Đức Thế Tôn dạy, đại ý như sau:

– Nghe ít, không biết nghĩa (na atthamaññāya), không biết pháp (na dhammamaññāya), không thực hành pháp, tùy pháp. Điều đã được nghe không khởi lên.

– Tuy nghe ít, nhưng biết nghĩa (atthamaññāya), biết pháp (dhammamaññāya), thực hành pháp, tùy pháp. Điều được nghe khởi lên.

– Nghe nhiều, không biết nghĩa, không biết pháp, không thực hành pháp, tùy pháp. Điều đã được nghe không khởi lên.

– Nghe nhiều, biết nghĩa, biết pháp, thực hành pháp tùy pháp. Điều được nghe khởi lên.

Chánh kiến của phàm phu trong phật giáo cao nhất là đạt đến trí Thuận thứ (anulomañāṇa) (đây là nói theo thời sátna, chứ thực ra, khi trí Thuận thứ sinh lên, tiếp theo vài sát na tâm thì vị ấy trở thành bậc Thánh nhân).

b- Chánh kiến của bậc Thánh Hữu học (sekkhā).

Bậc này được gọi là thành tựu chánh kiến vì đã tỏ ngộ được tam tướng, đồng thời vượt ra khỏi tam tướng khi chứng đắc Nípbàn.

c- Chánh kiến của bậc Thánh Vô học (asekkhā).

Là bậc đã thành tựu trọn vẹn chánh kiến, vì đã làm xong việc cần làm, đã “diệt trừ trọn vẹn vô minh”.

Chánh kiến của bậc Thánh Hữu học ví như người thấy rõ đường đi trong đêm tối nhờ có ánh đèn (còn nương tựa vào pháp học lẫn Pháp hành).

Chánh kiến của bậc Vô học ví như người thấy rõ ràng mọi vật vào lúc ban ngày (không còn phải học pháp hay hành pháp nữa. Tuy vậy, các Ngài vẫn học pháp, hành pháp để làm gương cho hậu thế).

Chánh tri kiến được đề cập trong kinh này là: Chánh tri kiến của phàm phu trong Phật giáo lẫn Thánh Hữu học.

Do vậy, Đức Xá Lợi Phất dạy tiếp rằng: “Có tri kiến chánh trực, có lòng tin pháp tuyệt đối và thành tựu Diệu pháp này”.

B- Có tri kiến chánh trực.

Tri kiến chánh trực là một trong 10 ân đức của chư Thinh văn đệ tử Phật (ujupatipanno). Đó là sự hiễu rõ thấy rõ:

– Thân hành nầy là thiện, thân hành này là bất thiện, thân hành này là phạm tội, thân hành này không phạm tội.

– Ngữ hành này là thiện, ngữ hành này là bất thiện, ngữ hành này là phạm tội, ngữ hành này không phạm tội.

– Ý hành này là thiện, ý hành này là bất thiện, ý hành này phạm tội, ý hành này không phạm tội.

Với người không có tri kiến chánh trực, thân – ngữ – ý rơi vào bất thiện, y tìm cách biện hộ cho hành động tội lỗi, như: Giết một người cứu nhiều người là tốt, trộm của người giàu san sẽ cho người nghèo là tốt, nói dối làm lợi cho người là tốt (như vị lương y nói dối làm an tâm bịnh nhân) …

Nhưng nếu đặt y vào địa vị của nạn nhân, y sẽ nghĩ như thế nào? Y có từ chối “sự tốt” ấy không, có người giàu nào muốn mình bị cướp tài sản để san sẽ cho người nghèo không? Có bịnh nhân nào muốn vị lương y đánh lừa mình không?.

Với những cách luồn lách, biện minh như trên, Đức Phật gọi là “ý quanh co (samsappaniya – trườn bò mà đi, đi quanh co của loài bò sát)”.

Người có thân nghiệp quanh co, ngữ nghiệp quanh co, ý nghiệp quanh co, có một trong hai sinh thú sau đây:

“Ye vā ekantadukkhā nirayā yā vā saṃsappajātikā tiracchānayoni…

 “Các địa ngục nhất hướng đau khổ và các loài bàng sanh thuộc loại trườn bò: Loại rắn, bò cạp, rết…”[34].

Và Đức Phật có dạy:

“Yassa kassaci, bhikkhave, bhikhussa vā bhikkhuniyā vā kāyavaṅko pāhino kāyadoso kāyakasāvo.

Vacīvaṅko pāhino vacīdoso vacīkasāvo.

Manovaṅko pāhino manodoso manokasāvo.

Evaṃ patiṭṭhitā te, bhikkhave, imasmiṃ dhammavinaye….

“Đối với Tỳkhưu hay Tỳkhưu ni nào, thân cong được đoạn tận, thân hư hỏng, thân khuyết điểm (được đoạn tận).

Lời nói cong được đoạn tận, lời hư hỏng, lời khuyết điểm (được đoạn tận).

Ý cong được đoạn tận, ý hư hỏng, ý khuyết điểm (được đoạn tận).

