Chương 09: Cuộc Sống Tự Do
Đêm rất dài đối với người thức trắng
Đường rất xa với kẻ lữ hành
Dài thăm thẳm kiếp luân hồi tiếp nối
Của kẻ ngu si, chẳng biết Chánh Pháp.
Kinh Pháp Cú – 60
Chúng tôi đến Luân Đôn với rất ít hành lý. Nhân viên của công ty Rover đón chúng tôi tại phi trường, trao tận tay Gerd chìa khóa của chiếc xe van Land Rover, và nói: “Thượng lộ bình an”, rồi biến mất. Gerd chưa quen với chiếc xe mới, và cũng chưa quen lái bên trái đường. Bạn có thể hình dungngày đầu tiên của cuộc hành trình của chúng tôi như thế nào! Gerd cứ tìm và bật tín hiệu quẹo mặt, trong khi tôi ngồi kế bên hét lên: “Trái! Trái!” vì anh cứ theo thói quen làm ngược lại.
Jeffrey ngồi ở phía sau, hoàn toànkhông động đậy. Tôi không nhớ, dù chỉ một lần, trong suốt các cuộc hành trình dài dẳng, cậu bé khóc lóc, cằn nhằn hay la lối. Lúc nào cậu cũng ngồi đằng sau xe, ngó ra cửa sổ. Có lần chúng tôi hỏi có gì hay ở ngoài cửa sổ mà con cứ ngó hoài. Cậu bé trả lời: “Giống như một cuốn phim vậy, mọi thứ diễn ra bên ngoài cửa sổ, và con chỉ việc xem”.
Chúng tôi nhận được thư của mẹ và dì. Họ trách tôi cứ mang đứa trẻ đi khắp địa cầu, không để cho nó có cuộc sống bình thường với bạn bè, gia đình. Mọi đứa trẻ đều cần có một mái nhà ổn định, họ nói. Không thể phủ nhận điều ấy. Đó là cách suy nghĩ của nhiều người. Nhưng con trai tôi, Jeff có vẻ thích thú lắm với cuộc sống rày đây mai đó.
Ở Luân Đôn, chúng tôi mướn được một khoảng đất trống trong khu đậu xe kiểu nhà lưu động, và bắt đầu trang trí bên trong chiếc Land Rover thành một chỗ ở ấm cúng, thoải mái. (LND: Ở các nước phương Tây, có loại nhà có thể di dời gọi là mobile home. Các ngôi nhà này không có đất cố định mà phải mướn đất để ‘đậu’). Các băng xe có thể xếp lại thành giường đôi. Có bàn, có bếp, có các tủ chứa đồ và một chỗ làm bếp. Trần xe có thể đẩy cao lên để có thể đứng thẳng trong xe. Phía gần trần xe, có thêm hai giường ngủ. Jeff ngủ ở đó. Khi xe chạy ta có cảm giác như đang nằm trên võng, nên Jeff rất thích.
Chúng tôi có rất nhiều thì giờ rổi rãi. Nếu thích, chúng tôi có thể lái xe qua những ngôi làng nhỏ, dễ thương ở Anh, đến Dover, rồi từ đó đi xuyên qua Pháp xuống bãi biển Côte D’Azur. Chúng tôikhông cần có một lịch trình nhất định, vì không có ai chờ đón chúng tôi ở nơi nào cả. Tôi nhớ rất rõ cảm giác tự do, thoải mái được trôi theo thời gian. Cả tôi và Gerd đều có học tiếng Pháp ở trường, nhưng thứ tiếng Pháp đó không giúp chúng tôi giao tiếp được với ai. Cách phát âm của chúng tôi quá tệ, khiến không ai hiểu được. Ngược lại, người Pháp cũng chẳng muốn hay chẳng thể nói tiếng Anh.
Ở Monte Carlo, tôi muốn đi thăm sòng bạc để biết nó ra làm sao, coi như làm phong phú thêm kinh nghiệm sống của mình. Jeff không đi, ở ‘nhà’ ngủ sớm. Tôi cho người bảo vệ ít tiền, nhờ anh trông chừng dùm cháu và xe. Nhưng Jeff như thường lệ, ngủ một mạch đến sáng.
Ở các sòng bạc, tôi quá ngạc nhiên bởi vẻ lịch sự của các tay đánh bạc, và mọi thứ ở đây đều phục vụ miễn phí, khỏi trả tiền -nước uống, bánh mì sandwich, thuốc lá, xi-gà. Nhưng có lẽ thú vịhơn cả là được xem người ta đánh bạc. Bạn có thể nhìn thấy trên mặt họ tràn đây lòng tham, mà trong cuộc sống thường ngày đã được giấu kỹ. Ở đây không ai phải làm màu với ai. Lòng tham được bộc bạch một cách trắng trợn khiến tôi không thể không nghĩ đến hai chữ “Địa Ngục” ngay tức thì. Trong tiếng Đức, danh từ chỉ nơi đánh bạc là Spielholle, hay là “địa ngục bạc bài”.
