Năm Giai Đoạn Thanh Tịnh Tuệ Giác – (5a) Tri Kiến Thanh Tịnh

Năm Giai Doạn Thanh Tịnh Tuệ Giác 5a Tri Kiến Thanh Tịnh

Tri Kiến Thanh Tịnh (Nanadassana-visudhi-niddesa)

 

Bài 5/5 – Phần 1/2

[lwptoc]

I. Chuyển Tánh Bốn Ðạo Quả

1. Kế tiếp Thuận thứ là Trí chuyển tánh:

Ðịa vị của nó là chú ý đến đạo lộ bởi thế nó không thuộc và Ðạo tri kiến thanh tịnh, cũng không thuộc và tri kiến thanh tịnh. Vì là trung gian, nó không thể được chỉ rõ, nhưng nó cũng được kể là tuệ quán vì nó ngang hàng với tuệ.

2. Tri kiến thanh tịnh gồm 4 đạo trí là Dự lưu đạo, Nhất lai đạo, Bất hoàn đạo, và A-la-hán đạo. Trí Chuyển Tánh Là Trí Thuộc Dự Lưu Ðạo

3. Ở đây, không gì cần phải làm thêm bởi một vị muốn đắc đạo trí thứ nhất. Vì những gì vị ấy cần làm đã được làm bằng cách khơi dậy tuệ quán, kết thúc bằng trí thuận thứ.

4. Vừa khi trí thuận thứ sanh theo cách ấy nơi hành giả, khi mây mù che lấp chân lý đã được xua tan bằng năng lực tương ứng với mỗi một trong ba loại thuận thứ trí (Ch. XXI, 129), thì khi ấy, tâm hành giả không còn đi vào, trú hay dừng lại trên bất cứ một lĩnh vực hành nào nữa, mà trái lại, rút lui, lùi lại, dội ngược lại, như nước rút lại trên một ngọn lá sen, và mọi tướng kể như đối tượng, mọi sanh kể như đối tượng, đều là một chướng ngại đối với vị ấy.

5. Khi mọi tướng và sanh đã thành chướng ngại với vị ấy, khi sự tập hành của thuận thứ trí đã chấm dứt, thì trí chuyển tánh sanh khởi nơi vị ấy, lấy làm đối tượng cái vô tướng, vô sanh, vô hành, diệt, Niết bàn, – trí này ra khỏi dòng họ, phạm trù, bình diện, của phàm phu mà đi vào dòng họ, phạm trù, bình diện của bậc thánh.

Trí này, vì là tác ý đầu tiên, sự quan tâm đầu tiên, phản ứng đầu tiên đối với Niết bàn kể như đối tượng, nên nó làm một duyên cho đạo lộ theo sáu cách, là ① vô gián duyên, ② đẳng vô gián duyên, ③ tập hành duyên, ④ thân y duyên, ⑤ vô hữu duyên, và ⑥ ly khứ duyên.

Trí ấy là đỉnh cao tột của tuệ quán không còn thối chuyển, về trí ấy đã được nói như sau:

“Thế nào tuệ xuất khởi và quay đi khỏi ngoại giới gọi là trí chuyển tánh?

– Nó vuợt khỏi sanh… khởi,… tướng… tích lũy,… kiết sanh,… thú (cõi)… sanh hoạt (loài),… tái sanh,… sanh già bệnh chết,… sầu bi khổ ưu não, nên nó là chuyển tánh.

  • Nó vượt khỏi tướng các hành ngoại giới, nên gọi là chuyển tánh.
  • Nó đi vào vô sanh, nên gọi là chuyển tánh…
  • Nó đi vào vô não, nên gọi là chuyển tánh.

Sau khi vượt sanh nó đi vào vô sanh,… nên gọi là chuyển tánh”. (Ps. i,66)

6. Ví dụ sau đây chứng minh thuận thứ và chuyển tánh sanh khởi như thế nào với những đối tượng khác nhau, mặc dù khởi lên trong một tâm lộ trình duy nhất, với một tác ý duy nhất.

Ví như người muốn nhảy qua một dòng suối rộng để đứng bên bờ kia sẽ chạy thật nhanh, và nắm một sợi dây thừng buộc vào cành cây gần bờ này, mà đu người qua bờ kia, và khi đã tới bờ kia, sẽ thả sợi dây và rơi mình xuống, lúc đầu đi loạng choạng rồi sau mới đứng vững.

Thiền giả này cũng thế, muốn an trú trong Niết bàn, bờ đối lại với các loại hữu, sanh, thú, trú và hữu tình cư, chạy nhanh nhờ quán sanh diệt, v.v.. và bằng trí thuận thứ tác ý vô thường, khổ vô ngã, nắm lấy sợi dây sắt,(hoặc thọ, tưởng..) buộc vào cành bản ngã mà đu mình.

Vị ấy nhảy với tâm thuận thứ đầu tiên không buông thả (các hành), với tâm thứ hai vị ấy hướng đến, thiên về Niết bàn, như thân thể hướng về phiá bờ đối diện. Rồi với tâm thứ ba gần kề Niết bàn, ví như người kia đã đu đến bờ đối diện, hành giả buông xả hành đã làm đối tượng khi tâm ấy chấm dứt.

Với tâm thuận thứ vị ấy rơi trên Niết bàn vô vi, bờ đối diện, nhưng còn loạng choạng, vì thiếu tập hành trước kia, nên chưa được vững vàng trên một đối tượng duy nhất ấy. Sau đó vị ấy đứng vững nhờ đạo trí.

7. Ở đây, thuận thứ có thể xua tan mù phiền não, che lấp sự thật, nhưng không thể làm cho Niết bàn thành đối tượng của nó. Chuyển tánh thì chỉ có thể làm Niết bàn thành đối tượng của nó, mà lại không thể xua đám mù phiền não che lấp chân lý.