Như vậy này các Tỳkhưu, vị ấy vững an trú trong Pháp Luật này …”. [35]

a- Thế nào là tri kiến chánh trực thuộc về thân?.

Vị có tri kiến chánh trực về thân sẽ hiểu rõ rằng: “Thân hành này tuy không rơi vào ba ác- bất thiện nghiệp: Sát sanh, lấy của không cho, làm sái quấy trong dục lạc.

Nhưng không dùng thân này tạo lợi ích cho mình lẫn người khác, như: Không đảnh lễ bậc đáng đảnh lễ, không cung kỉnh bậc đáng cung kỉnh, không giúp đở người đáng được giúp đở, không phục vụ người đáng phục vụ như cha mẹ … Đây là chỗ cong của thân.

Như người hủi Suppabuddha tuy chứng đạt quả vị Dự lưu sau khi nghe pháp của Đức Thế Tôn, nhưng Ngài là một người mang bịnh cùi, phải đi xin ăn.

Trong quá khứ Ngài là con một triệu phú, có lần gặp được Đức Phật Độc giác Tagarasikhi, vị triệu phú này nhổ nước bọt vào Đức Phật Độc giác rồi bỏ đi, do việc làm ấy nên bị cùi. [36] (dùng thân làm việc sái quấy, tuy không rơi vào 3 ác hạnh: Sát sinh, trộm cắp, tà hạnh trong dục, nhưng không cung kỉnh bậc đáng cung kỉnh).

Hoặc thân không rơi vào ba ác nghiệp, nhưng lại thực hành khổ hạnh, như hạnh con bò, hạnh con chó …[37]  là chỗ khuyết của thân.

Chúng ta nhận thấy rằng: Đức Thế Tôn tuy là bậc Đạo Sư chí thượng, nhưng Ngài cũng tự tay tắm rửa cho Trưởng lão Pūtigatta Tissa, sau đó thuyết lên câu kệ ngôn để tế độ Trưởng lão đắc quả Alahán:

“Aciraṃ vat’ayaṃ kāyo. Pathaviṃ adhisessati

Chuddho apetaviññāṇo. Niratthaṃ’va kaḷingaraṃ”.

“Không bao lâu thân này.  Sẽ nẳm dài mặt đất.

Bị vất bỏ vô thức. Như khúc cây vô dụng” [38].

Nghe xong kệ ngôn, Trưởng lão Pūtigatta Tissa phát triển tuệ quán, chứng quả Alahán rồi mệnh chung sau đó.

Trong Tương ưng kinh (Samyuttanikāya) có ghi nhận: Có nhiều vị Tỳkhưu bịnh nặng, Đức Thế Tôn đi đến ân cần thăm hỏi, sách tấn, khích lệ và giảng pháp đến vị Tỳkhưu bị bịnh.

Tiền thân Trưởng giả Ghosaka là một con chó, mỗi lần đến thỉnh Đức Độc Giác Phật thọ trai, con chó chạy phía trước sủa vào các bụi rậm để các độc vật bỏ chạy, giữ an toàn cho Đức Độc Giác, do quả lành này, khi mệnh chung con chó tái sinh về Thiên giới có tên là thiên tử Ghosaka (Lôi âm).

Đến thời Đức Phật hiện tại, thiên tử Ghosakatái sinh về nhân loại cũng có tên là Ghosaka.

Ghosaka thoát chết 7 lần, sau cùng trở thành vị đệ nhất trưởng giả trong thành Kosambi và chứng đạt quả Dự Lưu [39]. Đây là quả lành của phước báo “phục vụ bậc đáng phục vụ”.

b- Thế nào là tri kiến chánh trực về lời?.

Tuy lánh xa bốn ngữ ác hạnh: Không nói dối, không nói đâm thọc, không nói ác, không nói nhãm nhí.

Nhưng bấy nhiêu chưa đủ, mà còn phài trung thực, không quanh co trong lời nói:

“Diṭṭhe diṭṭhavādī hoti, sutte suttavādī hoti, mutte muttavādī hoti, viññāte viññātavādī hoti.

 Có thấy nói thấy, có nghe nói nghe, có cảm giác nói cảm giác, có thức tri nói thức tri.

“Adiṭṭhe adiṭṭhavādī hoti, asutte asutavādī hoti, amutte amutavādī hoti, aviññate aviññatavādī.

Không thấy nói không thấy, không nghe nói không nghe, không cảm giác nói không cảm giác, không thức tri nói không thức tri” [40].

Lại nữa, tuy không rơi vào bốn ngữ ác, nhưng đối với các vấn đề cần nói lên lại im lặng, đó là chỗ khuyết của lời nói, hoặc tránh né một vấn đề đúng pháp là chỗ cong của lời nói.

Tiền nghiệp của hai Dạ xoa.

Tương truyền rằng: Trong thời giáo pháp của Đức Phật Kassapa, có hai vị Trưởng lão tinh thông tam tạng.

Bấy giờ, trong tự viện có hai vị Tỳkhưu tranh luận nhau một vấn đề về Pháp luật, không ai chấp nhận ai.

