Tiêu đề 10- Trí hiểu rõ về Xúc.

Chánh kinh.

“Chư Hiền, thế nào là xúc (phassa), thế nào là tập khởi của xúc, thế nào là đoạn diệt của xúc, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của xúc?

Chư Hiền, có sáu loại xúc này: Nhãn xúc (cakkhusamphassa), nhĩ xúc (sotasamphassa), tỷ xúc (ghānasamphassa), thiệt xúc (jiivhāsamphassa), thân xúc (kāyasamphassa), ý xúc (manosamphasssa). Từ tập khởi của sáu xứ, có tập khởi của xúc (saḷāyatanasamudayā phassasamudayo). Từ đoạn diệt của sáu xứ, có đoạn diệt của xúc (saḷāyatananirodhā phassanirodho) và Thánh đạo tám ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt của xúc.

Giải.

1- Ý nghĩa từ phassa (xúc).

Phassa xuất phát từ ngữ căn PHAS, nghĩa là chạm vào, tiếp xúc [1].

Nên ghi nhận “xúc là một danh pháp, nên sự đụng chạm giữa các sắc pháp với sắc pháp, như lá cây rơi xuống chạm đất, hay viên đá chạm vào vách núi … không phải là xúc”, sự “chạm vào” ở đây là “tâm chạm vào cảnh”.

Pāli có giải thích như sau [2].

– “Ārambhaṃ phusatī’ti = phasso (hay phusanaṃ = phasso). Chạm với cảnh, gọi là xúc.”

-“Phusanti sampayuttadhammā etenāti = phasso.

Các pháp hòa hợp nhau, cùng chạm cảnh, gọi là xúc”.

Các Giáo Thọ Sư lưu ý đến ngữ cách: “Từ tập khởi của 6 xứ, có tập khởi của xúc”, 6 xứ được dùng với số nhiều (saḷāyatanasamudayā), trong khi xúc được dùng với số ít (phassasamudayo).

Nên có câu hỏi rằng: “Một xúc không sinh lên từ tất cả xứ, tất cả xúc không phải sinh lên từ một xứ. Vì sao Đức Phật thuyết “do sáu xứ, (một) xúc sinh lên (saḷāyatana paccayā phasso)?”.

Nghĩa là “một xúc không phải được tất cả xứ sinh lên, ngược lại một xứ cũng không sinh lên tất cả xúc, bao nhiêu xứ thì có bấy nhiêu xúc. Vì sao: Sáu xứ là số nhiều trong khi xúc ở số ít?”.

Ngài Buddhaghosa có giải thích ([3]: “Câu hỏi được nêu lên rất đúng, một xúc tuy không được sinh lên từ tất cả xứ, nhưng được sinh lên từ nhiều xứ, như nhãn xúc (cakkhusamphassa) sinh lên do có:  nhãn xứ (thần kinh nhãn), sắc xứ (cảnh sắc), ý xứ (tức nhãn thức) và pháp xứ (là các tâm sở đồng sinh với xúc). Do vậy, tuy là một xúc, nhưng đã bao gồm nhiều xứ theo cách thích hợp. Các xúc còn lại cũng thê”[4].

Chúng ta có thể hiểu như sau: “Gọi là một cái nhà, là đã bao gồm: rui, mè, kèo, cột, vách, trần…Tức là nhiều cột, nhiều rui, nhiều kèo… hợp lại thành một cái nhà. Và chỉ nói “một cái nhà là đủ nghĩa”.

“Tasmā eva hi.

Eko panekāyatanapphavo iti dīpito.

Phassoyaṃ ekavacananiddesa nīdha tādinā.

Ekavacananiddesenāti saḷāyatana paccayā phasso’ti.

“Chính vì thế.

Một xúc được (Đức Phật) dạy cho mỗi trường hợp.

Xúc tuy chỉ có một, lại xuất phát từ nhiều căn nguyên (tức là xứ – Ns).

(Do đó) Xúc là số ít trong câu nói “sáu xứ duyên cho xúc”.

2- Phân tích.

Câu nói:“Tất cả xúc không phải sinh lên từ một xứ”.