8. Ví dụ một người có mắt ban đêm đi ra ngoài ngước nhìn trăng để tìm các chòm sao. Trăng không thấy được vì bị mây che phủ. Rồi một ngọn gió nổi lên thổi tan đám mây dày, một ngọn khác thổi tan đám mây trung bình, một ngọn khác nữa làm tan cả những sợi mây mong manh hơn. Khi ấy người kia thấy được trăng ở trên bầu trời không mây, và tìm ra liên hệ các vì tinh tú.

9. Trong ví dụ trên, ba loại đen tối dày, trung bình và mỏng che lấp sự thực là như ba loại mây. Ba loại tâm thuận thứ giống như ba ngọn gió. Trí chuyển tánh như người có mắt. Niết bàn như trăng.

Sự xua tan bóng tối che lấp chân lý bằng từng loại tâm thuận thứ, và ví như mây được tuần tự thổi tan bởi mỗi luồng gió. Sự thấy được Niết bàn trong sáng của trí chuyển tánh ví như người kia thấy được trăng trên trời khi hết mây che.

10. Cũng như ba ngọn gió chỉ có thể thổi tan mây che trăng, mà không thể thấy mặt trăng, cũng vậy, ba loại trí thuận thứ chỉ có thể dẹp tan bóng tối che lấp chân lý nhưng không thể thấy Niết bàn.

Cũng như người kia, chỉ có thể thấy mặt trăng mà không thể thổi tan những đám mây, trí chuyển tánh cũng thế, chỉ có thể thấy Niết bàn mà không thể dẹp tan phiền não. Do đó, được gọi là trí “tác ý đến đạo lộ” (đạo hướng trí)

11. Vì mặc dù nó không tác ý, nhưng nó chiếm địa vị của sự tác ý, và sau khi báo hiệu đạo lộ xuất hiện, nó chấm dứt. Và không ngừng lại sau dấu hiệu (tướng) được cho bởi trí chuyển tánh, đạo lộ tiếp theo nó trong một tương tục không gián đoạn, và khi xuất hiện, nó chọc thủng khối tham, khối sân, khối si chưa từng bị chọc thủng trước đây.

12. Ví dụ một ngưới bắn cung có một cái bia dựng cách một khoảng dài tám usabhas (khoảng 100 thước), che kín mặt với một tấm vải và trang bị một mủi tên, anh ta đứng trên một giá đứng có gắn bánh xe quay. Một người khác quay bánh xe, và khi mục tiêu (bia) đối diện với xạ thủ, người này ra dấu cho anh ta bằng một cây gậy. Không dừng lại sau dấu hiệu đó, xạ thủ bắn mủi tên ra và trúng được đích.

13. Ở đây, trí chuyển tánh ví như dấu hiệu bằng gậy.

Ðạo trí giống như người bắn tên. Ðạo trí lấy Niết bàn làm đối tượng nhưng không ngừng lại sau tướng được chuyển tánh đem lại, và nó đâm thủng khối tham, sân, si chưa từng thủng trước đây, là ví như người xạ thủ bắn trúng đích không dừng lại sau dấu hiệu (tướng).

14. Và không những nó chỉ gây nên sự chọc thủng khối tham, v.v. mà nó còn làm khô cạn cái biển khổ của vòng vô thủy sanh tử luân hồi.

  • Nó đóng hết các cửa đi đến đọa xứ.
  • Nó đem lại thực chứng về bảy thánh tài.
  • Nó đoạn trừ tám tà đạo.
  • Nó đoạn giảm mọi thù nghịch và bố úy. (S. ii, 68)
  • Nó đem đến địa vị người con đích tử của đấng giác ngộ. (S. ii, 221)
  • Và nó đưa đến sự chứng đắc hàng trăm phúc lạc khác nữa.

Bởi thế, chính cái trí tương ứng với Dự lưu đạo này được gọi là Trí thuộc dự lưu đạo. Loại trí đầu tiên đã bàn xong.

Quả Thứ Nhất: Bậc Hiền Thứ Hai

15. Kế tiếp ngay sau trí ấy, lại khởi lên hai hoặc ba quả tâm, tức hậu quả của nó.

Chính vì sự kiện những thiện tâm siêu thế có hậu quả tức thì này, mà kinh nói: “Ðịnh với hậu quả tức thì” (Sn. 226) và “Chậm chạp, vị ấy đạt đến cái có quả báo tức thì, để đoạn tận lậu hoặc” (A. ii, 49) v.v..

16. Nhưng có vài vị cho rằng có một, hai, ba, bốn hoặc năm quả tâm. Ðiều này không thể chấp nhận. Vì trí chuyển tánh khởi lên ở cuối lặp lại của thuận thứ, nên ít nhất phải có hai tâm thuận thứ, vì chỉ có một thì không làm tập hành duyên được. Và một lộ trình tốc hành duy nhất có tối đa là bảy tốc hành tâm.

Do vậy, lộ trình nào có hai thuận thứ và chuyển tánh làm tâm thứ ba và đạo tâm thứ tư, thì có ba quả tâm. Lộ trình tâm nào có ba thuận thứ, chuyển tánh là thứ tư, và đạo tâm thứ năm, thì có hai quả tâm. Bởi thế mà ở trên đã nói: Có 2 hoặc 3 quả tâm khởi lên.

17. Rồi một vài vị lại bảo, lộ trình có bốn thuận thứ, chuyển tánh là thứ năm, đạo tâm thứ sáu thì có một quả tâm. Nhưng điều ấy bị bác bỏ vì tốc hành tâm thứ tư hay năm mới đạt đạo, không phải những tâm sau đó, bởi vì những tâm ấy gần với hữu phần (xem Ch. IV, 75). Vậy không thể chấp nhận điều ấy.