Cả hai quyết định sẽ tìm đến hai vị Đại Trưởng lão để nhở hai Ngài phân xử, nếu ai nói sai pháp luật phải lìa bỏ tự viện.

Một vị Tỳkhưu nhận thức được “mình là người nói sai pháp luật”, nên tìm đến hai vị Trưởng lão trước, dâng lễ vật và thỉnh cầu hai Ngài là thầy nương nhờ (nissayācariya) của mình.

Sau đó, vị ấy trình bày lại cuộc tranh luận của mình cùng vị Tỳkhưu bạn, rồi bạch hỏi rằng:

– Bạch Ngài! Giữa con và vị Tỳkhưu ấy, ai là người nói đúng pháp luật trong Giáo pháp này?.

– Này Tỳkhưu! Ngươi là người nói sai pháp – luật, vị Tỳkhưu kia nói đúng pháp – luật.

– Bạch hai Ngài! Nay con đã biết mình là người nói sai pháp luật. Bạch hai Ngài, xin hai Ngài ban cho con đặc ân là: Khi vị Tỳkhưu bạn của con đến hỏi “ai là người nói sai pháp luật?”, xin hai Ngài hãy im lặng.

Hai vị Trưởng lão đã rơi vào pháp tư vị vì thương nên nhận lời. Khi vị Tỳkhưu bạn tìm đến yết kiến hai vị Trưởng lão, bạch hỏi:

– Bạch hai Ngài! Giữa con và vị Tỳkhưu này ai là người nói đúng pháp đúng luật?.

Cả ba lần, hai vị Trưởng lão đều im lặng. Và vị Tỳkhưu (nói sai Pháp – Luật) đã nói với vị Tỳkhưu bạn rằng:

 “Này Hiền giả! Hai Ngài đã im lặng, vậy hiền giả nên hiểu biết câu trả lời là như thế nào đi?”.

Vị Tỳkhưu (nói đúng Pháp – Luật) buồn tủi, bạch với hai vị Trưởng lão rằng:

– Bạch hai Ngài! Con ngỡ hai Ngài vì pháp quên người, không ngờ hai Ngài vì người quên pháp.

Rúng động trước câu nói của vị Tỳkhưu trẻ, hai vị Trưởng lão ray rứt vì sự im lặng của mình.

Tuy tu hành tốt đẹp cả 10 ngàn năm, khi mệnh chung hai vị tái sinh làm hai Dạ xoa đại thần lực là Sātāgiri và Hemavata [41].

Trong kinh Pháp cú, Đức Phật có dạy:

Na monena mayā hoti. Muḷharūpo aviddasu

Yo ca tulaṃ’va paggajha. Varaṃ ādāya paṇḍito

“Im lặng nhưng ngu si. Đâu được gọi ẩn sĩ

Như người cầm cán cân. Bậc trí chọn điều lành” [42].

Như vậy im lặng trước một vấn đề hợp pháp, không tỏ bày ý kiến do tư vị vì thương, tư vị vì ghét, tư vị vì sợ và tư vị vì si mê, là chỗ cong của lời nói.

Lại nữa, đối với một vấn đề đúng pháp lại tránh né, trả lời sang hướng khác cũng là chổ cong của lời nói.

Như Bàlamôn Saṅgārava đã tránh né câu hỏi đúng pháp của Trưởng lão Ānanda.

Bàlamôn Saṅgārava đi đến Đức Thế Tôn, sau khi đảnh lễ Đức Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên trình bày với đại ý:

Con đường làm lể tế đàn là con đường đưa đến lợi ích cho nhiều người. Con đường xuất gia chỉ nhiếp phục được tự ngã của mình, chỉ làm cho tự ngã chứng được Nípbàn, như vậy sự xuất gia chỉ đưa đến công đức có một mình”.

Đức Thế Tôn dạy, đại ý:

 “Đức Như Lai tuyên thuyết chánh đạo tám ngành, nhờ thực hành con đường này, hàng trăm, hàng ngàn, hàng trăm ngàn chúng sinh chứng đạt và thoát khỏi sinh tử luân hồi”.

Và Ngài hỏi Bàlamôn Saṅgārava rằng:

“Taṃ kiṃ maññasi, brahmaṇa, iccāyaṃ evaṃ sante ekasārīrikā vā puññappaṭipadā hoti anekasārīrikā vā, yadidaṃ pabbajjādhikaraṇan’ti?.

Này Bàlamôn, ngươi nghĩ thế nào, sự việc là như vậy, thời con đường đưa đến công đức này, ảnh hưởng chỉ một người hay ảnh hưởng đến nhiều người, tức là kết quả của sự xuất gia?

Bàlamôn Saṅgārava xác nhận:

“Iccāyampi, bho Gotama, evaṃ sante anekasārīrikā puññappaṭipadā hoti, yadidaṃ pabbajjādhikaraṇan’ti.

“-Thưa Tôn giả Gotama, sự việc là như vậy, con đường đưa đến công đức này là ảnh hưởng đến nhiều người, tức là kết quả của sự xuất gia.