Điều này làm tôi nhớ đến một kỷ niệm khác. Khi tôi bắt đầu tu thiền, ngay ngày thứ hai là tôi đã có ‘kinh nghiệm về địa ngục”. Tôi có cảm giác tôi bị những sinh vật mỏng manh, dị hình, như những cành cây, nhún tôi lên xuống trong những thùng dầu nóng đỏ. Vừa làm như thế, chúng vừa nói bằng cái giọng the thé: “Đây là con đường đi đến giải thoát. Đường đến giải thoát”. Tôi chỉ có thể vùng thoát khỏi chúng sau khi xả thiền. Sau này tôi khám phá ra Đức Phật đã dạy, ai cũng phải một lần trải qua kinh nghiệm khổ đau cùng cực như trong địa ngục này để có thể bắt đầu bảo vệmình khỏi những hiểm họa của ác nghiệp.
Ở Monte Carlo, tôi đặt hai đồng tiền xuống bàn roulette. Người quay vòng hô lên: “Không ai đặt nữa”, rồi thả trái banh cho quay. Dĩ nhiên là tôi thua -may mà chỉ ít tiền.
Sau đó chúng tôi lái xe đến Tây Ban Nha, rồi từ đó qua Ý, rồi qua Aùo. Lý do duy nhất để giải thích sự đi lòng vòng này là vì Gerd không muốn phải ghé qua Đức. Anh bảo là anh không có can đảm đến đó. Đối với tôi, tôi đã xả bỏ, nhưng anh thì chưa làm được. Dầu anh vẫn nói tiếng Đức, nhưng anh không muốn trở về xứ sở nơi cha mẹ anh đã bị giết. Mãi sau này, khoảng hai năm trước đây, may mắn thay anh đã thay đổi, vì lòng hận thù, ghét bỏ chỉ đem lại khổ đau -cho chính chúng ta và cho cả nhân loại.
Chúng tôi đã viếng thành phố Vienna, đã nhìn tận mắt bánh xe khổng lồ Ferris ở thành phố Prater. Đã ghé qua Nam Tư, viếng Dubrovnik, thành phố biển đẹp tuyệt vời (ít nhất là đẹp ở thời điểm đó). Buổi tối, các đoàn vũ công với những lễ phục truyền thống đầy màu sắc nhảy múa trên mái lầu. Tất cả dân địa phương và khách ngoại quốc đều ngồi trên những bực thềm của các con đường dốc nhỏ hẹp, vừa chuyện trò, vừa thưởng thức âm nhạc và các vũ điệu. Kỷ niệm đó bây giờ nhớ lại chỉ gợi niềm đau vì cả thành phố giờ gần như đã bị tiêu hủy hoàn toàn.
Sau đó là Hy Lạp và Acropolis. Có lần chúng tôi đi dự một buổi trình diễn ngoài trời: một vỡ kịch cổ điển Hy Lạp, trình diễn bằng tiếng Hy Lạp. Chúng tôi không hiểu một lời nào, nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cảm giác được ngồi trên những viên đá hai ngàn năm tuổi, ngắm nhìn các diễn viên trong những trang phục màu trắng, nghe họ nói như hát. Cảm giác giống như một giấc mơ tuyệt vời.
Sau đó chúng tôi lái xe qua Bức Màn Sắt đến Bulgari. Mang hộ chiếu Anh và Mỹ, chúng tôi không gặp khó khăn gì khi nhập cảnh vào đây. Nhưng hóa ra chúng tôi không thể mua gì ăn ở đây. Chẳng có gì cả! Cả cái siêu thị to lớn trống trơn, trong khi chúng tôi phải mua thức ăn Mỗi ngày, vì không có tủ lạnh để trữ đồ ăn. Khắp nơi, chúng tôi thấy những tấm biển to lớn được dựng lên để thông báo người này, kẻ kia đã là nhân viên lao động xuất sắc trong tháng, và đã được huân chương. Nhưng chúng tôi không tìm được cả đến một mẫu bánh mì.
Gerd tăng tốc độ xe để chúng tôi có thể ra khỏi đây qua Thổ Nhĩ Kỳ càng sớm càng tốt. Chúng tôilái xe dọc theo bờ Biển Đen, một bãi biển trải dài tuyệt đẹp, và chính ở đây, chứ không phải ở nơi nào khác, chúng tôi gặp tai nạn, lần đầu tiên trong suốt cuộc hành trình.
