Nội Dung Chính
Pháp Hành Trung Đạo (Majjhimāpaṭipadā)
Pháp hành Trung Đạo (Majjhimāpaṭipadā) là một pháp hành chỉ có trong Phật giáo, hoàn toàn không có ngoài Phật giáo.
Trong bài kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakkappavattanasutta 1 ), Đức Phật dạy:
Hai Pháp Thấp Hèn (dve antā)
– “Này chư Tỳ khưu, có hai pháp cực đoan thuộc về hai biên kiến mà người xuất gia không nên hành theo. Hai pháp ấy như thế nào?
1- Một là, việc thường thụ hưởng lạc trong ngũ dục do tâm tham ái hợp với thường kiến, là pháp thấp hèn của hạng phàm nhân trong đời, không phải của bậc Thánh Nhân, không đem lại lợi ích an lạc nào.
2- Hai là, việc thường tự ép xác hành khổ mình do tâm sân hận và có đoạn kiến, thuộc pháp hành khổ hạnh của ngoại đạo, không phải của bậc Thánh Nhân, không đem lại lợi ích an lạc nào.
Pháp Hành Trung Đạo (Majjhimāpaṭipadā)
– Này chư Tỳ khưu, không thiên về hai pháp cực đoan thuộc hai biên kiến ấy, Như Lai đã hành theo pháp hành Trung Đạo, nên đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế bằng trí tuệ Siêu tam giới, làm cho tuệ nhãn phát sinh, trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới phát sinh, để làm vắng lặng mọi phiền não, làm cho trí tuệ siêu việt thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
Này chư Tỳ khưu, thế nào gọi là pháp hành Trung Đạo mà Như Lai đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế (bằng trí tuệ Siêu tam giới), làm cho tuệ nhãn phát sinh, trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới phát sinh, để làm vắng lặng mọi phiền não, làm cho trí tuệ siêu việt thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
Này chư Tỳ khưu, pháp hành Trung Đạo đó chính là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng là:
1– Chánh kiến
2- Chánh tư duy
3- Chánh ngữ
4- Chánh nghiệp
5- Chánh mạng
6- Chánh tinh tấn
7- Chánh niệm
8- Chánh định
Này chư Tỳ khưu, nhờ pháp hành Trung Đạo là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng này, mà Như Lai đã chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế (bằng trí tuệ Siêu tam giới), làm cho tuệ nhãn phát sinh, trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới phát sinh, để làm vắng lặng mọi phiền não, làm cho trí tuệ siêu việt thông suốt chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo -, Thánh Quả và Niết Bàn”.
Trong bài kinh này, Đức Thế Tôn dạy pháp hành Trung Đạo đó chính là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh cao thượng: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định; 8 chánh này là 8 tâm sở đồng sinh cùng một lúc trong Tâm Thánh Đạo và Tâm Thánh Quả có đối tượng Niết Bàn.
Trong Tâm Thánh Đạo, Tâm Thánh Quả có 36 tâm sở đồng sinh, trong 36 tâm sở này có:
– Tâm sở trí tuệ gọi là chánh kiến: Trí tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.
– Tâm sở hướng tâm (vitakka) gọi là chánh tư duy: Tư duy thoát ra khỏi ngũ dục, tư duy không làm khổ mình, khổ người, tư duy không làm hại mình, hại người.
– Tâm sở chánh ngữ gọi là chánh ngữ: Lời nói chân chánh là tránh xa sự nói dối, tránh xa sự nói lời chia rẽ, tránh xa sự nói lời thô tục, tránh xa sự nói lời vô ích.
– Tâm sở chánh nghiệp gọi là chánh nghiệp: Hành nghiệp chân chánh là tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm.
– Tâm sở chánh mạng gọi là chánh mạng: Nuôi mạng chân chánh, tránh xa cách sống tà mạng do hành ác.
– Tâm sở tinh tấn gọi là chánh tinh tấn, đó là:
– Tinh tấn ngăn ác pháp chưa sinh thì không cho phát sinh.
– Tinh tấn diệt ác pháp đã sinh.
– Tinh tấn làm cho thiện pháp chưa sinh thì phát sinh.
– Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã sinh.