18. Và ở điểm này, bậc dự lưu ấy được gọi là bậc thánh thứ hai. Dù có lơ là cách mấy, vị này nhất định cũng chấm dứt khổ khi du hành cái vòng sinh tử ở trong cõi trời và cõi người đến lần thứ bảy.

19. Ở cuối quả tâm, tâm vị ấy đi vào hữu phần. Sau đó khởi lên ý môn hướng tâm, gián đoạn dòng Hữu phần để quán sát lại đạo lộ. Khi tâm này đã chấm dứt, bảy tốc hành tâm để quán sát đạo lộ khởi lên. Sau khi nhập vào Hữu phần trở lại, ý môn hướng tâm, v.v. lại khởi lên để quán sát quả, v..v..

Với sự khởi lên những tâm này, hành giả quán sát lại đạo lộ, quán sát quả, quán sát những cấu uế đã được từ bỏ, quán sát những cấu uế còn lại, và quán sát Niết bàn.

20. Hành giả quán sát lại đạo lộ như sau: “Vậy, đây là đạo lộ ta đã gặp”. Kế tiếp, vị ấy quán sát quả như sau: “Ðây là sự an lạc ta đã được”. Rồi vị ấy quán sát những cấu uế đã được từ bỏ, “Ðây là những cấu uế đã được từ bỏ nơi ta”.

Rồi vị ấy quán sát những cấu uế còn lại cần phải được loại trừ ở ba đạo lộ cao hơn: “Ðây là các cấu uế còn lại trong ta”.

Và cuối cùng, vị ấy quán sát Niết bàn bất tử như sau: “Ðây là Pháp đã được ta thâm nhập làm mục tiêu”. Như vậy, bậc thánh đệ tử là bậc dự lưu, có năm thứ quán sát.

21. Và cũng như trong trường hợp bậc dự lưu, trường hợp các bậc Nhất lai, Bất hoàn cũng vậy.

Nhưng bậc A-la-hán thì không có việc quán sát những cấu uế còn dư tàn. Vậy tất cả loại quán sát tổng cộng có mười chín, đây là con số tối đa.

Các bậc hữu học có thể có việc quán sát những cấu uế đã từ bỏ và những cấu uế còn lại, mà cũng có thể không có việc ấy. Quả thế, chính vì thiếu sự quán sát như vậy, mà Mahànàma đã hỏi Ðức Thế Tôn: “Pháp nào chưa được từ bỏ trong con, khiến cho vì vậy mà thỉnh thoảng tham xâm chiếm tâm và an trú?” (M. i,91)

Ðạo Trí Thứ Hai – Bậc Thánh Thứ Ba

22. Tuy nhiên, sau khi quán sát như vậy, hoặc trong cùng một thời tĩnh tọa hoặc vào một dịp khác, vị đệ tử là bậc Dự lưu khởi công đạt đến đạo lộ thứ hai nhờ làm cho muội lược (giảm bớt) dục tham và sân nhuế.

Vị ấy dẫn phát (samodhàneti) các căn, lực và giác chi và nghiền ngẫm chính các hành thuộc sắc, thọ, tưởng, hành, thức với trí biết chúng là vô thường, khổ, vô ngã, và vị ấy bước lên lộ trình tuệ quán tuần tự.

23. Khi đã làm như vậy, và khi vào cuối giai đoạn “hành xả”, trí thuận thứ và chuyển tánh đã phát sinh trong một tác ý duy nhất theo cách đã nói, khi ấy đạo lộ Nhất lai khởi lên kế tiếp chuyển tánh. Cái trí tương ưng với đạo lộ ấy gọi là Nhất lai đạo trí.

Quả Thứ Hai – Bậc Thánh Thứ Tư

24. Các quả tâm theo liền trí này theo cách đã nói. Và ở điểm này, bậc Nhất lai này được gọi là Bậc thánh thứ tư. Vị ấy đương nhiên chấm dứt khổ sau khi trở lại thế gian này một lần nữa.

Ðạo Trí Thứ Ba – Bậc Thánh Thứ Năm

25. Bây giờ, sau khi quán sát như vậy, hoặc trong cùng một thời tĩnh tọa, hoặc vào một dịp khác, bậc Thánh đệ tử này, một vị Nhất lai, khởi công đạt đến bình diện thứ ba bằng cách từ bỏ không dư tàn, cả tham lẫn sân.

Vị ấy dẫn phát các căn lực, và các giác chi, và vị ấy tu tập trên chính lĩnh vực các hành là sắc, thọ, tưởng, hành, thức với trí biết chúng là vô thường, khổ, vô ngã, và bước lên lộ trình tuần tự của tuệ.

26. Khi đã làm như vậy, và khi, vào cuối giai đoạn hành xả, trí thuận thứ và chuyển tánh đã khởi lên, trong một tác ý duy nhất, theo cách đã nói, khi ấy Ðạo lộ bất hoàn phát sinh kế tiếp chuyển tánh. Cái trí tương ứng với đạo ấy gọi là Bất hoàn đạo trí.

Quả Thứ Ba – Bậc Thánh Thứ Sáu

27. Các quả tâm theo liền sau trí này theo cách đã nói. Ở điểm này, bậc Bất hoàn này được gọi là bậc thánh thứ sáu.

OSau khi mạng chung, vị ấy hóa sanh ở nơi khác và tại đấy nhập Niết bàn, không bao giờ còn trở lui cuộc đời này nữa, qua kiết sanh. Kế tiếp là quán sát như cách đã nói.

Ðạo Trí Thứ Tư: Bậc Thánh Thứ Bảy

28. Bấy giờ, sau khi quán sát như trên hoặc trong cùng một thời tọa thiền, hoặc vào một dịp khác, bậc Thánh đệ tử này, một vị Bất hoàn, khởi sự tu tập để đạt đến bình diện thứ tư bằng cách từ bỏ không dư tàn sắc giới tham và vô sắc giới tham, mạn, trạo cử và vô minh.