Có 12 xứ  gồm sáu nội xứ là: mắt, tai, mũi, lưỡi thân và ý xứ. Sáu ngoại xứ là: Sắc, thinh, mùi, vị, xúc và pháp xứ.

Chính xác hơn, pháp xứ (dhammāyatana) bao gồm cả nội xứ lẫn ngoại xứ.

Vì theo Luận Atỳđàm thì chi pháp của pháp xứ là: Sắc vi tế (16 sắc) + tất cả tâm sở + Nípbàn.

Ở đây chỉ nêu lên 6 nội xứ, nhưng bao hàm cả ngoại xứ. Và từ xứ, xúc sinh khởi, xứ sai biệt nên xúc cũng sai biệt.

“Dhātunānattaṃ, bhikkhave, paṭicca upajjati phussanānattaṃ.

“Này các Tỳkhưu, do giới sai biệt nên xúc sai biệt sinh khởi.” [5].

Giới (dhātu), là xứ  được phân tích rộng, chi pháp như nhau, chỉ khác tên gọi và khía cạnh. Như nhãn giới chi pháp là thần kinh nhãn (giống như nhãn xứ); sắc giới chi pháp là sắc cảnh sắc (giống như sắc xứ), nhãn thức giới chi pháp là 2 tâm nhãn thức (giống như nhãn thức)….  Chỉ khác là ý giới chi pháp là tâm khán ngũ môn và 2 tâm tiếp thâu. Ý thức giới chi pháp là “những tâm còn lại”.

“Kathañca, bhikkhave, dhātunānattaṃ?.

“Này các Tỳkhưu, thế nào là giới sai biệt?

Cakkhudhātu rūpadhātu cakkhuviññāṇadhātu.

Nhãn giới, sắc giới, nhãn thức giới.

Sotadhātu saddadhātu sotaviññāṇadhātu.

Nhĩ giới, thinh giới, nhĩ thức giới.

Ghānadhātu gandhadhātu, ghānaviññāṇadhātu.

Tỷ giới, hương giới, tỷ thức giới.

Jīvhādhātu rasadhātu  jīvhāviññāṇadhātu.

Thiệt giới, vị giới, thiệt thức giới.

Kāyadhātu phoṭṭhappadhātu kāyaviññāṇadhātu.

Thân giới, xúc giới, thân thức giới.

Manodhātu dhammadhātu manoviññāṇdhātu.

Ý giới, pháp giới, ý thức giới.

Idaṃ vuccati, bhikkhave dhātunānattaṃ.

Này các Tỳkhưu, đây gọi là giới sai biệt.”(sđd).

Sở dĩ, thọ sai biệt như: Nhãn xúc thọ, nhĩ xúc thọ… là do xúc sai biệt này:

“Dhātunānattaṃ, bhikkhave, paṭicca upajjati phussanānattaṃ.

“Này các Tỳkhưu, do duyên xúc sai biệt, thọ sai biệt sinh khởi.

No phussanānattaṃ, paṭicca upajjati dhātunānattaṃ.

Không phải do duyên thọ sai biệt, xúc sai biệt sinh khởi”.[6]

Kinh văn trên xác định “xúc sai biệt là do xứ sai biệt, không phải do thọ sai biệt”.

Lại có câu hỏi tiếp: Vì sao có xúc sai biệt này? Vì có dục (chanda) sai biệt.

“Añño, bhikkhave, kāmo rūpesu, añño kāmo saddesu, añño kāmo gandhesu, añño kāmo rasesu, añño kāmo phoṭṭhabbesu.

Ayam, vuccati, bhikkhave, kāmānaṃ vemattatā.

“Này các Tỳkhưu, dục trên các sắc là khác, dục trên các tiếng là khác, dục trên các mùi là khác, dục trên các vị là khác, dục trên các xúc là khác.

Này các Tỳkhưu, đây gọi là các dục sai biệt” [7].

Bốn khía cạnh thực tính của xúc là:

Trạng thái: Va chạm cảnh (phussanalakkhaṇo).

Phận sự: Làm cho tâm gặp cảnh (saṅghattanaraso).