– Tâm sở niệm gọi là chánh niệm: Niệm chân chánh là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp.
– Tâm sở nhất tâm gọi là chánh định: Định chân chánh, là định tâm trong 5 bậc thiền Siêu tam giới, có Niết Bàn làm đối tượng.
8 tâm sở có tên 8 chánh này cùng với 28 tâm sở khác đồng sinh trong Tâm Thánh Đạo – Tâm Thánh Quả, có đối tượng Niết Bàn. 8 tâm sở này đặc biệt chỉ đồng sinh trong Tâm Thánh Đạo và Tâm Thánh Quả thuộc tâm Siêu tam giới mà thôi. Ngoài tâm Siêu tam giới ra, 8 tâm sở này không bao giờ đồng sinh cùng một lúc trong tâm dục giới, tâm sắc giới, vô tâm sắc giới, bởi vì 3 tâm sở tiết chế: Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng mỗi tâm này riêng rẽ đồng sinh với tâm đại thiện dục giới, mà không đồng sinh với tâm sắc giới và tâm vô sắc giới. Do đó, Bát Chánh Đạo không đồng sinh cùng một lúc trong tâm tam giới.
Pháp hành Trung Đạo đó là Thánh Đạo hợp đủ 8 chánh đồng sinh với Tâm Thánh Đạo và Tâm Thánh Quả có Niết Bàn làm đối tượng; pháp hành Bát Chánh Đạo trong Tâm Thánh Đạo và Tâm Thánh Quả, không phải là pháp hành bắt đầu thực hành, cũng không phải là pháp hành đang thực hành, mà là pháp hành đã thực hành xong, đã hoàn thành xong phận sự Tứ Thánh Đế, là pháp thành (paṭivedha), kết quả của pháp hành (paṭipatti).
Như vậy, pháp hành Trung Đạo này (pháp hành Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh) ở giai đoạn cuối.
Vậy giai đoạn đầu của pháp hành Trung Đạo hoặc pháp hành Bát Chánh Đạo là pháp nào?
Pháp hành Trung Đạo có 2 giai đoạn:
1- Giai đoạn đầu của pháp hành Trung Đạo là pháp hành Tứ Niệm Xứ: Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp. Tứ Niệm Xứ này chính là chánh niệm trong Bát Chánh Đạo. Như vậy, giai đoạn đầu của pháp hành Trung Đạo hoặc pháp hành Bát Chánh Đạo là hành giả bắt đầu thực hành theo chánh niệm: Niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp; thân, thọ, tâm, pháp làm đối tượng của chánh niệm, còn thuộc pháp trong tam giới.
2- Giai đoạn cuối của pháp hành Trung Đạo là pháp hành Bát Chánh Đạo hợp đầy đủ 8 chánh: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định đồng sinh cùng một lúc với Tâm Thánh Đạo và Tâm Thánh Quả có đối tượng Niết Bàn, thuộc pháp Siêu tam giới.
Pháp Hành Tứ Niệm Xứ – Pháp Hành Thiền Tuệ
Pháp hành Tứ Niệm Xứ có đối tượng thân thuộc về sắc pháp, thọ thuộc về danh pháp, tâm thuộc về danh pháp, pháp thuộc về sắc pháp – danh pháp. Hành giả thực hành Tứ Niệm Xứ có đối tượng thân, thọ, tâm, pháp dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Và hành giả thực hành thiền tuệ có đối tượng sắc pháp, danh pháp cũng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.
Như vậy, pháp hành Tứ Niệm Xứ và pháp hành thiền tuệ có đối tượng và kết quả hoàn toàn giống nhau, chỉ có khác nhau về tên gọi 2 pháp hành mà thôi.
Hành không đúng theo pháp hành Trung Đạo như thế nào?
Sự thật, tất cả mọi đối tượng thân, thọ, tâm, pháp hoặc danh pháp, sắc pháp trong tam giới đều là Khổ đế, là pháp nên biết như nhau cả thảy, không hơn không kém. Nhưng có số hành giả không hiểu rõ sự thật chân lý Khổ đế này, nên thích đối tượng danh pháp, sắc pháp này; không thích đối tượng danh pháp, sắc pháp kia; tâm không biết trung dung trong tất cả mọi đối tượng danh pháp, sắc pháp. Cho nên, họ thực hành thiền tuệ khi thì có tâm tham, hài lòng trong đối tượng danh pháp, sắc pháp này; khi thì có tâm sân, không hài lòng trong đối tượng danh pháp, sắc pháp kia.