Vị ấy dẫn phát các căn, lực và giác chi, và tu tập nhiều lần các hành ấy với trí biết chúng là vô thường, khổ, vô ngã, và vị ấy bước lên lộ trình tuần tự của quán tuệ.

29. Khi đã làm như vậy, và khi vào giai đoạn cuối của hành xả, thuận thứ và chuyển tánh đã khởi lên trong một tác ý duy nhất, khi ấy A-la-hán đạo khởi sanh kế tiếp chuyển tánh. Trí tương ứng với đạo lộ này là A-la-hán đạo trí.

Quả Thứ Tư: Bậc Thánh Thứ Tám

30. Các quả tâm theo liền sau trí này theo cách nói trên. Ở điểm này, vị A-la-hán này được gọi là Bậc thánh thứ tám.

Vị ấy là một trong những bậc thánh vĩ đại đã tận diệt lậu hoặc, thân của vị ấy là thân sau rốt, vị ấy đã đặt gánh nặng xuống, việc làm đã xong, đã phá hữu kiết sử, vị ấy chân chánh giải thoát với thứ trí sau rốt và xứng đáng sự cúng dường tối thượng của thế gian và chư thiên.

31. Bởi vậy, khi trên đây nói rằng: “Tuy nhiên, tri kiến thanh tịnh đích thực được gồm trong bốn đạo tri tức là Dự lưu đạo, Nhất lai đạo, Bất hoàn đạo và A-la-hán đạo” (đoạn 2) câu ấy ám chỉ bốn thứ trí cần phải đạt đến trong thứ tự này.

II. Các Pháp Tương Ưng Với Ðạo Lộ v.v…

32. Bây giờ, để thẩm định giá trị của Tri kiến thanh tịnh này với bốn loại trí của nó, có những vấn đề:

(1) Sự hoàn tất (viên mãn) các bồ đề phần pháp
(2) Sự xuất khởi (ngoi lên)
(3) Sự sóng đôi các lực
(4) Các hành cần từ bỏ
(5) Hành vi từ bỏ chúng
(6) Các nhiệm vụ liễu tri, v.v… khi bốn chân lý đã được thâm nhập,
(7) Mỗi thứ cần được nhận chân tùy theo tự tánh của nó.

33.

(1) Ở đây, sự viên mãn các bồ đề phần pháp: là 37 pháp sau đây –

4 niệm xứ (Trung 10),
4 chánh cần (M. ii, 11),
4 thần túc (M. i,103),
5 căn (M. ii,12), năm lực (M. ii,12),
7 giác chi (M. ii, 11), và
8 Thánh chi đạo (D. ii, 311).

Những pháp này được gọi là “dự phần vào giác ngộ” vì chúng đóng vai trò của Thánh đạo tám ngành, được gọi là “Giác ngộ” trong nghĩa soi sáng, và những pháp ấy trợ giúp cho chánh đạo nên gọi là “dự phần”

34. “Bốn niệm xứ” (hay bốn niệm trú): “trú” (patthàna) là an trú, bằng cách đáp xuống trên những đối tượng này khác. Sự an trú ấy chính là niệm, nên gọi là niệm trú hay niệm xứ.

Nó gồm bốn loại, vì nó xảy ra liên hệ đến ① thân thể, ② cảm thọ, ③ tâm và ④ pháp, xem chúng là ① bất tịnh, ② khổ, ③ vô thường, ④ vô ngã, và nó cũng thuộc bốn loại vì nó hoàn tất nhiệm vụ từ bỏ tưởng về ① thường, ② lạc, ③ ngã, ④ tịnh.

35. Nhờ nó mà con người nỗ lực một cách chánh đáng, nên gọi là chánh cần. Hoặc nó tốt vì bỏ được những xấu xa của phiền não, nó là nỗ lực (cần) đem lại sự cải thiện, với ý nghĩa phát sinh an lạc. Ðó là tên chỉ nghị lực.

Nó hoàn tất bốn nhiệm vụ ① trừ khử những bất thiện pháp đã sanh, ② ngăn ngừa sự sanh khởi những bất thiện chưa sanh, ③ nó làm sanh khởi những thiện pháp chưa sanh, và ④ duy trì những thiện pháp đã sanh, nó gồm có bốn, nên gọi là bốn chánh cần.

36. Lực (Iddhi) là nói theo nghĩa thành công (tjjhana) như đã nói ở Chương XII, đoạn 44. Ðó là con đường, (pàda) đi đến năng lực thành công, nó là tiền đạo cho sự thành công, cái nhân đi trước thành công, nên gọi là con đường đưa đến năng lực thành công, căn bản của thành công.

Nó gồm bốn là ① dục, ② tinh tấn, ③ nhất tâm, ④ trạch pháp.

Do đó, mà “bốn như ý túc” hay “bốn thần túc” được nói, như đoạn: “Bốn như ý túc: ① dục như ý túc, ② tinh tấn như ý túc, ③ nhất tâm như ý túc, ④ trạch pháp như ý túc” (Vbh. 223) là những pháp thuộc siêu thế mà thôi.

Nhưng khi nói: “Nếu một tỷ kheo có được định, có được nhất tâm nhờ dục tăng thạnh, thì đó là định nhờ dục” (Vbh. 216) v.v. thì đó cũng là những pháp thuộc thế gian có được nhờ dục tăng thạnh v..v..

37. “Căn” là nói theo nghĩa tăng thạnh, thắng lướt, bởi vì những pháp này, với tư cách là những căn thì thắng lướt được các pháp bất tín, giải đải, thất niệm, tán loạn và bất chánh tri (hoang mang).