Đức Ānanda được nghe Bàlamôn Saṅgārava xác nhận như vậy, Ngài hỏi:

“Imāsaṃ te, brahmaṇa, dvinnaṃ paṭipadānaṃ katamā paṭipadā khamati appatthatarā ca appasamārambhatarā ca mahapphalatarā ca mahānisaṃsatarā cā’ti?

“Này Bàlamôn, trong hai con đường này (làm lễ tế đàn và xuất gia), con đường nào, ngươi có thể kham nhẫn là giản dị hơn (appaṭṭhatarā), ít khó chịu hơn, kết quả lớn hơn và lợi ít hơn?”.

Cả ba lần Bàlamôn Saṅgārava đã tránh né câu hỏi đúng pháp của Đức Ānanda, đáp rằng:

“Seyyathāpi bhavaṃ Gotamo bhavaṃ c’Ānando. Ete me pujjā, ete me pasaṃsā’ti.

“Như Tôn giả Gotama, Tôn giả Ānanda, cả hai đối với tôi là đáng kính lễ và đáng tán thán” [43].

Câu truyện trên minh họa cho “chỗ cong của lời nói”.

Lại nữa, trong bài kinh “ngựa chưa điều phục” [44], có những đoạn kinh nói lên ý nghĩa “chỗ cong của lời nói”, như sau:

“Idha bhikkhave, bhikkūu bhikkhuṃ āpattiyā codenti. So bhikkhu bhikkhūhi āpattiyā codiyamāno’na saramī’ti asatiyā nibbeṭheti.

“Ở đây, này các Tỳkhưu, các Tỳkhưu buộc tội một Tỳkhưu phạm tội. Tỳkhưu ấy bị các Tỳkhưu buộc tội, tránh né (nibbeṭheti) (vấn đề) như là không nhớ, nói rằng: “Tôi không nhớ, tôi không nhớ”….

Lại nữa, tuy không nói dối trước những điều được thấy, được nghe, được nhận biết, vị có tri kiến chánh trực về lời sẽ không nói lên những điều ấy, nếu xét thấy “điều này làm cho bất thiện tăng trưởng, thiện pháp bị tổn giảm”. Nếu xét thấy “điều này làm cho bất thiện tổn giảm, thiện pháp tăng trưởng” vị ấy nói lên [45].

c-Thế nào là tri kiến chánh trực về ý?.

Là ý không rơi vào pháp điên đảo (vipallāsa dhammā), chính pháp điên đảo làm cho tâm nghiêng về một bên. Đó là: Pháp vô thường cho là thường, pháp khổ cho là lạc, pháp vô ngã cho là ngã, pháp không trong sạch cho là trong sạch.

“Anicce, bhikkhave, aniccanti saññāvipallāso cittavipallāso diṭṭhivipallāso.

Dukkhe, bhikkhave, sukhanti saññāvipallāso cittavipallāso diṭṭhivipallāso.

Anattani, bhikkhave, anattāti saññāvipallāso cittavipallāso diṭṭhivipallāso.

Asubhe, bhikkhave, subhanti  saññāvipallāso cittavipallāso diṭṭhivipallāso.

– “Này các Tỳkhưu, trong vô thường nghĩ là thường, đó là tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.

Này các Tỳkhưu, trong khổ nghĩ là lạc, đó là tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.

Này các Tỳkhưu, trong vô ngã nghĩ là ngã,  đó là tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo.

Này các Tỳkhưu, trong không trong sạch nghĩ là trong sạch, đó là tưởng điên đảo, tâm điên đảo, kiến điên đảo. [46].

Lại nữa, tri kiến chánh trực là xa lìa hai cực đoan lợi dưỡng và khổ hạnh.

Có hai loại lợi dưỡng: Lợi dưỡng thấp kém và lợi dưỡng thù thắng.

Có hai loại khổ hạnh: Khổ  hạnh dẫn xuống khổ cảnh và khổ hạnh dẫn tái sinh về thiên giới.

1’- Lợi dưỡng thấp kém là bốn pháp: Được lợi (yabhā), được danh (yasa), được khen ngợi (pasaṃsā) và an lạc (sukha).

“Lābho ca alābho ca yasāyaso ca.

Nindā pasaṃsā ca sukhaṃ dukkhañ ca.

Ete aniccā manujesu dhammā.

Asassatā vipariṇāmadhammā.

“Ete ca ñatvā satimā sumedho,

Avekkhati vipariṇāmadhamme,

Iṭṭhassa dhammā na mathenti cittaṃ

Aniṭṭhato no paṭighātameti.

“Tassānurodhā atha vā virodhā.

Vidhūpitā atthaṅgatā na santi.

Padañca ñatvā virajaṃ asokaṃ,

Sammappajānāti bhavassa pāragū’ti.

“Được lợi,  không được lợi. Danh vọng, không danh vọng

Chỉ trích và tán thán. An lạc và đau khổ.

Những pháp (manayesa) này vô thường.

Không thường hằng, biến diệt

Biết chúng, giữ chánh niệm.

Bậc trí quán biến diệt

Pháp khả ái, không động (na mattahenti).