Dừng xe van ở một chỗ đẹp nhất, giữa thiên nhiên, như thường làm. Chúng tôi đang dùng bữa tối, thì thình lình một người đàn ông xuất hiện, tay cầm một con dao lớn. Hắn ta ra lệnh gì đó, mà chúng tôi không hiểu. Chắc là hắn muốn đồ ăn, tôi nghĩ, nên đưa đồ ăn cho hắn. Nhưng hắn không cần đồ ăn, mà ngó quanh quất, rồi leo lên xe, lục tung đồ đạc, rồi trèo xuống. Lúc nào cũng chỉa mũi dao về phía chúng tôi. Đang lúc chúng tôi nghĩ nếu cứ như thế này thì nguy mất, thì bỗng nhiên hắn bỏ đi.
Dĩ nhiên, sau đó chúng tôi cũng lẹ làng chạy đi nơi khác, không dám ở thêm một phút. Gerd lái mãi, lái mãi cho đến khi chúng tôi đến một đồn điền hoa quả. Ở đó có một người bảo vệ già, ông cho chúng tôi lái xe qua cổng, rồi đóng lại. Ông nói chút ít tiếng Đức. Ông cho phép chúng tôi ở lại qua đêm và muốn ăn bao nhiêu trái cây tùy thích. Nhờ vậy, chúng tôi mới qua được một phen sợ điếng hồn.
Từ đó trở đi, suốt thời gian ở Thổ Nhĩ Kỳ, mỗi đêm chúng tôi đậu xe trước cửa đồn cảnh sát để ngủ. Ai lại dám đùa với số mệnh bao giờ.
Tính từ nửa thế kỷ trở lại đây, có lẽ chúng tôi là những người cuối cùng có thể du lịch một cách thong dong như thế này. Không có gì hối thúc chúng tôi, không phải chạy theo chương trình du lịch nào như những người du lịch ngày nay. Đó là một cuộc hành trình rất dài, nhìn lại tôi thấy giống như một tấm thảm đủ màu sắc.
Ở Thổ Nhĩ Kỳ, chúng tôi đi thăm Troy, một thành phố cổ đã được Schliemann khám phá ra. Lúc đó ở Iraq đang có biến loạn, nên chúng tôi nhanh chóng qua Iran. Ở Teheran, chúng tôi bị chìm vào trong biển xe cộ hỗn loạn. Tôi nghĩ chắc không có đâu mà tình trạng giao thông lại tệ hại đến vậy. Tôi có cảm tưởng như các bịnh nhân tâm thần đã trốn khỏi viện, ra đường lái xe, nhưng hình như không có ai quan tâm sửa đổi. Vậy mà khi Gerd vừa phạm lỗi quẹo vào con đường một chiều, lập tức một người cảnh sát xuất hiện. Anh ta tỏ ra rất nghiêm khắc, và xem đây là một trọng tội. Chúng tôi làm anh ta phát bực khi cứ tiếp tục nói tiếng Tây Ban Nha. Anh ta không hiểu được một chữ. Sau khoảng nữa tiếng, anh ta ra lệnh bằng tiếng Anh, bảo chúng tôi lái xe đến một trụ sở cảnh sát gần đó nhất. Rồi anh ta bỏ đi. Dĩ nhiên là chúng tôi chẳng lái đến trạm cánh sát nào cả.
Điều gây ấn tượng cho tôi nhất ở Teheran là các chợ. Ở đâu cũng đầy mùi gia vị, dầu, và đầy các tấm thảm tuyệt đẹp. Chúng tôi phải tự kiềm chế lắm để khỏi tiêu xài quá đáng, vì chúng tôi muốn để dành tiền mua một nông trại ở Uùc khi trở về đó.
Ở Afghanistan lại có chiến tranh. Không ai được phép đến đó. Vì thế chúng tôi qua Pakistan, nơi những thùng đồ của chúng tôi đã được gửi đến. Vừa đến Pakistan không lâu, thì Gerd lại bị sốt rét. Chúng tôi phải đợi mất vài tuần trước khi anh hồi sức. Do đó, tôi được có thì giờ đi thăm bạn bè, thăm viếng công trình Indus, một công trình phát triển quá chậm chạp -cũng không lạ gì nếu như bạn biết người ta đào các hầm hố để làm nền như thế nào; bằng cách mướn các bà mặc áo dài lượm thượm, đội trên đầu các giỏ nhỏ đựng cát đất.
Sau đó đến Ấn Độ. Ở đó chúng tôi có hai chuyến đi rất thú vị, một là đến Kashmir, hai là Hunza.