Như vậy, hành giả thực hành Tứ Niệm Xứ hoặc thực hành thiền tuệ đã thiên về hai pháp cực đoan: Tâm tham (hài lòng) và tâm sân (không hài lòng), cho nên hành giả thực hành Tứ Niệm Xứ hoặc thực hành thiền tuệ không đúng theo pháp hành Trung Đạo.
Thật vậy, khi tâm tham hoặc tâm sân phát sinh đều luôn luôn có tâm sở si (vô minh) đồng sinh với tâm ấy, bao trùm phủ kín thực tánh của danh pháp, sắc pháp, cho nên không thể chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.
Ví dụ:
Hành giả đang thực hành thiền tuệ có đối tượng 4 oai nghi: Đi, đứng, ngồi, nằm.
Khi đang ngồi có sắc ngồi là dáng ngồi, tư thế ngồi làm đối tượng của thiền tuệ. Nếu hành giả thích sắc ngồi, thì tâm tham (hài lòng đối tượng sắc ngồi ấy) phát sinh, chắc chắn có tâm sở si đồng sinh bao trùm phủ kín thực tánh của sắc ngồi, thuộc sắc pháp ấy.
Một khi có phóng tâm phát sinh (nghĩ đến chuyện khác) phải buông bỏ đối tượng sắc ngồi. Nếu hành giả không thích phóng tâm, thì tâm sân (không hài lòng đối tượng phóng tâm ấy) phát sinh, chắc chắn có tâm sở si đồng sinh bao trùm phủ kín thực tánh của phóng tâm, danh pháp ấy. Cho nên, hành giả thực hành thiền tuệ không diệt được tâm tham (hài lòng) và tâm sân (không hài lòng) cùng với tâm sở si trong danh pháp, sắc pháp ấy.
Như vậy, hành giả thực hành Tứ Niệm Xứ hoặc thực hành thiền tuệ không đúng theo pháp hành Trung Đạo, bởi vì thiên về 2 pháp cực đoan: Tâm tham(hài lòng) và tâm sân (không hài lòng) trong danh pháp, sắc pháp.
Hành đúng theo pháp hành Trung Đạo như thế nào?
Hành giả thực hành thiền tuệ có 4 oai nghi: Đi, đứng, ngồi, nằm làm đối tượng của pháp hành thiền tuệ.
Sự thật, tất cả mọi danh pháp, sắc pháp trong tam giới đều là Khổ đế, là pháp nên biết như nhau cả thảy, không hơn không kém. Có một số hành giả hiểu rõ sự thật chân lý Khổ đế này, nên không coi trọng đối tượng danh pháp, sắc pháp này; cũng không coi nhẹ đối tượng danh pháp, sắc pháp kia, tâm biết trung dung trong tất cả mọi đối tượng danh pháp, sắc pháp; cho nên, khi họ thực hành thiền tuệ dầu danh pháp, sắc pháp nào cũng ngăn ngừa được tâm tham (hài lòng) và tâm sân (không hài lòng) cùng với tâm sở si (vô minh) không cho nương nhờ nơi đối tượng danh pháp, sắc pháp ấy, và không cho nương nhờ nơi chủ thể chánh niệm trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ đối tượng ấy. Do đó, trí tuệ thiền tuệ phát sinh, thấy rõ, biết rõ thực tánh của danh pháp, sắc pháp ấy, đồng thời diệt được tâm tham (hài lòng) và tâm sân (không hài lòng) cùng với tâm sở si trong đối tượng danh pháp, sắc pháp ấy.
Hành giả thực hành thiền tuệ giai đoạn đầu đúng theo pháp hành Trung Đạo, vì không thiên về 2 pháp cực đoan: Tâm tham (hài lòng) và tâm sân (không hài lòng) dẫn đến sự phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ thực tánh của danh pháp, của sắc pháp đúng theo sự thật Chân nghĩa pháp; thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, của sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, của sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, đến giai đoạn cuối của pháp hành Trung Đạo.