Thành tựu: Hội hợp giữa Vật, cảnh và thức (saṅgatipaccupaṭṭhāno).

Nhân cần thiết: Có 6 xứ (saḷāyatanapadaṭṭhāno).

3- Sáu xúc.

Nhãn xúc: Là xúc sinh từ nhãn thức. Như có Pāli sau:

“Cakkhuviññāṇena sampayutto samphasso’ti = cakkhusamphasso.

Sự chạm (cảnh) của nhãn thức và các pháp hòa hợp (với nhãn thức), gọi là nhãn xúc”.

Nhĩ xúc: Là xúc sinh từ nhĩ thức. Như có Pāli sau:

“Sotaviññāṇena sampayutto samphasso’ti = sotasamphasso.

Sự chạm (cảnh) của nhĩ thức và các pháp hòa hợp (với nhĩ thức), gọi là nhĩ xúc”.

Tỷ xúc: Là xúc sinh từ tỷ thức. Như có Pāli sau:

“Ghānaviññāṇena sampayutto samphasso’ti = ghānasamphasso.

Sự chạm (cảnh) của tỷ thức và các pháp hòa hợp (với tỷ thức), gọi là tỷ xúc”.

Thiệt xúc:Là xúc sinh từ thiệt thức. Như có Pāli sau:

“Jīvhāviññāṇena sampayutto samphassoti = jīvhāsamphasso.

Sự chạm (cảnh) của thiệt thức và các pháp hòa hợp (với thiệt thức), gọi là thiệt xúc”.

Thân xúc:Là xúc sinh từ thân thức. Như có Pāli sau:

“Kāyaviññāṇena sampayutto samphassoti = kāyasamphasso.

“Sự chạm (cảnh) của thân thức và các pháp hòa hợp (với thân thức), gọi là thân xúc”.

Ý xúc: Là xúc sinh từ ý thức. Như có Pāli sau:

“Manoviññāṇena sampayutto samphassoti = manosamphasso.

“Sự chạm (cảnh) của ý thức và các pháp hòa hợp (với ý thức), gọi là ý xúc.

Năm xúc: Nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, là xúc sanh khởi trong 5 đôi thức, là xúc nội ngoại phần.

Ý xúc ở đây là nội xúc, là xúc có trong 22 tâm quả hiệp thế (2 tâm Tiếp thâu, 3 tâm Quan sát, 8 tâm quả Dục giới hữu nhân, 5 tâm quả thiền Sắc giới và 4 tâm quả thiền Vô sắc giới).

Những xúc này không tác động nhiều đến tâm, chỉ có loại xúc trong tâm đổng lực (javanacitta) làm duyên cho thọ sinh khởi tác động mạnh đến tâm.

Tâm đổng lực thường nhận biết hai loại cảnh: Cảnh ngoại phần (sắc , thinh, mùi, vị, xúc) và cảnh nội phần (cảnh pháp), như vậy cũng có hai loại xúc: Xúc nội phần và xúc ngoại phần, hai loại xúc này làm duyên cho thọ sinh lên.

 

Như bảng tâm lộ nhãn môn ở trên, khi tâm nhãn thức sinh lên rồi, thì xúc sinh từ nhãn thức sinh khởi, đến tâm Phán đoán thì xúc hoàn chỉnh, khi tâm đổng lực (1) sinh khởi thì Xúc làm duyên cho thọ sinh lên, từ những tâm đổng lực (2) cho đến tâm đổng lực (7), thì thọ tăng trưởng, khi lộ ý nối lộ ngũ xuất hiện thì thọ tăng trưởng hoàn chỉnh.

Đức Thế Tôn có dạy:

“Cakkhuñ ca paticca rūpaṃ ca upajjhati cakkhuviññāṇaṃ, tiṇṇaṃ saṅgati phasso:

“Do duyên mắt và duyên các sắc, sinh khởi nhãn thức, ba pháp này hội hợp là xúc”[8].

Mắt ở đây ám chỉ cho thần kinh nhãn (cakkhupasāda), không phải là mắt thịt bên ngoài thường hiểu.