Để đến được Kashmir, chúng tôi phải đi qua dãy Hy Mã Lạp Sơn bằng những con đường qua núi. Trong suốt cuộc hành trình, chúng tôi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của núi Everest trong ánh sáng ban mai. Trên những con đường dốc đó, tuyết phủ đầy. Có lần, bỗng nhiên, từ đâu xuất hiện một chiếc xe chở quân đội Ấn Độ ở bên đường ngược chiều. Gerd không thế thắng được vì tuyết. Hai chiếc xe đụng nhau. Phía trước đầu xe của chúng tôi bị móp khá nặng, nhưng đầu máy không hề gì, xe vẫn chạy được. Tôi thì bị bầm một mắt, vì mặt tôi đập vào kính cửa khi hai xe đụng nhau. Cả xâu chuỗi đeo cổ bằng ngà của tôi cũng bị văng mất. Ngoài ra, không có gì hệ trọng nữa.
Khi đến được Kashmir, chúng tôi bỏ xe sửa. Người Kashmir rất khéo trong các nghề thủ công. Họ làm ra những chiếc khăn, những đồ thêu thùa, dệt, vẽ trang trí tuyệt vời. Không thể tưởng tượng được sau khi xe sửa xong, chúng tôi không thể tìm thấy được vết trầy nào trên xe.
Khi chiếc Rover nằm ở garage sửa xe, chúng tôi mướn một chiếc ‘nhà thuyền’ đi chơi. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Cả thuyền được trải đầy các tấm thảm. Có thảm để ngồi, thảm để bàn, thảm treo tường, thảm trên giường ngủ. Rồi trên thảm chất đầy những chiếc gối êm ái. Nhìn vào thật tuyệt. Và một tuần lễ trên đó giúp chúng tôi hồi phục sức khỏe nhanh chóng. Thật vậy dầu đi du lịch tự do, nhưng ở trong chiếc Rover với đứa trẻ, lại phải chăm lo dạy học cho nó, cũng làm chúng tôirất mệt.
Ở Kashmir, chúng tôi rất tò mò về ngôi mộ của Chúa Jesus ở không xa thành phố Srinagar lắm. Chúng tôi đã đến đó thăm viếng, nhưng không thể tin vào sự trung thực của nó. Có rất nhiều giả thuyết -và cả những chứng cớ- rằng Chúa đã đến nơi này, nơi kia, sau khi mất ở Jerusalem (mà theo những người này chỉ là một cái chết giả), sau đó ngài trở về Kashmir.
Sau đó chúng tôi lại đến vùng núi đá ở phía Bắc Kashmir: đó là vùng Hunza. Ở đó trong một diện tích khoảng tám ngàn thước vuông, có khoảng mười ngàn người sống, mà vì cách sống của họ, đã có thể thọ đến -một trăm hai mươi tuổi hay hơn thế nữa. Một dân tộc hạnh phúc với ngôn ngữvà văn hoá riêng của mình.
Để đến được nơi đó, trước hết chúng tôi phải lái tận đến Gilgit, một thành phố nằm trên những con đường dẫn qua Trung Hoa. Từ Gilgit trở đi, không có gì chắc chắn cả. Chỉ có một con đườngduy nhất dẫn vào Hunza -chữ ‘đường’ ở đây hình như hơi phóng đại quá. Đúng hơn phải gọi đó là ‘những dấu chân thần chết”.
Nhưng muốn gọi là gì, những con đường này cũng chỉ dành cho người Hunza. Không ai khác được phép sử dụng chúng.
May mà chúng tôi gặp được một chiếc xe Jeep nhà binh đang chạy tới, còn ba chỗ trống trên xe. Bác tài, Jeff, đến tôi, rồi Gerd, tất cả chèn vào băng ghế trước. Phía sau chấp đầy những bao ngũ cốc, và sáu người Hunza ngồi trên đó. Con đường rộng vừa đúng một chiếc xe, và rất dốc. Xe đi dọc theo đèo. Nên phía bên mặt là vách đá, bên trái thăm thẳm sâu là con sông Hunza. Có những chỗ ngoặt quá gắt đến nỗi tài xế phải bám xe sát vào thành núi mới có thể vượt qua. Chiếc xe cũng không phải tốt lắm. Có vẻ như nó được lắp ráp từ rất nhiều phần của các xe jeep khác nhau, mà có lẽ người ta đã bỏ lại từ các cuộc hành trình.
Trước khi khởi hành, bác tài ngừng xe lại ở một đền thờ, cầu nguyện vài phút, rồi bỏ một đồng tiền vào cái tô. Bác nói rằng, bác làm vậy để cầu cho chúng tôi không bị lật xe, ngã xuống sông. Có lẽ vì tôi nhìn bác với vẻ không tin, nên bác lại thêm rằng, tai nạn xảy ra thường ngày như cơm bữa. Gần đây, một chiếc xe buýt nhỏ đã rớt xuống đèo, ba mươi hành khách trên chuyến xe đều chết hết. Nghe tới đó, tôi lẹ làng móc thêm một đồng tiền nữa bỏ vào tô.