Ví dụ:
Hành giả đang thực hành thiền tuệ có đối tượng 4 oai nghi: Đi, đứng, ngồi, nằm.
Khi đang ngồi có sắc ngồi là dáng ngồi, tư thế ngồi làm đối tượng của thiền tuệ; hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác trực nhận, trực giác ngay dáng ngồi, tư thế ngồi thuộc về sắc pháp phát sinh từ tâm, gọi là sắc ngồi. Hành giả không coi trọng sắc ngồi, nên tâm tham (hài lòng) cùng với tâm sở si không thể nương nhờ nơi sắc ngồi (sắc pháp).
Khi ấy, hành giả có chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác đồng sinh trong tâm đại thiện trong sạch có đối tượng dáng ngồi, tư thế ngồi thuộc về sắc pháp.
Nếu khi có phóng tâm phát sinh (nghĩ đến chuyện khác) phải buông bỏ đối tượng sắc ngồi; hành giả không coi nhẹ phóng tâm nên tâm sân (không hài lòng) cùng với tâm sở si không thể nương nhờ nơi phóng tâm (danh pháp). Cho nên, chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác thấy rõ, biết rõ đối tượng phóng tâm (vừa mới diệt) thuộc về danh pháp. Như vậy, dù đối tượng thay đổi từ sắc ngồi diệt, phóng tâm sinh, song chánh niệm, trí tuệ tỉnh giác vẫn không thay đổi, bởi vì, hành giả có trí tuệ hiểu biết rõ tất cả mọi danh pháp, mọi sắc pháp đều có thực tánh, có sự sinh, sự diệt, có 3 trạng thái chung: Trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, đều có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái. Nhờ sự hiểu biết đúng như vậy, khi hành giả thực hành thiền tuệ giai đoạn đầu đúng theo pháp hành Trung Đạo, vì không thiên về 2 pháp cực đoan, nên diệt được tâm tham (hài lòng) trong sắc ngồi (sắc pháp), và diệt được tâm sân (không hài lòng) trong phóng tâm (danh pháp), đồng thời diệt được tâm si trong danh pháp, sắc pháp. Do đó, trí tuệ thiền tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ thực tánh của danh pháp, sắc pháp đúng theo sự thật Chân nghĩa pháp; thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến giai đoạn cuối của pháp hành Trung Đạo, để chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và Niết Bàn.
Pháp hành Giới – Định – Tuệ
Pháp hành giới – định – tuệ có 2 loại:
1- Pháp hành giới – định – tuệ trong tam giới.
2- Pháp hành giới – định – tuệ trong Siêu tam giới.
1- Pháp hành giới – định – tuệ trong tam giới như thế nào?
Khi hành giả hành pháp hành giới – định – tuệ trong tam giới, thì hành giả phải hành theo tuần tự: Hành giới – hành định – hành tuệ.
* Pháp hành giới thuộc phần đầu cần được thực hành trước tiên, đó là tác ý tâm thiện giữ gìn thân và khẩu không phạm giới, để làm cho thân và khẩu được trong sạch, không bị ô nhiễm bởi phiền não, để làm nền tảng cho pháp hành thiền định.
* Pháp hành định thuộc phần giữa, đó là pháp hành thiền định (sau pháp hành giới), có khả năng chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, bậc thiền vô sắc, còn có thể làm nền tảng cho pháp hành thiền tuệ.
Định (samādhi) có 3 loại:
– Cận định (upacārasamādhi): Định tâm trong một đề mục thiền định duy nhất đến giai đoạn phát sinh trong tâm từ uggahanimitta: Đối tượng thô tương tự biến thành paṭibhā-ganimitta: Đối tượng vi tế trong sáng.
– An định (appanāsamādhi): Định tâm trong một đề mục thiền định duy nhất có đối tượng paṭibhāganimitta: Đối tượng vi tế trong sáng trong tâm, có khả năng chứng đắc các bậc thiền hữu sắc.
2 loại định tâm này thuộc về pháp hành thiền định, có khả năng làm nền tảng cho pháp hành thiền tuệ.
– Sát-na định (khaṇikasamādhi): Định tâm trong đối tượng mỗi danh pháp hoặc mỗi sắc pháp trong thời gian ngắn ngủi tùy theo nhân duyên của nó. Sát-na định này thuộc về pháp hành thiền tuệ.