Người đã chết, tuy còn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân nhưng các sắc thần kinh cùng tâm thức không còn, hoặc giả người mù tuy có con mắt nhưng không có thần kinh nhãn, người này không có tâm nhãn thức. Tương tự với người điếc…

Do đó, nói đến xúc do xứ  (āyatana) làm duyên để sinh lên, phải hội đủ ba pháp như lời dạy của Đức Thế Tôn.

Tương tự:

Đối với nhĩ xúc thì: “Sotañ  ca paticca sadde ca upajjhati sotaviññāṇaṃ tiṇṇaṃ saṅgati phasso:

“Do duyên tai và do duyên các tiếng, sinh khởi nhĩ thức, ba pháp này hội hợp là xúc” (sđd).

Đối với tỷ xúc thì: “Ghānañ ca paticca gandhe ca upajjhati ghānaviññāṇaṃ tiṇṇaṃ saṅgati phasso:

Do duyên mũi và do duyên các mùi, sinh khởi tỷ thức, ba pháp này hội hợp là xúc” (sđd).

Đối với thiệt xúc thì: “Jīvhañ ca paticca rase ca upajjhati jīvhāviññāṇaṃ tiṇṇaṃ saṅgati phasso:

“Do duyên lưỡi và do duyên các vị, sinh khởi thiệt thức, ba pháp này hội hợp là xúc”(sđd) .

Đối với thân xúc thì: “Kāyañ ca paticca phoṭṭhabbe ca upajjhati kāyaviññāṇaṃ tiṇṇaṃ saṅgati phasso:

“Do duyên thân và do duyên cácxúc chạm, sinh khởi thân thức, ba pháp này hội hợp là xúc”(sđd).

Đối với ý xúc thì: “Manañ ca paticca dhamme ca upajjhati manoviññāṇaṃ tiṇṇaṃ saṅgati phasso:

Do duyên ý [9] và do duyên các pháp, sinh khởi ý thức, ba pháp này hội hợp là xúc.”(sđd).

Ý ở đây là ý môn, chỉ cho 19 tâm hữu phần (2 tâm quan sát xả thọ, 8 tâm quả Dục giới hữu nhân, 5 tâm quả thiền Sắc giới và 4 tâm quả thiền Vô sắc giới), không phải là sắc ý  vật (hadayavatthu).

Điều này rất rõ ràng khi chúng ta hiểu biết rằng: “Vị Phạm thiên Vô sắc không có sắc ý vật, nhưng vẫn có ý xúc.”

Dùng bảng lộ tâm nhãn môn để minh họa, như sau:

 

Trong 6 xúc thì:

– Cõi Dục giới có đủ 6 xúc (trừ trường hợp hư hoại sắc thần kinh).

– Cõi Sắc giới hữu tưởng có 3 xúc: Nhãn xúc, nhĩ xúc và ý xúc.

– Cõi Sắc giới Vô tưởng: Không có xúc nào cả.

– Cõi Vô sắc giới có 1 xúc: Ý xúc.

1-            Luận giải.

Xúc là một pháp rất quan trọng đối với các pháp khác, Đức Phật có dạy:

“Sabbe dhannā phassasamudayā: “Các pháp lấy xúc làm tập khởi”. [10].

Vì thế, các vị Luận sư dạy rằng: “Thọ, tưởng, tư (cetanā) sanh khởi lên, cũng do xúc làm duyên”.

Xúc là một danh pháp tùy thuộc tâm (Xúc là một trong 50  tâm sở thuộc hành uẩn), không thể nhận thức bằng các giác quan.

Nhưng xúc tự hiện rõ khi cảnh chạm vào tâm, như chúng ta cảm thấy bất bình khi thấy (hoặc nghe) một người con bất hiếu với cha mẹ, hay giữ mãi ấn tượng tốt (hoặc xấu) với một người nào đó trong một thời gian dài.

Một người có thể ngất xỉu khi nhận được một hạnh phúc bất ngờ xẩy đến (như đột nhiên được hưởng một tài sản lớn), hoặc có thể “chết khiếp” khi một cảnh tượng kinh hoàng xuất hiện.