Phải thú nhận rằng ở thời điểm đó, tôi chưa nghĩ đến cái chết bao giờ, tôi vẫn còn tha thiết muốn sống lắm. Ngày nay thì đã khác, nhưng lúc đó, ý tưởng phải biến mất khỏi mặt đất là điều tôi khó chấp nhận. Ngoài ra, tôi không muốn mất Jeffrey và Irene, tôi vẫn còn muốn gặp lại hai con tôi.
Nói gì thì nói, chúng tôi vẫn lên đường, và trái với dự đoán, mọi việc đều an lành. Có lần chúng tôiđến một con đường đã bị phá hủy. Một số người Hunza đang sửa chữa. Chúng tôi phải đợi họ sửa xong, mới có thể tiếp tục lên đường.
Cuối cùng, chúng tôi cũng đặt chân đến được một làng đầu tiên của người Hunza. Bác tài xế có rất nhiều bà con quyến thuộc, bạn bè ở đây, họ mững rỡ đón tiếp bác. Họ mời bác ta uống rượu. Khi tôi hỏi loại rượu gì, bác nói đó là Hunzapani. Pani có nghĩa là nước, nhưng Hunzapani lại không phải là nước, mà là rượu, và bác tài của chúng tôi uống thả dàn.
Vài người khách bắt đầu trèo xuống xe, khiêng theo các bao tải. Rồi thêm vài người nữa, cho đếnlúc chỉ còn có chúng tôi và bác tài. Rõ ràng là bác tài đang rất yêu đời, bác vừa lái, vừa ca hát ỏm tỏi. Nhưng con đường không đổi tốt hơn. Vẫn dốc và quanh co như trước đó. Tôi càng lúc càng thấy lo thêm.
Cũng may mà chúng tôi đến Baltit an toàn. Thủ đô Baltit nằm ở độ cao ba ngàn năm trăm thước. Chúng tôi mướn phòng ở một quán trọ nhỏ. Không có đầy đủ tiện nghi, nhưng là một nơi có cảnh trí đẹp tuyệt vời. Khó thể tưởng tượng được một nơi đẹp như thế. Trước mắt chúng tôi là khung cảnh của cả dãy Hy Mã Lạp Sơn. Ở đây buổi sáng lúc mặt trời lên là một cảnh tượng thiên nhiênkhó thể diễn tả nổi.
Vừa đến nơi không lâu, thì chúng tôi đã có người nhà của ngài Mir đến thăm. Ngài Mir của Hunza, chính là vị vua của đất nước này. Theo sự phân chia chính trị, thì Hunza thuộc về Pakistan, nhưng thực tế nó được tự quản. Chúng tôi được báo là nhà vua mời dùng cơm ngày mai. Đúng là tin hay. Vì chúng tôi vừa đến, hãy còn xa lạ với mọi thứ, vậy mà đã được nhà vua mời dùng cơm. Chúng tôi hồ hởi chuẩn bị.
Nhà vua sống trong một biệt thự bằng gỗ nhỏ, rất đẹp, chứ không ở trong lâu đài. Đúng hơn, chúng tôi có thể gọi đó là một ngôi nhà bằng gỗ tuyệt đẹp, với nhiều chạm trổ tinh vi bên ngoài. Khi chúng tôi bước vào đã thấy nhà vua và hoàng hậu ngồi chờ. Hoàng hậu có nước da trắng và đẹp như một bức tranh. Nhà vua lập tức báo cho chúng tôi biết là Ngài có bảy người con với Hoàng hậu. Tôi đoán có lẽ ông khoảng năm mươi, cái tuổi mà ở Hunza, ông vẫn còn là một người đàn ông trẻ.
Việc đầu tiên nhà vua hỏi chúng tôi là đã đến đây bằng cách nào. Bằng xe Jeep, chúng tôi trả lời. Nhưng ý nhà vua không phải hỏi thế. Mà vì người ta cấm nhập cảnh vào đất nước này. Đã từ lâu, không có du khách nào đến đây cả. Lý do nhà vua hỏi điều đó là vì, Hunza nằm dọc theo biên giớiTây Tạng, và lúc đó Trung Hoa đã chiếm Tây Tạng. Mọi cửa biên giới ra vào ở những xứ này đều đã bị đóng. Không ai được vào hay ra.
Thật ra lúc còn ở Karachi, chúng tôi đã nhận được giấy phép. Nhưng theo nhà vua, đó là do một sự lầm lẫn nào đó. Dầu gì, nhà vua rất vui mừng đón tiếp chúng tôi. Đã từ lâu ông mới được gặp những người ông có thể chuyện trò. Oâng nói tiếng Anh rất lưu loát, thường du lịch qua Aâu châu, đến Côte D’Azur. Oâng là bạn của Thái tử Rainier của Monaco, nên rất mong được gặp những người bạn tâm đầu.