“Lực” là nói theo nghĩa không “nao núng”, bởi vì những pháp này, với tư cách là năng lực, sẽ không còn biết áp đảo bởi các pháp bất tín, v..v.. Căn và lực mỗi thứ gồm năm là ① tín, ② tấn, ③ niệm, ④ định và ⑤ tuệ.

38. ① Niệm, ② trạch pháp, ③ tinh tấn, ④ hỷ ⑤ khinh an, ⑥ định và ⑦ xả với tư cách là những yếu tố (chi phần) nơi một vị đang tiến đến giác ngộ, gọi là “Bảy giác chi”.

Và ① Chánh kiến, ② chánh tư duy, ③ chánh ngữ, ④ chánh nghiệp, ⑤ chánh mạng, ⑥ chánh tinh tiến, ⑦ chánh niệm và ⑧ chánh định, là tám “Ðạo chi” trong ý nghĩa một lối thoát, ngõ ra. Do vậy mà bảy giác chi và “Tám đạo chi” được nói đến.

39. Vậy, có tất cả ba mươi bảy pháp dự phần vào Giác ngộ. Trong giai đoạn đầu, khi tuệ thuộc thế gian đang sanh khởi, những pháp này được tìm thấy trong nhiều tâm như sau:

Thân niệm xứ được tìm thấy nơi một người quán thân (hơi thở) theo mười sáu cách. Pháp niệm xứ được tìm thấy nơi một người quán pháp theo năm cách.

Và khi ấy một pháp bất thiện nơi một người khác, chưa khởi lên nơi chính mình, vị ấy nỗ lực để đừng cho nó sanh, như sau: “Ta sẽ không làm như vị ấy, pháp bất thiện này đã sanh khởi nơi vị ấy sẽ không sanh nơi ta”. Khi ấy, hành giả có được chánh cần thứ nhất.

Khi thấy một pháp bất thiện trong hành động của chính mình, vị ấy nỗ lực từ bỏ nó, như vậy là chánh cần thứ hai.

Khi nỗ lực phát sanh thiền và quán (tuệ) lâu nay chưa sanh là vị ấy có chánh cần thứ ba, và khi vị ấy làm sanh khởi nhiều lần những thiện pháp đã sanh để cho nó khỏi thối giảm, thì vị ấy có chánh cần thứ tư.

Vào lúc phát sanh một thiện pháp nhờ dục kể như động lực hướng dẫn, thì đó là dục như ý túc, tương tự với ba pháp như ý túc còn lại. Vào lúc không nói tà ngữ, là có chánh ngữ, không có tà mạng là chánh mạng vân vân.. Vào lúc sanh khởi bất cứ trí nào trong bốn đạo trí thì tất cả những pháp này được tìm thấy trong một tâm duy nhất. Vào sát-na chứng quả, có 33 pháp, trừ 4 chánh cần.

40. Khi những pháp này được tìm thấy trong một tâm duy nhất theo cách ấy, thì chỉ có một loại niệm xứ với đối tượng là Niết bàn, mới được gọi là “bốn niệm xứ” vì nó hoàn tất nhiệm vụ từ bỏ bốn tướng là ① thường, ② lạc, ③ ngã, ④ tịnh trong ① thân, ② thọ, ③ tâm và ④ pháp.

Cũng vậy, chỉ một loại tinh tấn được gọi là “tứ chánh cần” vì nó hoàn tất 4 việc là ngăn ngừa sự sanh khởi các bất thiện pháp chưa sanh, v.v..

Với những pháp còn lại thì không có tăng hay giảm.

41. Lại nữa, về những pháp này được nói như sau:

  • Chín theo một cách,
  • một theo hai cách
  • Rồi theo bốn cách và
  • theo năm cách
  • Theo tám cách và lại
  • theo chín cách nữa

Như vậy là có sáu đường phân chia.

42. (i) Chín theo một cách: chín pháp là dục, định, hỷ, khinh an, xả, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng, chúng được tìm thấy theo một cách là “thần túc” (hay đường đến thành công) vì chúng không thuộc vào một nhóm nào khác.

(ii) Một theo hai cách: tín được tìm thấy theo hai cách, kể như căn và lực.

(iii) Rồi theo bốn cách: Ở đây, định là “một theo bốn cách” vì nó là căn, lực, giác chi, và đạo chi.

(iv) Tuệ là “một theo năm cách” vì nó là bốn thứ này thêm như ý túc.

(v) Theo tám cách: Niệm là một pháp “theo tám cách vì nó là bốn niệm xứ, một căn, một lực, một giác chi, một đạo chi.

(vi) Tinh tấn là một pháp “theo chín cách” là bốn chánh cần, một như ý túc, một căn một lực, một giác chi và một đạo chi. Như vậy:

43. Các pháp bồ đề phần

Có mười bốn nếu không chia
Chúng gồm ba mươi bảy
Nếu phân theo nhiều nhóm.Mỗi pháp làm một việc
theo phận sự đặc biệt của nó,
nhưng tất cả đều xuất hiện
Khi bất thành đạo viên thành

Ðấy là sự “viên mãn các pháp bồ đề phần”.

44.

(2). Xuất khởi: tuệ thế gian không dẫn phát sự “ngoi lên” khỏi sanh của các cấu uế nội tâm, vì nó không đoán được sanh, nghĩa là hành vi sanh khởi, nó cũng không làm “ngoi lên” khỏi tướng các hành bên ngoài, vì nó có tướng làm đối tượng.

[Chú thích: “ngoi lên” khỏi tướng là từ bỏ tướng các hành và làm Niết bàn trở thành đối tượng. “Ngoi lên” khỏi sanh là không sanh quả báo trong tương lai bằng cách gây nên sự chấm dứt cái “nhân” – Pm. 874]

Trí chuyển tánh không dẫn phát sự ngoi lên khỏi sanh (bên trong) vì nó không đoạn sanh, nhưng nó có làm ngoi lên khỏi tướng bên ngoài vì nó có Niết bàn làm đối tượng, vậy có sự ngoi lên từ một pháp.