Không khả ái, không sân

Các pháp thuận (anurodhavirodhā) hay nghịch.

 Được tiêu tan (vidhūpitā) không còn

Sau khi biết con đường, không trần cấu, không sầu

Chân chánh biết sanh hữu, đi đến bờ bên kia. [47]

Tám pháp này làm lay chuyển thế gian (anuparivattanti).

Với kẻ phàm phu không nghe pháp của bậc Thánh, của bậc Chân nhân, khi có lợi dưỡng, danh vọng, tán thán, an lạc khởi lên, kẻ ấy không suy nghĩ rằng: “Những pháp này là vô thường, khổ, biến hoại” nên tâm rơi vào đắm nhiễm, sanh khởi kiêu mạn.

Còn những pháp như: mất lợi, mất danh vọng, bị chỉ trích, đau khổ khởi lên, kẻ ấy rơi vào sầu khổ, tâm rơi vào phẩn uất.

Với vị Thánh đệ tử có nghe pháp của bậc Thánh, hiểu pháp bậc Thánh, khi một trong tám pháp ấy khởi lên, vị ấy suy nghĩ: “Các pháp này là vô thường, khổ, biến hoại”, do vậy tâm không bị ái hay sân chi phối như kẻ phàm phu thường tình.

Như vậy, cho dù là hạnh phúc hay đau khổ, bậc có ý chánh trực không rơi vào một trong hai cực đoan ấy, tâm hướng đến trung đạo [48].

Các vị Luận sư có giải thích:

Phẩn uất nương sinh từ sự mất lợi, mất danh tiếng, bị chỉ trích, đau khổ”, chúng được đoạn trừ bằng Thánh đạo Anahàm.

Tham ái nương sinh từ sự được lợi, được danh tiếng, được tán thán, được an lạc”, chúng được đoạn trừ bằng Thánh đạo Alahán.

Một số Giáo thọ sư cho rằng:

“Tham ái nương sinh từ được lợi, được an lạc”, chúng được đoạn trừ bằng Thánh đạo Anahàm.

“Tham ái nương sinh từ được danh tiếng, được tán thán”, chúng được đoạn trừ bằng Thánh đạo Alahán.[49]

2’- Lợi dưỡng thù thắng là: Thành tựu thiền Sắc giới hay thiền Vô sắc giới.

Cho dù có thành tựu được như thế, bậc có ý chánh trực cũng không thích thú ái luyến các tầng thiền này.

Về hai loại khổ hạnh.

Có loại khổ hạnh đưa xuống khổ cảnh, có loại khổ hạnh dẫn tái sinh lên nhàn cảnh, như Đức Thế Tôn có dạy cho lõa thể Kassapa:

“Idhāhaṃ, Kassapa ekacca tapassiṃ lūkhājīviṃ passāmi, dibbena cakkhunā visuddhena atikkanta mānusakena… kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ uppannaṃ.

“Này Kassapa, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, ta thấy một số người tu khổ hạnh, sống khắc khổ… Sau khi thân hoại mệnh chung, phải sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Idhā panāhaṃ, Kassapa ekacca tapassiṃ lūkhājīviṃ passāmi, dibbena cakkhunā visuddhena atikkanta mānusakena… kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ  saggaṃ lokaṃ uppannaṃ.

Này Kassapa, với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, ta thấy một số người tu khổ hạnh, sống khắc khổ… Sau khi thân hoại mệnh chung được sinh vào cõi lành, thế giới chư thiên[50].

Cho dù là “khổ hạnh dẫn đến thiên giới”, vị có tri kiến chánh trực cũng không dính mắc vào chúng.

 “Sace vo bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā evaṃ puccheyyuṃ – devalokūpapattiyā, āvuso, samaṇe Gotame brahmacariyaṃ vussathā’ti.

Nanu tumhe, bhikkhave, evaṃ puṭṭhā aṭṭiyeyyātha harāyeyyātha jigiccheyyāthā’ti.

Evaṃ, bhante.  

“Này các Tỳkhưu, nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi các ngươi như sau: “Chư hiền, có phải Samôn Gotama sống phạm hạnh để được sinh lên cõi trời?”

Này các Tỳkhưu, được hỏi như vậy, các ngươi có bực phiền (aṭṭiyeyyātha), tủi nhục (harāyeyyātha), chán ngấy (jiguccheyyātha) hay không?

– Thưa có, bạch Thế Tôn.[51]

 Ví như người phải băng qua sa mạc hoang vu để đến vùng đất an toàn, người ấy phải có hành trang, có lương thực, phải nương vào con đường, cho dù đi trên con đường bằng phẳng tốt đẹp, đầy kỳ hoa dị thảo, nhưng nếu dừng chân trên con đường, người này sẽ không thể đến nơi cần đến, cần phải đi mút con đường.

Cũng vậy, hành giả là người tầm cầu sự giải thoát khỏi sinh tử luân hồi, thiện nghiệp là việc cần phải làm (ví như hành trang, lương thực) nhưng không đắm nhiễm vào các quả an lạc hữu vi, cho dù những thiện nghiệp ấy cho tái sinh về Thiên giới, cho tái sinh về các tầng thiền Sắc hoặc Vô sắc.