Phần còn lại của buổi nói chuyện xoay quanh một đề tài khá cụ thể là chúng tôi có biết sử dụng tủ lạnh xài dầu không. Gerd nói: “Vâng, chúng tôi cũng có biết chút ít về loại tủ lạnh đó”. Thật vậy, lúc còn ở trên đảo ở Pakistan, chúng tôi đã có được sử dụng. Nhà vua bảo rằng ngài vừa mua một cái mới tinh, được mấy người Hunza khiêng trên lưng từ Baltit đến đây, nhưng không ai biết làm sao cho nó chạy.
Nghe như thế, Gerd liền đi vào nhà bếp, và làm như chúng tôi vẫn thường làm hồi đó khi chiếc máy lạnh đình công, không chịu chạy. Anh lật úp nó lại. Phải để như thế qua đêm, Gerd dặn dò. Đến hôm sau khi chúng tôi trở lại, có thể nó sẽ hoạt động trở lại.
Sáng hôm sau chúng tôi trở lại, Gerd lật tủ lạnh trở lại, và đúng là nó đã chịu hoạt động. Dĩ nhiênlà từ đó, chúng tôi càng được nhà vua trọng đãi hơn. Oâng mời Gerd ở lại để lo về điện lực cho nước này. Tuy nhiên, điều đó nằm ngoài dự tính của chúng tôi. Chúng tôi phải giải thích vì sau chúng tôi phải từ chối lời yêu cầu của ông, nhưng không từ chối lời mời dùng bữa trưa.
Ngồi ở bàn ăn là nhà vua, hoàng hậu, hai người con gái của họ và chúng tôi. Trước mặt mỗi người có một tô đá nhỏ, trong có những cánh hoa hồng. Jeffrey chăm chú nhìn cái tô trước mặtmình, rồi bưng lên, nốc cạn. Tôi nói nhỏ với cậu bé: “Đó là nước rửa tay, không phải nước uống”. Ra chính ở Hunza, cậu bé mới được học bài học về phong cách ẩm thực.
Tôi ngắm nghía những chiếc muỗng, nĩa, dao bằng bạc, chạm trổ vương miện và có khắc tên. Tôi hỏi đó có phải là những đồ dùng lưu truyền từ nhiều đời. Nhà vua cho biết ông vừa cho làm gần đây thôi. Vì trước đây không lâu, mọi người còn ăn bằng tay.
Tôi nhớ rất rõ mọi chi tiết trong bữa ăn đó. Có tất cả mười bốn món. Trước hết là món sườn, rồi cá, gà, ngỗng, rồi bao nhiêu thứ nữa mà tôi không thế biết là gì. Món nào cũng rất ngon miệng, và đằng sau mỗi ghế ngồi có một kẻ phục vụ chỉ riêng cho một người. Tôi hỏi nhà vua làm thế nào có tất cả những món ngon vật lạ ở một nơi xa xôi heo lánh này. Oâng bảo là từ những người dân Hunza. Thay vì trả thuế, họ mang đến cho ông những gì họ có trong vườn hay trong nông trại của họ. Ngoài ra nhà vua còn lãnh tiền lương từ chính phủ Pakistan. Đổi lại, nhiệm vụ của ông là phải trữ đủ lúa mì, ngũ cốc cho mùa trồng trọt sang năm hay trong trường hợp có thiên tai.
Nhà vua của Hunza là kẻ truyền thừa của Aga Khan, một nhà lãnh đạo tôn giáo của đạo Muslim. Nhà vua là đại diện của Aga Khan về mọi lãnh vực tôn giáo.
Nhưng lý do thực sự thúc đẩy chúng tôi đặt chân đến Hunza là để tìm hiểu về sự trường thọ của người dân ở đây. Chúng tôi muốn biết họ sống như thế nào mà có thể thọ đến như thế mà vẫn còn đầy đủ sức khỏe. Nhất là về vấn đề dinh dưỡng của họ. Đó là đề tài chúng tôi nghiên cứu từ khi còn sống ở trang trại bên Mễ.
Thì ra có hai việc liên quan đến sự trường thọ và sức khỏe của người dân ở đây. Thứ nhất là vì họ sống ở độ cao khoảng ba ngàn năm trăm thước, không khí rất lỗng, nên bất cứ lúc nào họ cũng phải thở thật sâu, nhất là khi họ phải đi bộ trên những con đường dốc đá. Toàn lãnh thổ Hunza chỉ dành cho người đi bộ, trừ mỗi tuần có một chiếc xe Jeep chở hàng lên. Lý do thứ hai là ở đây có trồng loại trái mận (apricot) rất ngon và rất trù phú. Người dân phơi khô các trái này, và để ăn dần suốt năm. Hột của trái lại được họ ép làm dầu nấu ăn, thoa tóc hay trét lên bánh mì như một loại bơ.