Do đó mà nói: “Tuệ ngoi lên và quay đi khỏi ngoại giới là trí chuyển tánh” (Ps. i, 66).

Cũng thế toàn thể đoạn văn “Sau khi quay đi khỏi sanh, nó đi vào vô sanh, nên gọi là chuyển tánh… (xem Ch. XXI 37)…

Sau khi quay đi khỏi tướng các hành ngoại giới, nó đi vào tịch diệt Niết bàn, nên gọi là chuyển tánh”. (Ps. i,67).

Bốn loại (đạo) trí này “ngoi lên” khỏi tướng vì chúng có vô tướng làm đối tượng, và “ngoi lên” khỏi sanh, vì chúng đoạn tận sanh. Vậy chúng “ngoi lên” khỏi cả hai. Cho nên nói:

45. Thế nào tuệ “ngoi lên” và “quay đi” khỏi cả hai gọi là đạo trí?

“Vào sát-na Dự lưu đạo, Chánh kiến theo nghĩa thấy (a) “ngoi lên” khỏi tà kiến, “ngoi lên” khỏi cấu uế và các uẩn do tà kiến sanh, (b) bên ngoài nó “ngoi lên” khỏi tất cả tướng, do đó nói: Tuệ “ngoi lên” và “quay đi” khỏi cả hai là đạo trí.

  • Chánh tư duy theo nghĩa “hướng tâm về”, “ngoi lên” khỏi tà kiến…
  • Chánh ngữ theo nghĩa “bao dung”, “ngoi lên” khỏi tà ngữ…
  • chánh nghiệp theo nghĩa sanh khởi, “ngoi lên” khỏi tà nghiệp…
  • Chánh mạng theo nghĩa làm sạch, “ngoi lên” khỏi tà mạng…
  • Chánh tinh tấn theo nghĩa nỗ lực, “ngoi lên” khỏi tà tinh tấn…
  • Chánh niệm theo nghĩa an trú, “ngoi lên” khỏi tà niệm…
  • Chánh định theo nghĩa không tán loạn, “ngoi lên” khỏi tà định, khỏi các cấu uế và khởi các uẩn sanh do hậu quả của tà định, và bên ngoài thì nó “ngoi lên” khỏi các tướng, do đó nói: Tuệ ngoi lên và quay đi khỏi cả hai, là đạo trí.

Vào sát-na thuộc Nhất lai đạo, chánh kiến theo nghĩa thấy… Chánh định theo nghĩa không tán loạn (a) “ngoi lên” khỏi kiết sử thô là tham sân và tham sân tùy miên, khỏi cấu uế, và các uẩn hậu quả cấu uế, và (b) bên ngoài nó ngoi lên khỏi tất cả các tướng, do đó nói, Tuệ “ngoi lên” và quay đi khỏi cả hai là đạo trí.

“Vào sát-na Bất hoàn đạo, chánh kiến theo nghĩa thấy… Chánh định theo nghĩa không tán loạn (a) “ngoi lên” khỏi tàn dư của tham sân và tham sân tùy miên, ngoi lên khỏi cấu uế và uẩn sanh từ đó, (b) bên ngoài, nó ngoi lên khỏi tất cả tướng, nên nói Tuệ ngoi lên và quay đi khỏi cả hai, là đạo trí.

“Vào sát-na A-la-hán đạo, Chánh kiến theo ý nghĩa thấy… Chánh định theo nghĩa không tán loạn, “ngoi lên” (a) khỏi sắc ái, vô sắc ái, mạn, trạo cử, vô minh, mạn tùy miên, hữu tham tùy miên, vô minh tùy miên, ngoi lên khỏi các cấu uế và các uẩn sanh từ đó, (b) bên ngoài, nó ngoi lên khỏi tất cả tướng, do đó nói: “Tuệ ngoi lên và quay đi khỏi cả hai, gọi là đạo trí” (Ps. i,69).

46.

(3) Sự sóng đôi các năng lực: Vào thời gian tu tập 8 thiền chứng thuộc thế gian, tịnh chỉ lực tăng thịnh, trong khi ở thời gian tu tập quán vô thường, v..v.. tuệ lực tăng thịnh.

Nhưng vào sát-na thánh đạo, định tuệ song hành, không cái nào thắng lướt cái nào.

Vậy, có sự sóng đôi của các lực trong trường hợp mỗi trí trong bốn trí này như được nói: “Khi vị ấy ngoi lên khỏi những cấu uế tương ứng với trạo cử và khỏi các uẩn, thì sự nhất tâm bất loạn, định của vị ấy có diệt là sở hành (gocara) của nó.

Khi vị ấy ngoi lên khỏi các cấu uế tương ưng với vô minh và khỏi các uẩn, thì tuệ vị ấy theo nghĩa quán, có diệt làm sở hành của nó.

Bởi thế chỉ và quán có một bản chất duy nhất ở giai đoạn xuất khởi, chúng song hành không cái nào thắng lướt cái nào.

Do vậy, mà nói vị ấy tu tập chỉ và quán song hành theo nghĩa xuất khởi”. (Ps. ii, 98).

47.

(4). Các loại pháp cần được trừ đoạn: Mỗi một trí trong bốn trí tự nó và cùng nhau, đem lại sự từ bỏ các pháp gọi là kiết sử phiền não.

8 tà, các thế gian pháp, các loại tham, điên đảo, trói buộc, tà hạnh, lậu hoặc, bộc lưu, hệ phược, triền cái, tà giải, chấp thu, tùy miên, cấu uế, các bất thiện hành và tác ý bất thiện.