* Pháp hành tuệ thuộc phần cuối, đó là pháp hành thiền tuệ (sau pháp hành định). Pháp hành thiền tuệ có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn. Nhưng cũng có trường hợp đặc biệt, hành giả thực hành thiền tuệ trước, thiền định sau hoặc thực hành thiền định và thiền tuệ cả hai đi đôi với nhau 1 …
2- Pháp hành giới – định – tuệ trong Siêu tam giới như thế nào?
Pháp hành Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định, hợp đủ 8 chánh đồng sinh với 4 Tâm Thánh Đạo và 4 Tâm Thánh Quả có đối tượng Niết Bàn, thuộc về Siêu tam giới pháp.
Trong Bát Chánh Đạo này có phần giới – định – tuệ như sau:
– Chánh kiến, chánh tư duy thuộc về phần pháp hành tuệ.
– Chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về phần pháp hành giới.
– Chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về phần pháp hành định.
Pháp hành Bát Chánh Đạo trong Siêu tam giới này sắp đặt chánh kiến lên hàng đầu, vì nó đóng vai trò chính yếu trong sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo – Thánh Quả và có đối tượng Niết Bàn. Chánh kiến ấy làm nền tảng hỗ trợ cho chánh tư duy, chánh tư duy hỗ trợ cho chánh ngữ; chánh ngữ hỗ trợ cho chánh nghiệp; chánh nghiệp hỗ trợ cho chánh mạng, chánh mạng hỗ trợ cho chánh tinh tấn, chánh tinh tấn hỗ trợ cho chánh niệm, chánh niệm hỗ trợ cho chánh định, đó là 8 tâm sở đồng sinh, đồng diệt, đồng đối tượng Niết Bàn, đồng nơi sinh với 4 Tâm Thánh Đạo, với 4 Tâm Thánh Quả thuộc tâm Siêu tam giới, đồng thời không trước không sau, thuộc về pháp thành (paṭivedhadhamma).
Ví dụ:
Một thang thuốc chữa bệnh gồm có 8 vị thuốc, trong đó có một vị thuốc chính để trị bệnh, còn 7 vị thuốc phụ trợ. Khi đem bỏ 8 vị thuốc vào siêu, đổ thêm 3 chén nước sắc thuốc cạn xuống còn 8 phân. Trong chén thuốc 8 phân này, có vị thuốc chính cùng hòa với 7 vị thuốc phụ kia. Khi uống thuốc, cùng một lần, không thể phân biệt được uống vị nào trước, vị nào sau như thế nào, Bát Chánh Đạo có ba phần: Hành tuệ, hành giới, hành định đồng sinh với tâm Siêu tam giới cũng như thế ấy, đồng thời không trước, không sau.
Tóm lại con đường giải thoát khổ hoàn toàn là con đường pháp hành Trung Đạo có 2 giai đoạn:
* Giai đoạn đầu: Thực hành pháp hành Tứ Niệm Xứ hoặc pháp hành thiền tuệ.
* Giai đoạn cuối: Pháp hành Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh trong 4 Tâm Thánh Đạo và 4 Tâm Thánh Quả có đối tượng Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, giải thoát khổ tái sinh kiếp sau; mới thật là giải thoát khổ hoàn toàn.
Khổ Đế – Diệt Khổ Đế
Trong Phật giáo, khổ là sự thật chân lý hiện hữu trong chấp thủ ngũ uẩn này gọi là Khổ đế.
Diệt khổ là sự thật chân lý Niết Bàn diệt nhân sinh khổ, gọi là diệt Khổ đế.
Khổ đế là chấp thủ trong ngũ uẩn là pháp nên biết; diệt Khổ đế là Niết Bàn diệt nhân sinh khổ là pháp nên chứng ngộ.
Trích dẫn cuộc đàm thoại giữa vị Đạo sĩ Jumbukhādaka với Ngài Đại đức Sāriputta trong đoạn kinh Kimatthiyasutta 1 như sau:
Một thuở nọ, Ngài Đại đức Sāriputta đang trú tại làng Nālakagāmaka trong xứ Magadha. Khi ấy vị Đạo sĩ Jumbukhādaka đến hầu thăm Ngài Đại đức Sāriputta bèn bạch hỏi rằng:
– “Kimatthiyaṃ āvuso Sāriputta samaṇe Gotame brahmacariyaṃ vussati?”