Ngoài điều đó ra, dinh dưỡng của họ cũng khá tồi. Họ không có điều kiện để ăn thịt. Họ chỉ ăn lúa mạch, gạo và một ít rau cải. Nếu không có trái apricot, chắc chắn là họ sẽ thiếu vitamin, và chất khoáng trong thành phần dinh dưỡng của họ. Có lẽ khó khăn nhất ở Hunza là vấn đề nước uống. Tôi sẽ kể một kinh nghiệm của chúng tôi về vấn đề nước.
Hằng tháng, nhà vua sẽ ra ngồi ở một tiền sản, bốn phía đều để trống, phía trên có mái vòm tuyệt đẹp, nằm trên những cây cột được chạm khắc công phu. Tại nơi đó ông sẽ định luật. Ai có gì cần khiếu nại, đề đạt sẽ đến đó, và nhà vua sẽ giải quyết tất cả mọi tranh chấp. Những lời phán đoáncủa nhà vua là luật, và phải được tuân hành một cách tuyệt đối, không được thắc mắc. Có lần chúng tôi có mặt ở một phiên tòa như thế. Cách thức có lẽ giống như hàng trăm năm về trước.
Nhà vua bảo với chúng tôi là phần lớn tranh chấp nằm trong việc khơi nguồn nước ở những vùng đất nhỏ xíu nằm trên các dốc núi. Nưóc đá tuyết được dẫn vào các con kênh nhỏ, và mỗi người nông dân luân phiên nhau cho nước chảy vào ruộng vườn của mình. Vì thế lúc nào cũng có người khiếu nại rằng người khác đã để nước chảy vào ruộng của họ lâu hơn thời gian cho phép.
Chúng tôi đã có thói quen dùng bữa ở chỗ nhà vua, vì Gerd phải chăm sóc chiếc tủ lạnh và vì Jeff muốn chơi với hai đứa con gái nhỏ của nhà vua. Một ngày kia Jeff bị bịnh. Lần này khá nghiêm trọng. Rõ ràng là cậu bé không chịu được nguồn nước lấy từ trên núi, rất nhiều chất khoáng, nhưng khi xuống đến được các ống, nước đã trở nên đục lờ. Dân ở đây gọi đó là ‘sữa đá lạnh’.
Jeff sốt rất cao, không thể ăn uống gì. Tình thế rất nghiêm trọng. Chúng tôi phải đem cậu bé xuống núi đi bác sĩ càng sớm càng tốt. Ở trên đây, không có bác sĩ nào. Khi chúng tôi chào từ giã nhà vua, và gia đình ông, nhà vua trao cho chúng tôi chiếc đồng hồ Rolex bằng vàng. Oâng nói, mỗi ngày, nó chạy chậm đi nữa phút, và nhờ chúng tôi gửi đến công ty ở Thụy Sĩ để sửa, rồi gửi cho Ngài Aga Khan ở Gstaad. Ngài Aga Khan sẽ đưa lại cho nhà vua khi thuận tiện.
Chúng tôi không thể từ chối, đành phải mang theo món đồ đắt tiền đó, và giấu nó trong thùng đồ nghề. Không có cách gì khác hơn.
Sau đó chúng tôi gửi chiếc Rolex đến Thụy Sĩ cùng với một lá thư bảo đảm. Vậy mà nó cũng tới nơi. Rồi trở về với nhà vua, bằng cách nào tôi cũng chẳng biết. Tôi cũng chẳng biết nhà vua có còn sống không. Nếu ông cũng thọ như những người Hunza khác, thì có lẽ ông vẫn còn sống.
Nhà vua đã cho tài xế, cùng chiếc xe Jeep của ông đưa chúng tôi trở về Gilgit, như một món quà tiễn bạn. Dĩ nhiên là tài xế của nhà vua lái rất giỏi, và cũng không có đèo thêm người Hunza, hay bao tải nào. Oâng cũng không uống giọt Hunzapani nào, nên con đường không thành vấn đề với ông. Thành ra con đường về dễ chịu hơn đoạn đường lên đến Baltit nhiều. Chỉ có điều là tôi quá lo âu cho tình trạng của Jeff. Cậu bé nằm im lìm suốt chặng đường đi.
Xuống đến Gilgit, chúng tôi bay qua Lahore. Chúng tôi đã gửi điện tín cho người kỹ sư điện cùng làm với Gerd trong công trình Indus. Chúng tôi nhờ ông kiếm ngay dùm một căn hộ, và một vị bác sĩ. Nhờ thế, khi chúng tôi đến nơi, cả hai việc chúng tôi nhờ đều đã được lo chu toàn. Bác sĩ chẩn đoán là Jeff bị nhiễm trùng gan. Vài ngày sau, Gerd lại lên cơn sốt rét. Hình như chỉ khi nào đến Pakistan là bịnh anh lại tái phát, chứ không ở một nơi nào khác.
