn),Tâm vấn đáp (2003), Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Tôn Giáo.
[31]- Phạm Kim Khánh (d), Dhp, câu 150.
[32]- Dhp, câu 1- 2.
[33]- Luận tạng, bộ Mahā Patthāna (Đại xứ).
[34]- M.i, Rừng Sừng bò đại kinh (Mahāgosiṅga suttaṃ)
[35]- M.i, kinh Thánh cầu (ariyapariyesanasuttaṃ) có ghi nhận: Alāra kālāma chứng đạt Vô sở hữu xứ thiền, còn Uddaka Rāmaputta chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng thiền.
[36]- Phạm Kim Khánh (d), Vi diệu pháp toát yếu.
[37]- Dhs, Mẫu đề Tam ( Tikamātikā).
[38]- HT. TMC (d), A.iii, 284.
[39]- Vsm, chương XVII, Hiện hữu duyên (atthi paccaya).
[40]- S.iii, 204.
[41]- HT. TMC (d), S.iv. 81.
[42]- HT. TMC (d), S.iii, 228. Tương ưng Sanh (Uppādasaṃyuttaṃ)
[43]- S.iv. 172.
[44]- HT. TMC (d), A.iii, 399. Pháp sáu chi, kinh Con đường giữa (Majjhesuttaṃ)
[45]- HT. TMC (d), S.iv, 6 và S.iv, 8. Tương ưng sáu xứ ( Saḷāyatanasaṃyuttaṃ) Kinh Chánh giác (Sambodhasuttaṃ)
[46]- HT. TMC (d), A.i, 113. Pháp ba chi, kinh Con đường không lỗi lầm (Apaṇṇakasuttaṃ).
[47]- HT. TMC (d), A.v, 30. Pháp 10 chi, kinh Thánh cư (Ariyāvāsasuttaṃ).
[48]- HT. TMC (d), Sn. 63, số 375 .
[49]- Đại trưởng lão Tịnh Sự (sd), Siêu lý cao học.
[50]- Miln, 49.
[51]- HT. TMC (d), Sn, 205. 1074.
[52]- Đại trưởng lão Giới Nghiêm (d), Miln q.1- Câu hỏi thứ nhất (nāma).
[53]- M.i, kinh Trạm xe (rathavivuutasutta)
[54]- A.i, 205.
[55]- Dhs, 1306.
[56]- J.I, 262.
[57]- S.i, 43. Sn.648.
[58]- Vsm. Chương XVII, 587.
[59]- HT. TMC (d), A.iv, 337, Pháp 8 chi, chương Niệm, kinh cội rễ (mūlakasuttaṃ).
[60]- A.iii, 446.
[61]- M.i, kinh Song tưởng (dvedhāvitakkasutta).
[62]- HT. TMC (d), A,iii. 452. Pháp 6 chi, kinh Tham (Rāgapeyyālaṃsuttaṃ)
[63]- Một trong bốn nhân sinh tâm trong cõi ngũ uẫn là “có sắc vật nương”
[64]- S.iii, 86.
[65]- Vsm. Chương XVII, 587.
[66]- Vism, chương XIV, 432.
[67]- Có nơi còn dịch là “sắc chuyển hóa”, như trong Vi Diệu Pháp toát yếu (Ông Phạm Kim Khách dịch).
[68]- Sư cô Trí Hải (d), Thanh tịnh đạo, q.2 (2001), chương XI. 96
[69]- HT. TMC (d), A.iii, 35. Pháp 5 chi, kinh Cundī (Cundīsuttaṃ).
[70]- HT. TMC (d), A.iv, 197
[71]- S.ii, 190.
[72]- HT. TMC (d), S.iii, 149. Tương ưng Uẩn, kinh Giây thằng số 1 (Gadduladaddhasuttaṃ).
[73]- Đại Đức Giác Giới (s), Tầm nguyên ngữ căn.
[74]- Vsm. Chương XI.
[75]- Đại trưởng lão Tịnh Sự (sd), Siêu lý Sơ học.
[76]- Đại Đức Giác Nguyên (d), Abhidhammatthasaṅgaha thích giải.
[77]- Đại trưởng lão (sd), Siêu lý Sơ học.
[78]- Vsm. Chương XVII. 587.
[79]- HT. TMC (d), S.v, 217. Tương ưng căn (Indriyasam.yuttaṃ), kinh BàlamônUnnābha.
[80]- HT. TMC (d), A.i, 8- Paṇhita- acchavaggo (phẫm đặt hướng và trong sáng).
[81]- Vsm. Chương XVII. 587.
[82]- HT. TMC (d), A.i, 110. Pháp ba chi, (Người đóng xe Pacetana).
[83]- HT. TMC (d), M.i, kinh Tiểu Phương quảng (cūḷavedallasuttaṃ).
[84]- Đại 9ức Giác Nguyên (d), Giáo lý duyên khởi.
[85]- M.ii, kinh Ưubaly ( Upālisuttaṃ).
[86]- A.i, 110 . Người đóng xe hay Pacetana.
[87]- M.i, kinh Trạm xe (Rathavivūtasuttaṃ).
[88]- M.ii, kinh số 58.
[89]- HT. TMC (d), Dhp. Câu 267.
[90]- HT. TMC (d), S.v, 285. Tương ưng Citta (Cittasaṃyuttaṃ), kinh Isidatta số 1 (Pathama- Isidattasuttaṃ).
[91]- A,i, 110.
[92]-HT. TMC (d), M.ii, kinh Ưubaly.
[93]- A.i, 201.
[94]- HT. TMC (d), Dhp. Câu 71.
-ooOoo-