– “Bạch Đại đức Sāriputta, Ngài xuất gia hành phạm hạnh nơi Đức Samôn Gotama có được lợi ích như thế nào? Bạch Ngài”.
Ngài Đại đức Sāriputta trả lời rằng:
– Dukkhassa kho āvuso pariññatthaṃ Bhavagati brahmacariyaṃ vussati.
– Này vị Đạo sĩ thân mến, xuất gia hành phạm hạnh nơi Đức Thế Tôn cốt để biết rõ Khổ đế.
– Bạch Đại đức Sāriputta, pháp hành để biết rõ Khổ đế ấy như thế nào? Bạch Ngài.
– Này vị Đạo sĩ thân mến, pháp hành để biết rõ Khổ đế ấy là pháp hành Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Này vị Đạo sĩ thân mến! Chỉ có pháp hành Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh này mới biết rõ Khổ đế mà thôi”.
Vị Đạo sĩ Jumbukhādaka tán dương ca tụng pháp hành Bát Chánh Đạo cao thượng để biết rõ được Khổ đế.
* Trong một bài kinh khác, bài kinh Nibbānapañhāsutta 2 , vị Đạo sĩ Jumbukhādaka bạch hỏi Ngài Đại đức Sāriputta rằng:
– “Kính bạch Đại đức Sāriputta, thế nào gọi là Niết Bàn? Bạch Ngài.
– Này vị Đạo sĩ thân mến, diệt tận tham ái, diệt tận sân hận, diệt tận si mê gọi là Niết Bàn.
– Kính bạch Đại đức Sāriputta, pháp hành để chứng ngộ Niết Bàn như thế nào? Bạch Ngài.
– Này vị Đạo sĩ thân mến, pháp hành để chứng ngộ Niết Bàn diệt tận tham ái, diệt tận sân hận, diệt tận si mê là pháp hành Bát Chánh Đạo: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. Chỉ có pháp hành Bát Chánh Đạo hợp đủ 8 chánh này mới chứng ngộ Niết Bàn mà thôi”.
Vị Đạo sĩ Jumbukhādaka tán dương ca tụng pháp hành Bát Chánh Đạo cao thượng để chứng ngộ Niết Bàn diệt khổ.
* Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại giảng đường Kutāgāra trong khu rừng lớn gần kinh thành Vesāli. Khi ấy Ngài Đại đức Anurādha đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ, Đức Thế Tôn thuyết giảng về pháp ngũ uẩn là vô thường, khổ, không nên chấp thủ trong pháp ấy là của ta, là ta, là tự ngã của ta.
Đức Thế Tôn hỏi từng mỗi uẩn, và Ngài Đại đức Anurādha đã trả lời đúng từng mỗi uẩn. Cho nên Đức Thế Tôn đã khen ngợi và khẳng định rằng:
“Sādhu! Sādhu! Anurādha pubbe cā’haṃ Anurādha, etarahi ca dukkhañceva paññāpemi dukkhassa ca nirodhaṃ 1 ”.
“Lành thay! Lành thay! Anurādha,
Này Anurādha, từ trước cho đến nay, Như Lai chỉ chế định thuyết dạy Khổ đế và diệt Khổ đế mà thôi”.
Qua đoạn kinh trên, Đức Phật đề cập 2 pháp chính yếu là Khổ Thánh Đế và Diệt Khổ Thánh Đế trong Tứ Thánh Đế.
Khổ Thánh Đế là chấp thủ trong ngũ uẩn, là pháp mà bậc Thánh Nhân có phận sự nên biết, thì đã biết xong rồi, đã hoàn thành xong phận sự biết Khổ Thánh Đế.
Diệt Khổ Thánh Đế là Niết Bàn, là pháp mà bậc Thánh Nhân có phận sự nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ xong rồi, đã hoàn thành xong phận sự chứng ngộ Diệt Khổ Thánh Đế.