48. Kiết sử là mười pháp gọi là kiết sử vì chúng ① trói buộc các uẩn trong đời này với các uẩn đời kế tiếp, hoặc ② trói buộc nghiệp với quả, hoặc ③ trói buộc hữu tình vào đau khổ.

Vì bao lâu cái này còn hiện hữu thì cái kia không chấm dứt.

Trong những kiết sử này, thì ① sắc tham, ② vô sắc tham, ③ mạn, ④ trạo cử và ⑤ vô minh được gọi là năm thượng phần kiết sử, vì chúng trói buộc hữu tình vào uẩn, v.v. sanh trong các cõi cao,

còn ① thân kiến, ② nghi, ③ giới cấm thủ, ④ dục tham, và ⑤ sân, gọi là hạ phần kiết sử vì chúng trói buộc hữu tình vào các uẩn, v.v.. sanh trong các cõi thấp.

49. Phiền não là mười pháp ① tham, ② sân, ③ si, ④ mạn, ⑤ tà kiến, ⑥ nghi, ⑦ hôn trầm, ⑧ trạo cử, ⑨ vô tàm, ⑩ vô quý. Chúng được gọi như vậy vì tự chúng đã ô nhiễm mà còn làm nhiễm ô các pháp tương ưng với chúng.

50. Tám tà là ① tà kiến, ② tà tư duy, ③ tà ngũ, ④ tà nghiện, ⑤ tà mạng, ⑥ tà tinh tiến, ⑦ tà niệm và ⑧ tà định, thêm ⑨ tà trí và ⑩ tà giải thoát là mười.

[Chú thích: “Tà trí” là trí phát sinh không chơn chánh, không phù hợp với sự thật, bị lạc lầm do tà giải, v.v.. và chỉ là vọng tưởng. “Tà giải thoát” như cho rằng giải thoát là đi cho đến chỗ tận cùng của thế giới, v.v.. Xem Ch. XVI, đ. 35]

51. Các thế gian pháp là tám thứ ① được, ② thua, ③ vinh, ④ nhục, ⑤ lạc, ⑥ khổ, ⑦ khen, ⑧ chê.

Chúng được gọi là pháp thế gian vì chúng cứ theo nhau tiếp diễn khi thế giới còn tồn tại. Sự vừa ý khi vinh, khi được v.v. và sự phẫn uất khi nhục, thua v.v.. cũng được bao gồm trong thế gian pháp.

52. Các loại tham có 5, là tham đối với ① chỗ ở, ② quyến thuộc, ③ lợi lộc, ④ pháp, và. tiếng khen. Có nghĩa là không chịu nỗi sanh sẻ những thứ này với người khác.

53. Các thứ điên đảo. Gồm ba là ① tưởng điên đảo, ② tâm điên đảo và ③ kiến điên đảo. ① Vô thường cho là thường, ② khổ cho là lạc, vô ngã cho là ngã, ③ bất tịnh cho là tịnh.

54. Các trói buộc: có 4, khởi từ tham. Sở dĩ gọi trói buộc vì chúng trói cái thân tâm lý vào cái thân vật lý, còn gọi là thân hệ phược. ① Tham, ② sân, ③ giới cấm thủ và ④ tà giải, nghĩa là cho rằng “chỉ đây mới là sự thật” (Vbh. 374).

55. Tà hạnh, là sự làm cái không nên làm, và không làm cần nên làm, do tham san si và sợ. Chúng được gọi là đường xấu vì đó là những con đường mà bậc thánh không đi.

56. Lậu hoặc (àsava): về phương diện tâm pháp, nó lọt khỏi chuyển tánh, về phương diện các hữu, nó lọt khỏi hình thức hữu cao nhất, tức bốn vô sắc, vì tính chất hữu vi của nó.

Ðây là từ để chỉ ① dục tham, ② hữu tham, ③ tà kiến và ④ vô minh, vì những cấu uế này tiết lậu từ các căn môn không được phòng hộ, như nước rỉ từ bình chảy, hoặc vì chúng phải sinh những khổ sanh tử.

Bộc lưu là nghĩa càn quét, lùa vào biến hữu, và nghĩa là khó vượt qua. Hệ phược vì chúng không cho phép gỡ ra khỏi một đối tượng, và không gỡ khỏi khổ. Cả hai, Bộc lưu và Hệ phược, đều chỉ lậu hoặc đã nói trên.

57. Triền cái có 5: ① tham, ② sân, ③ hồn trầm, thụy miên, ④ trạo cử, hối tiếc và ⑤ nghi, nghĩa là chúng chướng ngại và che giấu thực tại khỏi tâm thức.

58. Tà giải chỉ tà kiến, vì nó sanh khởi dưới hình thức không thấy được tự tính của một pháp, lại thấy cách khác, thấy một tự tánh không thực.

59. Chấp thủ là dục thủ, v.v. đã nói đầy đủ trong phần Mô tả duyên khởi Ch. XVII, đoạn 240 trở đi.

60. Các tùy miên gồm 7, có tính chất thâm căn cố đế được kể là ① dục tham, ② sân, ③ mạn, ④ tà kiến, ⑤ nghi, ⑥ hữu tham và ⑦ vô minh. Do chúng ăn sâu nên gọi là tùy miên, chúng là cái nhân cho dục tham, v.v. sanh lại mãi.

61. Các cấu uế là ① tham ② sân ③ si, tự thân chúng đã ô nhiễm như dầu, lọ, bùn, mà chúng còn vấy bẩn các vật khác, nên gọi là cấu uế.

62. Các bất thiện nghiệp gồm 10 là: ① sát sinh, ② lấy của không cho, ③ tà hạnh trong dục, ④ vọng ngữ, ⑤ ác ngữ, ⑥ thô ngữ, ⑦ phù phiếm ngữ, ⑧ tham, ⑨ sân và ⑩ tà kiến. Chúng được gọi như vậy vì vừa là nghiệp bất thiện mà vừa là lộ trình dẫn đến ác thú.