Tôi phải để hai người nằm hai phòng riêng để khỏi lây nhau, và lo chăm sóc họ. Sau gần hai tuần, hai người mới khỏe lại.
Còn tôi, hình như chẳng bao giờ bịnh trong suốt cả chuyến đi. Không có thì giờ để bịnh. Tôi quá bận rộn lo lắng sao cho cả ba người luôn được an toàn.
Chiếc van Rover đang chờ đợi chúng tôi ở Lahore. Đây là một thành phố nằm ở biên giới giữa Pakistan và Ấn Độ. Chúng tôi phải vượt qua biên giới đó.
Điều chúng tôi nhìn thấy trước tiên ở Ấn Độ là ngôi đền bằng vàng vĩ đại của người Sikh ở Amritsar. Ngôi đền nằm giữa hồ, tạo thành một cảnh tượng tuyệt vời, khiến người ta quên rằng đang có nhiều biến động trong khu vực này. Chúng tôi viếng thăm ngôi đền, lắng nghe những lời cầu kinh. Tín đồ người Sikh thuộc Ấn Độ giáo, nói chung là hiền lành. Vì thế việc có hai người Sikh giết con gái của Ngài Nehru là điều tôi không thể hiểu được.
Chúng tôi lái xe đến New Delhi, rồi Jaipur và Ahmedabad, nơi có rất nhiều hang với các bức họa về Phật giáo, có lẽ đã hàng ngàn năm rồi. Sau đó chúng tôi đến Bombay, và nơi chúng tôi dùng chân trước tiên là khách sạn Hilton để được hưởng chút gió mát. Là người ngoại quốc, người ta có thể vào bất cứ khách sạn nào, ngồi trong các tiền sản máy lạnh, thư giãn trong không khí mát mẻ.
Ở Bangalore, chúng tôi được một quan tòa mời đến thăm nhà. Tôi tỏ ý muốn được đi tắm. Oâng dẫn tôi đến nhà tắm, nơi có một thùng nước nóng khổng lồ. Tôi bước vào, và xém bị phỏng. Thì ra tôi đã làm không đúng cách. Trước tiên là phải thoa xà-phòng vào mình, rồi dùng một cái gáo to, múc nước từ thùng mà xối vô mình. Giống như tắm vòi sen vậy.
Từ miền Nam Ấn Độ, chúng tôi qua Tiruvannamalai ở gần Madras. Đây là một nơi rất nổi tiếng, vì có một trong những vị thánh giác ngộ nhất đã sống, một rishi tên là Ramana Maharshi. Oâng mất vào năm 1950, nên chúng tôi không được gặp ông, nhưng chúng tôi đã đến đền thờ ông, và được biết về ông, về những giáo lý của ông qua một người Anh, tên là Arthur Osborne, người đã sống với ông gần hai mươi lăm năm. Ngôi đền là nơi những ai muốn được học hỏi về giáo lý của bất cứ vị thầy nào, đến sống, ăn ở, học chung với nhau.
Ngài Ramana Maharshi đã luôn nhấn mạnh là điều kiện để đạt được giác ngộ là từ bỏ ảo tưởngvề cái ngã. Người ta cần phải tự soi lại mình bằng câu hỏi: “Tôi là ai?” Những điều này để lại ấn tượng khá mạnh cho Gerd. Đến ngày nay, hằng năm, anh vẫn trở về ngôi đền này. Đối với tôi, thì khác. Ở thời điểm đó, tôi không ở vị trí để tự hỏi Tôi là ai. Tôi không biết phải làm sao để có thể thực hiện được điều đó. Và ngài Ramana Maharshi đã không có lời dạy cho việc đó.
Chúng tôi sống ở trong đền, và ăn uống luôn tại đó. Người ta dùng các tàu lá chuối to làm dĩa, và ăn bằng tay. Jeff rất thích cung cách đó. Tôi tự nhủ thầm, ngài Ramana Maharshi chắc chắn phải là một nhà thông thái, một người rất vĩ đại, vì mọi thứ ở đây đều rất tuyệt vời. Nhưng tôi không biết làm sao để áp dụng những trí tuệ của ông cho bản thân tôi. Tôi mong ước có những lời giáo huấn cụ thể, một chương trình hành động rõ ràng. Rồi bỗng nhiên, tôi có cảm tưởng là tôi đang tiến rất gần đến mục tiêu của những điều mình ao ước, bắt đầu con đường đạo của tôi.