Giả như có dự kiến trước về những tình huống ấy (cảnh), có thể không rơi vào bất tỉnh.

Một cảm xúc mạnh bất ngờ trước hiện cảnh, thường lưu lại ấn tượng hoặc thích thú hoặc khó chịu, để rồi khi gặp lại cảnh cũ lại phát sinh thích thú hay khó chịu, và ấn tượng này khó phai trong thời gian dài, thậm chí trọn cả kiếp sống, để rồi chúng trở thành “pháp ngũ ngầm – anusaya” trong tâm thức.

Biết bao người sống mãi với “kỷ niệm buồn”, hay luôn bất mãn với một người, chỉ vì giây phút tiếp xúc ban đầu, kẻ ấy đã làm họ có cảm giác không ưa thích …

Thế là tâm bị trói buộc trong “ám ảnh” ấy, biện pháp giải thoát tâm ra khỏi trói buộc này là: “Quá khứ không truy tầm” [11], một khi ấn tượng trạng lại hãy chấm dứt nó bằng niệm (sati) với đề mục khác và niệm này nên đi kèm với trí quán (ñāṇa vipassanā).

Để ngăn chận “bất thiện pháp” sinh lên từ xúc, hãy “không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng” và “quân bình tâm trước những cảnh trần”.

a- Xúc tạo ra những bất thiện pháp.

 Đơn thuần chỉ là “tâm chạm cảnh” thôi, thế mà biết bao hệ quả tai hại nảy sinh từ  “tâm chạm  cảnh” ấy.

Chính xúc lôi kéo tâm chúng sinh rơi vào ác, bất thiện nghiệp, trong Sớ giải kinh Bổn sanh chúng ta tìm thấy rất nhiều trường hợp “do xúc dẫn dến ác, bất thiện nghiệp”.

Có thể hiểu “ái trực tiếp sinh ra khổ, còn xúc là gián tiếp sinh ra khổ”.

Đức Phật dạy rõ về “sự nguy hại của xúc” trong bài kinh “người chiến sĩ” [12]., tóm lược như sau:

Có hạng Tỳkhưu ví như người chiến sĩ khi vừa thấy bụi mù dấy lên, liền chùn chân (saṃsīdati), rủn chí (visīdeti), không còn can đảm (na santhambhati), không thể tham gia chiến trận.

Là vị Tỳkhưu được nghe: “Tại làng hay thị trấn kia, có nữ nhân xinh đẹp, khả ái”, vị ấy từ bỏ đời sống Phạm hạnh, trở về với đời sống thế tục. (Do nhĩ xúc làm duyên – Ns).

Có thể hiểu gia tộc vị Tỳkhưu này, không muốn vị ấy sống đời sống Phạm hạnh, nên dụ dỗ vị ấy hoàn tục bằng cách hứa hẹn “một cô gái xinh đẹp, hiền thục, đoan trang sẽ là vợ vị ấy, nếu vị ấy chịu hoàn tục”.

Có hạng Tỳkhưu ví như người chiến sĩ chịu đựng được bụi mù dấy lên, nhưng khi thấy cờ xí dựng lên, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tham gia chiến trận.

Là vị Tỳkhưu khi thấy nữ nhân xinh đẹp, khả ái. Vị ấy trở về với đời sống thế tục. (Do nhãn xúc làm duyên – Ns).

Có hạng Tỳkhưu ví như người chiến sĩ chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí, nhưng khi nghe tiếng la hét, liền chùn chân, rủn chí, không còn can đảm, không thể tham gia chiến trận.

Là vị Tỳkhưu bị nữ nhân cười nhạo, nói mơn trớn, cợt nhả. Vị ấy trở về với đời sống thế tục.

Có hạng Tỳkhưu ví như người chiến sĩ chịu đựng được bụi mù dấy lên, chịu đựng được cờ xí, chịu đựng được tiếng la hét, nhưng bị thương trong khi xáp chiến lâm trận, liền thất kinh thất đảm.

Là vị Tỳkhưu bị nữ nhân  ngồi sát một bên, nằm sát một bên, được vuốt ve mơn trớn, rơi vào hành dâm cùng nữ nhân ấy. (Do thân xúc làm duyên – Ns).  