Một khi đắm nhiễm, dính mắc vào những cảnh an lạc thù diệu này hành giả sẽ không thoát khỏi sinh tử luân hồi.

Và con đường cần phải đi đó là Bát chánh đạo, con đường không nghiêng về hưởng thụ cũng không rơi vào khổ hạnh.

Ví như người bắn cung thiện xảo, chỉ nhắm vào mục tiêu để bắn tên, không ngắm nhìn chung quanh. Cũng vậy, tri kiến chánh trực là hướng tâm đến mục tiêu thoát khổ (là chứng đắc Nípbàn), không nghĩ đến các cảnh giới tái sinh, cho dù đó là những cảnh giới an lạc trong thế gian.

“Seyyathāpi, bhikkhave, sālisūkaṃ vā yavasūkaṃ vā sammāpaṇihitaṃ hatthena vā pādena vā akkantaṃ hatthaṃ vā pādaṃ vā bhindissati, lohitaṃ vā uppādessatīti – ṭhānametaṃ vijjati. Taṃ kissa hetu?

Sammāpaṇihitattā, bhikkhave sūkassa.

“Này các Tỳkhưu, ví như sợi râu của lúa mì hay sợi râu của lúa mạch được đặt đúng hướng, khi bị tay hay chân đè vào, có thể đâm thủng tay hay chân, hay có thể làm cho đổ máu, sự tình này có thể xảy ra. Vì cớ sao?

Này các Tỳkhưu, vì sợi râu được đặt đúng hướng.

“Evameva kho, bhikkhave, so vata bhikkhu sammāpaṇihitāya diṭṭhiyā sammāpaṇihitāya maggabhāvanāya avijjā bhindissati, vijjaṃ uppādessati, nibbānaṃ sacchikarissatīti – ṭhānametaṃ vijjati. Taṃ kissa hetu?

Sammāpaṇihitattā, bhikkhave , diṭṭhiyā.

Cũng vậy này các Tỳkhưu, kiến được đặt đúng hướng, con đường tu tập được đặt đúng hướng có thể xuyên thủng vô minh, làm minh sanh khởi, có thể chứng đạt Nípbàn, sự tình này có xảy ra. Vì cớ sao?

Này các Tỳkhưu, vì kiến được đặt đúng hướng”  [52].

CCó lòng tin pháp tuyệt đối.

Là thấy rõ, biết rõ các pháp hữu vi là vô thường, khổ, vô ngã nên có lòng tin pháp tuyệt đối.

Có câu hỏi rằng: “Phàm nhân chưa chứng đạt Nípbàn, chưa thấy được tam tướng, phải đặt niềm tin vào những pháp nào để thực hành? Những pháp nào là của Đấng Đạo sư thuyết giảng?”.

Đáp rằng: Bà di mẫu Gotamī có bạch hỏi Đức Thế Tôn về vấn đề này, Đức Phật dạy:

Này Gotamī, những pháp nào người biết rằng:

1- “Những pháp này đưa đến ly tham, không đưa đến tham dục.

2- Đưa đến ly hệ phược, không đưa đến hệ phược.

3- Đưa đến không tích tập, không đưa đến tích tập.

4- Đưa đến ít dục, không đưa đến nhiều dục.

5- Đưa đến biết đủ, không đưa đến không biết đủ.

6- Đưa đến tịnh cư, không đưa đến tụ hội.

7- Đưa đến tinh tấn, không đưa đến biếng nhác.

8- Đưa đến dễ nuôi, không đưa đến khó nuôi”.

Này Gotamī, hãy thọ trì nhất hướng rằng: “Đó là pháp, đó là luật, đó là lời dạy của bậc Đạo sư”  [53].

Lại nữa, có lần Đức Anuruddha sống ở giữa dân chúng Ceti, tại Pācineramsadāya, trong khi độc cư thiền tịnh, khởi lên ý nghĩ như sau:

1Pháp này để cho người ít dục, không phải để cho người nhiều dục.

2Pháp này để cho người biết đủ, không phải để cho người không biết đủ.

3Pháp này để cho người sống thanh vắng, không phải để cho người ưa hội chúng.

4- Pháp này để cho người tinh cần, không phải để cho người biếng nhác.

5- Pháp này để cho người trú niệm, không phải để cho người thất niệm.

6- Pháp này để cho người thiền định, không phải để cho người không thiền định.

7- Pháp này để cho người trí tuệ, không phải để cho người ác tuệ.

Và Đức Thế Tôn với tâm mình hiểu được tâm tư của Đức Anuruddha, Ngài xuất hiện trước mặt Đức Anuruddha, ngồi vào chỗ đã được soạn sẵn.

Rồi Đức Thế Tôn dạy thêm điều thứ tám là:

8- Pháp này để cho người không ưa hý luận (nippapancārāma), không thích hý luận. Pháp này không phải để cho người ưa hý luận, thích hý luận [54].