63. Các tác ý bất thiện có 12, gồm 8 tâm gốc ở tham, hai ở sân và 2 ở si. (Ch. XIV, đ. 89).

64. Bốn trí này riêng biệt và chung nhau, trừ khử các pháp trên, khởi từ kiết sử. Bằng cách nào?

Về kiết sử, 5 thứ được đoạn bằng trí thứ nhất: ① thân kiến, ② nghi, ③ giới cấm thủ, ④ dục tham và ⑤ sân, thứ tham sân khá mạnh đủ để dẫn đến đọa xứ.

Các ④ dục tham thô và ⑤ sân thô còn lại được đoạn bằng trí thứ hai.

④ Dục tham, ⑤ sân vi tế được đoạn bằng trí thứ ba.

Năm kiết sử kể từ sắc giới tham, v.v. (thượng phần) chỉ thực sự đoạn trừ với trí thứ 4. Từ đây trở đi bất cứ pháp nào được nói là đoạn trừ bởi một trong ba trí bực trên thì cần hiểu là chỉ có dư tàn của pháp ấy mà thôi, vì phần thô đã được đoạn bởi trí đi trước nó để không dẫn đến đọa xứ.

65. Về các phiền não, thì

  • ① tà kiến, ② nghi được đoạn bằng trí đầu tiên,
  • ③ sân đoạn bằng trí thứ ba.
  • ④ Tham, ⑤ si, ⑥ mạn, ⑦ hôn trầm, ⑧ trạo cử, ⑨ vô tàm, ⑩ vô quí đoạn bằng trí thứ tư.

66. Tám tà:

  • ① tà kiến, ③⒜ tà ngữ, ④ tà nghiệp, ⑤ tà mạng, được đoạn bằng trí thứ nhất.
  • ② Tà tư duy, ③⒝ ác ngữ, ③(c) thô ngữ đoạn bằng trí thứ ba. Và ở đây ngữ là tư tâm sở (khuynh hướng muốn nói, chưa thốt ra).
  • ③⒟ Phù phiếm ngữ, ⑥ tà tinh tiến, ⑦ tà niệm, ⑧ tà định, tà giải thoát và tà trí đoạn bằng trí thứ tư.
67. Các pháp thế gian thì
  • sân đoạn bằng trí thứ ba, khả ý đoạn bằng trí thứ tư. Có người cho rằng sự thích danh dự tiếng khen chỉ được đoạn bởi trí thứ 4.
  • Các loại tham được đoạn bằng trí đầu tiên.

68. Các điên đảo,

thì ① tưởng điên đảo, ② kiến điên đảo, ③ tâm điên đảo, cho vô thường là thường, vô ngã là ngã, và kiến điên đảo lấy khổ làm vui, bất tịnh làm tịnh, được đoạn với trí thứ nhất.

Tưởng điên đảo, tâm điên đảo lấy bất tịnh làm tịnh, đoạn với trí thứ ba.

Tưởng điên đảo, tâm điên đảo lấy khổ làm vui đoạn bằng trí thứ tư.

69. Các thân hệ phược, thì

  • giới cấm thủ và kiến thủ “đây mới là chân lý” được đoạn bằng trí thứ nhất.
  • Sân đoạn với trí thứ ba.
  • Cái còn lại đoạn trừ bằng trí thứ tư.

Các tà hạnh được đoạn bằng trí thứ nhất.

70. Các lậu hoặc:

  • kiến lậu đoạn bằng trí thứ nhất,
  • dục lậu bằng trí thứ ba,
  • hai lậu kia bằng trí thứ tư.

Bộc lưu và hệ phược cũng vậy.

71. Các triền cái thì

  • nghi đoạn bằng trí thứ nhất,
  • tham sân trạo cử bằng trí thứ ba,
  • hôn trầm thụy miên và trạo cử vi tế được đoạn bằng trí thứ tư.
  • Tà giải được đoạn bằng trí thứ nhất.
72. Về chấp thủ, theo kinh điển, tất cả thế gian pháp đều là dục kể như đối tượng dục, bởi vậy sắc giới tham và vô sắc giới tham đều thuộc dục thủ, do đó
  • dục thủ được trừ với trí thứ tư.
  • Các thủ còn lại đoạn với trí thứ nhất.

73. Các tùy miên:

  • tà kiến, nghi, đoạn với trí thứ nhất;
  • dục, sân tùy miên bằng trí thứ ba.
  • Mạn tùy miên, hữu tham và vô minh tùy miên đoạn bằng trí thứ tư.

74. Các cấu uế, thì

  • sân được đoạn với trí thứ ba,
  • các thứ khác nhờ trí thứ tư.

75. Các bất thiện nghiệp, thì

  • sát sinh, lấy của không cho, tà hạnh trong dâm dục, nói dối, tà kiến, được đoạn bằng trí thứ nhất,
  • ác ngữ, thô ngữ, sân, trừ bằng trí thứ ba,
  • phù phiếm ngữ và tham được trừ bằng trí thứ tư.
76. Những tác ý bất thiện, thì
  • bốn tương ưng tà kiến, 1 tương ưng nghi, vị chi năm, đoạn bằng trí thứ nhất, 
  • hai tâm tương ưng với sân đoạn bằng trí thứ ba.
  • Còn lại được trừ bằng trí thứ bốn.

77. Và pháp nào đoạn trừ với trí nào thì đoạn tận với trí ấy, do đó trên đây nói: “Vậy 4 thứ trí này, riêng biệt và cùng nhau, đoạn tận các pháp khởi từ kiết sử”.

Nguồn trích dẫn: Thanh Tịnh Ðạo – Buddhaghosa (Phật Âm), Chương XXII – Tri Kiến Thanh Tịnh (Nanadassana-visudhi-niddesa)

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app