Sau đây là vài mẫu chuyện minh họa về tai hại của xúc.

 Nhãn xúc dẫn đến bất thiện pháp.

Có vị Tỳkhưu trú trong thành Sāvatthī (Xávệ), một hôm đi khất thực, chợt trông thấy một nữ nhân tuyệt sắc, với xiêm y diễm lệ, vị ấy sinh lòng mê mẫn nàng.

Khi về đến tịnh xá, vị ấy không còn tinh tấn hành pháp, không còn tìm thấy an lạc trong bất cứ oai nghi nào.

Nhân đó, Đức Phật thuyết lên Bổn sự, nói về Đức vua Sivi chỉ nhìn thấy nhan sắc nàng Ummadantī, tâm tư rơi vào đắm nhiễm, tương tư nàng Ummadantī. [13] 

b- Nhĩ xúc dẫn đến bất thiện pháp.

Có một Phạm thiên hết phước, tái sinh vào một gia tộc trưởng giả. Hài tử khi sinh ra, không chịu được mùi nữ nhân, nếu có nhũ mẫu nào bồng ẳm, hài tử khóc thét lên, do đó hài tử được đạt tên là Anitthigandha (không có mùi nữ nhân), nhũ mẫu muốn cho hài tử bú, phải kê gối trước ngực mình.

Khi đến tuổi trưởng thành, cha mẹ bảo chàng cưới vợ, chàng tạo ra pho tượng thiếu nữ  rất xinh đẹp bằng vàng. Nói với song thân rằng:

– Nếu cha mẹ tìm được một cô gái xinh đẹp như pho tượng này, con sẽ cưới cô ấy làm vợ.

Song thân chàng thuê các Bàlamôn đi tìm cô gái như pho tượng, về sau các vị ấy đã tìm được, và báo tin cho ông bà trưởng giả biết.

Công tử Anitthigandha nghe “có cô gái xinh đẹp hơn pho tượng”, chàng nỗi lên lòng khao khát, mong mau chóng gặp cô gái. Bất ngờ, cô gái bị bịnh chết dọc đường, nghe tin này chàng phát sinh sầu khổ.

Đức Thế Tôn quán xét thế gian, thấy được duyên lành của Anitthigandha, Ngài ngự đi khất thực nơi nhà của chàng.

Và vào lúc hợp thời, Ngài thuyết giảng pháp thoại đến Anitthigandha, tiếp theo Ngài thuyết lên kệ ngôn:

“Kāmato jāyati soko. Kāyato jāyati bhayaṃ.

Kāmato vippamutassa. Natthi soko kuto bhayaṃ.

“Dục ái sinh sầu ưu. Dục ái sinh sợ hãi.

Ai vượt thoái dục ái. Không sầu, đâu sợ hãi”.[14]

Tỷ xúc dẫn đến bất thiện pháp.

Khi mũi chạm vào những hương thơm, quyến rũ tâm chúng sinh rơi vào tham ái, hoặc chạm vào những mùi xú uế, tanh tưởi, tâm rơi vào khó chịu, là tâm sân.

Trong Bổn sanh có ghi câu truyện:

Bồtát có thời tái sanh làm quạ chúa. Khi về già Ngài giao đàn quạ lại cho  con Ngài cai quản, Bồtát dặn quạ con rằng:

– Này con, con có dẫn đàn đi tìm thức ăn nơi nào cũng được, nhưng đừng nên ra hòn đảo, vì sẽ có tai hại đến đàn quạ và cả con nữa.

Quạ con vâng theo lời dạy của Bồtát, khi mùa xoài đến. Mùi hương thơm của xoài theo gió đi đến đàn quạ. Quạ con tuy nhớ lời cha dặn, nhưng mùi thơm của xoài đã quyến rũ, y cùng cả đàn quạ ra hòn đảo để ăn xoài.

Khi dùng xoài thỏa thích, đàn quạ trở về tổ. Vì ăn quá nhiều xoài nên bầy quạ phát sinh buồn ngủ khi vượt biển, một số lớn rơi xuống biển trong đó có quạ con.