Lời dạy của Đức Thế Tôn về điều thứ tám rất có ý nghĩa, đó là “pháp cần phải thấy hiểu qua thực chứng” chẳng phải hiểu do suy luận, sự suy luận có thể nảy sinh những vấn đề không có thực, chúng trở thành những vấn đề thuộc về ảo kiến (papañca)”, để rồi bàn cải, tranh luận về những vấn đề không có thực, chẳng khác nào người bàn luận về “lông rùa, sừng thỏ”.

Với vị Thánh Hữu học, khi đã chứng đạt Nípbàn, có lòng tin pháp tuyệt đối, đó là điều dễ hiểu.

Riêng về phàm phu có chánh kiến, những tiêu đề trên là mẫu mực để đặt lòng tin vào, để tin chắc rằng: “Đây là Pháp, là Luật của Đức Thế Tôn thuyết giảng”.

Đồng thời những pháp như: ít ham muốn, biết đủ, sống nơi thanh vắng, tinh tấn, trú niệm, thiền định, là những pháp cơ bản cho trí thấy được tam tướng, giúp cho “lòng tin pháp tuyệt đối sinh lên và tăng trưởng”.

DThành tựu diệu pháp này.

Chữ  saddhamma = saṃ (tốt đẹp)+ dhamma,  saddhamma được dịch là diệu pháp.

Diệu pháp chỉ cho:

–  37 pháp dẫn đến chứng đạt Nípbàn, đó là: Tứ niệm xứ, tứ chánh cần, tứ như ý, ngũ quyền, ngũ lực, thất giác chi và bát chánh đạo.

– Chỉ cho Tạng Thắng pháp (Abhidhammapiṭaka). Ngoài ra:

“Sattime bikkhabe, saddhammā. Katame satta?

Saddho hoti, hirimā hoti, ottappi hoti, bahussutto hoti, āraddhaviriyo hoti, satimā hoti, paññavā hoti. Ime ko bhikkhave, satta saddhammā’ti.

   “Có bảy diệu pháp, này các Tỳkhưu. Thế nào là bảy?

– Tín, xấu hổ, sợ hãi, nghe nhiều, tinh tấn, chánh niệm, có trí tuệ. Này các Tỳkhưu, có bảy diệu pháp này”  [55].

Lại nữa, diệu pháp còn nói đến bảy lực (bala) như kinh văn sau:

“Imāni kho, bhikkhave, sattabalānīti.

Saddhābalaṃ viriyañca, hiri ottappapiyaṃ balaṃ

Satibalaṃ samādhi ca, paññā ve sattamaṃ balaṃ

Etehi balavā bhikkhu, sukhaṃ jīvati paṇḍito.

“Yoniso vicine dhammaṃ, paññāyatthaṃ vipassati;

Pajjotasseva nibbānaṃ, vimokkho hoti cetaso’ti.

“Này các Tỳkhưu, có bảy sức mạnh này:

Tín lực và tấn lực, tàm lực và quý lực

Niệm lực và định lực, tuệ lực là thứ bảy

Tỳkhưu với lực này, sống hiền trí an lạc

“Như lý suy tư pháp, quán rõ đích trí tuệ

Như ngọn lửa tàn diệt, với tâm được giải thoát”. [56]

Thành tựu bảy sức mạnh này tâm được giải thoát, nên bảy sức mạnh này được xem là diệu pháp.

Lại nữa, thành tựu diệu pháp là thành tựu được 7 loại tài sản của bậc Thánh, là: “tín tài sản, giới tài sản, tàm (hổ thẹn tội lỗi) tài sản, quý (ghê sợ tội lỗi) tài sản, văn (nghe nhiều) tài sản, thí (dứt bỏ – cāga) tài sản và tuệ tài sản”.

Dứt phần duyên khởi.

Tiếp theo Đức Sāriputta thuyết giảng 16 pháp môn, nhờ đó vị Thánh hữu học thành tựu diệu pháp này.

 

[1]- HT. Thích Minh Châu (dịch) (1973), M.i, Kinh Chánh tri kiến (sammādiṭṭhisutta), Sàigòn, Viện Đại Học Vạn Hạnh, tr. 46.

[2]- Jetavanavihāra thường được dịch là KỳViên tịnh xá. Có sách dịch là Bố Kim Tự, do lấy sự kiện “trải vàng lấy đất lập chùa”.

[3] – Đại Trưởng lão Bửu Chơn (dịch), (1961), Kho tàng Pháp Bảo, Sài Gòn, Nhà in Nguyên Ba, tr. 63.

[4]- Đại Đức Thiện Phúc (dịch) (kn), Sớ giải kinh Chánh tri kiến.

[5]- HT. Thích Minh Châu (dịch) (1975),  M.iii- Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt , Sài Gòn, Viện Đại Học Vạn Hạnh. ( Ai- 173, A.ii- 147).

[6]- M.iii- Mahākammavibhaṅgasutta.

[7]- Là trí có tà kiến làm cảnh- Ns.

[8]- HT. Thích Minh Châu (dịch), (1982), (Dhp, câu 19), Tp Hồ Chí Minh, Viện Phật Học Vạn Hạnh, tr. 300 .  