Câu truyện trên cho thấy, vị xoài trực tiếp dẫn đến tham đắm gây ra tai họa cho đàn quạ, còn mùi thơm của xoài là gián tiếp.

Thiệt xúc dẫn đến bất thiện pháp.

Có vị Hoàng tử trẻ tính tình hung bạo, Đức vua suy nghĩ: “Con ta còn trẻ mà tính tình thô bạo, khi lên ngôi vua trị vì sẽ khổ cho dân chúng. Ta hãy tìm cách giáo hóa tính tình Hoàng tử”.

Đức vua nhờ vị ẩn sĩ  (là Bồtát) giáo hóa Hoàng tử, vị ẩn sĩ nhận lời.

Một hôm Hoàng tử đến nơi ngụ của ẩn sĩ, thấy cây nimba còn non, rất xinh đẹp. Hoàng tử hái lá nimba ăn, lá rất đắng, Hoàng tử nỗi giận nhỗ cây nimba còn non, vò nát trong tay. Thấy vậy, vị ẩn sĩ nói rằng:

– Cây Nimba là thảo mộc vô tri, Hoàng tử còn thô bạo như vậy. Khi Hoàng tử trị vì thiên hạ, ai nói nghịch ý Hoàng tử thì sẽ khổ như thế nào. Chả trách dân chúng ta thán về tính tình hung bạo của Thái tử.

Hoàng tử chợt tỉnh ngộ, thay đổi tính tình trở nên hiền thiện.

– Thân xúc dẫn đến bất thiện pháp.

Trong thời Đức Phật, có vị Tỳkhưu xuất gia trong giáo pháp này, trước khi xuất gia vị ấy đã có vợ.

Khi xuất gia, tâm tư vị ấy nghĩ đến người vợ cũ, không còn tha thiết đến  đời sống Phạm hạnh. Chư Tỳkhưu trình bạch lên Đức Thế Tôn về việc này, Ngài cho gọi vị Tỳkhưu ấy đến, hỏi rằng:

– Có thật chăng, này Tỳkhưu, nghe nói ngươi bị ái nhiễm?

– Bạch Thế Tôn, có thật vậy.

– Này Tỳkhưu, ngươi bị ái nhiễm bởi ai?

– Bạch Thế Tôn, người vợ trước của con rất êm dịu khi xúc chạm. Con không thể bỏ nàng được.

– Này Tỳkhưu, chính nữ nhân ấy tạo ra bất hạnh cho ông trong quá khứ. Nhờ có Ta, ngươi mới thoát chết.

Theo lời thỉnh cầu của chư Tỳkhưu, Đức Thế Tôn thuật lại Bổn sanh. Tiếp theo, Đức Thế Tôn thuyết lên bốn sự thật ( Tứ diệu đế). Dứt thời pháp vị Tỳkhưu bị ái nhiễm, chứng quả Dự lưu. [15]

Nên ghi nhận: “Năm xúc trên dẫn đến bất thiện là do có ý xúc (là xúc trong những tâm đổng lực), ý xúc này đi chung với dục tầm (kāmavitakko), dục tưởng (kāmasaññā)”.

*- Ý xúc dẫn đến bất thiện pháp.

Như bà Patacārā bị điên loạn chỉ vì tiếp chạm liên tục những cảnh não lòng: Chồng chết, con chết, cha mẹ chết.

Đức Phật có dạy:

“Dhātunānattaṃ, bhikkhave, paṭicca uppajjati saññānānattaṃ, saññānānattaṃ paṭicca uppajjati saṅkappanānattaṃ,  saṅkappanānattaṃ paṭicca uppajjati phassanānattaṃ.

Này các Tỳkhưu, do duyên giới sai biệt, tưởng sai biệt sinh khởi. Do duyên tưởng sai biệt, tư duy (saṅkapppa – tầm) sai biệt sinh khởi. Do duyên tư duy sai biệt, xúc sai biệt sinh khởi…”  [16].

Đình chỉ được dục tầm, dục tưởng thì bất thiện pháp không thể sinh lên, thay vào đó là thiện pháp.

Mặt khác, chỉ vì các căn quyền không phòng hộ, nên các xúc do duyên trần cảnh cùng căn quyền sinh lên là xúc bất thiện.

“Aguttaṃ cakkhusotasmiṃ, indriyesu asaṃvutaṃ.

Makkhikānupatissanti saṅkappā rāganissitā.

“Tai, mắt không gìn giữ, các căn không phòng hộ,

Ruồi lằng sẽ bu đến, các tư duy tham ái….”[17].

b- Xúc dẫn đến thiện pháp.

Hình ảnh vị sa môn mặc y cũ rách, làm xúc động tâm của cô gái làm công ba năm mới có được 2 bộ y mới, nàng dâng đến vị sa môn (vị Thánh Alahán) chiếc y thứ nhất, Ngài mặc vào, nàng thấy Ngài trở nên xinh đẹp, tâm vô cùng hoan hỷ, nàng lại dâng tiếp bộ y thứ hai.

Hậu thân của cô gái là nàng Ummadantī, và chính là tiền thân của bà Uppalavaṇnā, đệ nhị Thánh Nữ của Đức Thế Tôn trong hàng Tỳkhưu ni.

Đây là nhãn xúc làm khởi sinh tâm thiện.

Rất nhiều trường hợp Kinh điển đề cập đến: “Vị thánh Thinh văn, khi nghe pháp (nhĩ xúc), từ đó phát triển Minh quán chứng đạt đạo quả”.

Như Ngài Sāriputta nghe bốn câu kệ từ Đức Assaji, Ngài Bāhiya nghe kệ ngôn nói về lý vô ngã từ Đức Thế Tôn…

Đây là nhĩ xúc dẫn đến thiện, sau cùng là “chứng đạt Thánh quả”.

Hay câu truyện về 500 vị Tỳkhưu tu tập thiền quán, nhưng chưa thành đạt Thánh tuệ. Các Ngài trở về Tinh xá Kỳviên (Jetavanavihāra) để yết kiến Đức Thế Tôn.

Khi về đến tự viện, trời đổ mưa, các ngài đứng trú mưa, nhìn thấy những bọt nước nổi bập bềnh rồi vở tan nhanh chóng. Các Ngài khởi lên tư tưởng: “Tự ngã này cũng như bọt nước, chúng có rồi không, không rồi có”,  các Ngài tập trung vào trí quán ấy. Đức Thê Tôn phóng hào quang đến trước các Ngài, thuyết lên kệ ngôn:

“Yathā bubbulakaṃ passe. Yathā passe marīcikaṃ

Evaṃ lokaṃ avekkhantam. Maccurājā na passati.

“Hãy nhìn như bọt nước. Hãy nhìn như cảnh huyễn.

Quán nhìn đời như vậy. Thần chết không bắt gặp”.[18]

Về thân xúc dẫn đến thiện hay Thánh quả, như Ngài Pūtigatta Tissa, Ngài Godhika, Ngài Channa… 

Hành giả tu tập thiền chỉ tịnh hay thiền Minh quán, phải nương vào xúc, từ xúc phát triển niệm (sati) hay tuệ quán để thành tựu những pháp thượng nhân là: Thiền định, thắng trí và đạo quả Siêu thế.

2-            Xúc duyên cho thọ.

– Khi mắt tiếp xúc với với cảnh sắc tốt hay xấu sẽ làm sanh khởi 3 thọ: Lạc, khổ và xả.

Theo thực tính thì một trong ba thọ sẽ hiện khởi nơi tâm đổng lực như đã giải ở trên. Tương tự như thế, đối với nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc và thân xúc.

Về ý xúc thì: “Đôi khi nhớ lại điều gì thích thú thì nở nụ cười”, đây là ý xúc duyên cho thọ hỷ. Hoặc cảm thấy buồn khi nghĩ đến những bất hạnh đã qua của mình, đây là ý xúc duyên cho khổ thọ. Hay thản nhiên suy gẫm một điều nào đó, dây là ý xúc duyên cho xả thọ.

Chấm dứt trí hiểu rõ Xúc.

-ooOoo-

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app