[9]- D.i, kinh Phạm Võng (brammajālasutta).

[10]- “Đệ tử Như Lai”,  ám chỉ bậc Thánh Hữu học- Ns.

[11]- Tập sớ giải thích là jarā-già

[12]- HT. Thích Minh Châu (dịch), (1987), Kinh bộ Tăng chi tập I (A.i.152), Tp Hồ Chí Minh, Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam, tr.169.

[13]- HT. TMC (d), (1982), Tiểu bộ kinh (Dhp, câu 113), Tp Hồ Chí Minh, Viện Phật Học Vạn Hạnh.

[14]- Tức không phải do nhất nhân sinh, mỗi pháp sinh lên do nhiều nhân hội lại, trong đó có một nhân là chủ yếu, nhân chủ yếu này được gọi là nhân cần thiết hay nhân gần nhất– padaṭṭhāna- và mỗi pháp có một nhân chủ yếu riêng- Ns.

[15]- DhpA, câu 11-12 .

[16]- HT. TMC (d), (1982), Tương ưng Bộ kinh (S.v, 414), Tp Hồ Chí Minh, Tu Thư Phật Học Vạn Hạnh, tr. 417.

[17]- Gia chủ Citta là bậc Anahàm, có tuệ phân tích- Ns.

[18]- Đại trưởng lão Tịnh Sự (d), (1990), Bộ Pháp tụ, Tp Hồ Chí Minh, Thành Hội Phật Giáo Tp Hồ Chí Minh. tr.271.

[19]- Xem S.iv 295 (Godattasuttaṃ)

[20]- Chánh kiến được Đức Thế Tôn nêu lên trước tiên trong Thánh đạo tám chi, cũng là do ý nghĩa này.

[21]- HT. TMC (d), Dhp, kệ ngôn số 20.

[22]- HT, TMC (d), S.ii, 115.  

[23]-HT. TMC (d), S.ii, 16 (Kaccānagottasuttam.).

[24]- HT. TMC (d), Dhp , câu 319.

[25]- HT. TMC (d), Dhp, câu 318. 

[26]- Vsm. Chương XVI, xiển minh Quyền- Đế.

[27]- HT. TMC (d),  M.iii, kinh Đại thập tứ (mahācattārīsakasutta).

[28]- HT. TMC (d), M.iii. Kinh Tiểu nghiệp phân biệt.

[29]- Phạm Kim Khánh (d), (1971), Kinh Pháp Cú (Dhp, câu 69), tr. 83.

[30]- Vấn đề này rất rộng, ở đây chỉ trình bày vắn tắt. Xin xem thêm  sách Thanh tịnh đạo.

[31]- Những lộ đắc Đạo cao, xin xem Quy Trình Tâm Pháp (TK Chánh Minh biên soạn).

[32]- Chánh kiến Siêu thế là trí trong tâm Đạo hay tâm quả Siêu thế, hai loại tâm này không làm việc tục sinh, nên không tạo ra danh sắc mới trong kiếp sau- Ns.

[33]- HT. TMC (d), A.ii, 6. 

[34]- HT. TMC (d), A.v, 288.

[35]- HT. TMC (d), A. i,110.

[36]- Ud. 48.

[37]- M.ii,  Kinh Cẩu hành giả (kukkuravatikasuttaṃ).

[38]- DhpA- kệ ngôn 41.

[39]- DhpA, kệ ngôn số 21. 

[40]- HT. TMC (d), A.ii, 229 (vohārapathasuttam.).

[41]- Sớ giải kinh Hemavata (Sn- 27).

[42]- HT. TMC,  Dhp- câu 268.

[43]- HT. TMC (d), A.i, 168.

[44]- HT. TMC (d), A.iv, 190 (phần 13, phần 16). (assakhaḷuṇkasuttaṃ).

[45]- HT. TMC (d), A.ii, 172

[46]- A.ii, 52.(vipallāsasuttaṃ).

[47]- HT.TMC (d), A.iv, 156.

[48]- Xem A.i, 295. Pháp ba chi, chương XVI, Paṭipāda suttaṃ (Kinh Đạo lộ). 

[49]- Đại Đức Khải Minh (dịch), SaddhammaJotika- mẩu đề tam (Mahāṭīkā)- .

[50]- D.ii, Kinh Kassapa (Kassapasīhamādasutta).

[51]- HT. TMC (d), A.i, 115. (Devalokasuttaṃ- Kinh Thiên giới).

[52]- HT. TMC (d), S.v, 10 (sūkasuttaṃ). Trong A.i,8. Phẩm đặt hướng và trong sáng (paṇihita- acchavaggo) thì ghi là “tâm đặt đúng hướng (sammāpaṇihitattā cittassā’ti).

[53]- A.iv, 280.

[54]- A.iv, 228.

[55]- HT. TMC (d), A.iv, 145.

[56]- HT. TMC (d), A.iv, 3 (Vitthatabalasuttaṃ- Các sức mạnh tóm tắt).

-ooOoo-

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app