Tham ái là nhân sinh Khổ Thánh Đế, chỉ có thể diệt đoạn tuyệt được khi bậc Thánh Nhân đã hoàn thành xong phận sự biết Khổ Thánh Đế và đã hoàn thành xong phận sự chứng ngộ Diệt Khổ Thánh Đế mà thôi.
Bậc Thánh Nhân đã biết Khổ Thánh Đế, đã diệt Nhân sinh Khổ Thánh Đế, đã chứng ngộ Diệt Khổ Thánh Đế, thì chắc chắn đã hoàn thành xong phận sự thực hành Pháp hành Diệt Khổ Thánh Đế. Bậc Thánh Nhân đã hoàn thành xong mọi phận sự Tứ Thánh Đế đồng thời cùng một lúc không trước không sau.
Hành giả thực hành thiền tuệ, khi phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ danh pháp, sắc pháp là Khổ đế; thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, của sắc pháp; thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, của sắc pháp, của ngũ uẩn; phát sinh trí tuệ thiền tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn (nibbidānupassanāñāṇa), tiếp theo trí tuệ thiền tuệ mong muốn giải thoát khỏi ngũ uẩn, mọi danh pháp, sắc pháp trong tam giới, dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, trở thành bậc Thánh Arahán, sẽ tịch diệt Niết Bàn chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.
Như vậy, trí tuệ thiền tuệ biết khổ trong ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp, thì trí tuệ thiền tuệ mới nhàm chán ngũ uẩn, mong giải thoát khổ khỏi ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp này được. Ngược lại, nếu say mê trong ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp, thì bị chìm đắm trong ngũ uẩn, không giải thoát khổ khỏi ngũ uẩn. Như trong bài kinh Abhinandasutta 2 .
Khổ – Giải Thoát Khổ
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, thuyết dạy rằng:
– “Này chư Tỳ khưu, người nào say mê trong sắc uẩn, người ấy say mê trong khổ của sắc uẩn. Người nào say mê trong khổ của sắc uẩn, Như Lai gọi người ấy không thể giải thoát khổ khỏi sắc uẩn được.
– Người nào say mê trong thọ uẩn, người ấy say mê trong khổ của thọ uẩn. Người nào say mê trong khổ của thọ uẩn, Như Lai gọi người ấy không thể giải thoát khổ khỏi thọ uẩn được.
– Người nào say mê trong tưởng uẩn, người ấy say mê trong khổ của tưởng uẩn. Người nào say mê trong khổ của tưởng uẩn, Như Lai gọi người ấy không thể giải thoát khổ khỏi tưởng uẩn được.
– Người nào say mê trong hành uẩn, người ấy say mê trong khổ của hành uẩn. Người nào say mê trong khổ của hành uẩn, Như Lai gọi người ấy không thể giải thoát khổ khỏi hành uẩn được.
– Người nào say mê trong thức uẩn, người ấy say mê trong khổ của thức uẩn. Người nào say mê trong khổ của thức uẩn, Như Lai gọi người ấy không thể giải thoát khổ khỏi thức uẩn được.
– Này chư Tỳ khưu, người nào không say mê (nhàm chán) trong sắc uẩn, người ấy không say mê (nhàm chán) trong khổ của sắc uẩn. Người nào không say mê (nhàm chán) trong khổ của sắc uẩn, Như Lai gọi người ấy có thể giải thoát khổ khỏi sắc uẩn được.
– Người nào không say mê (nhàm chán) trong thọ uẩn, người ấy không say mê (nhàm chán) trong khổ của thọ uẩn. Người nào không say mê (nhàm chán) trong khổ của thọ uẩn, Như Lai gọi người ấy có thể giải thoát khổ khỏi thọ uẩn được.
– Người nào không say mê (nhàm chán) trong tưởng uẩn, người ấy không say mê (nhàm chán) trong khổ của tưởng uẩn. Người nào không say mê (nhàm chán) trong khổ của tưởng uẩn, Như Lai gọi người ấy có thể giải thoát khổ khỏi tưởng uẩn được.
– Người nào không say mê (nhàm chán) trong hành uẩn, người ấy không say mê (nhàm chán) trong khổ của hành uẩn. Người nào không say mê (nhàm chán) trong khổ của hành uẩn, Như Lai gọi người ấy có thể giải thoát khổ khỏi hành uẩn được.
– Người nào không say mê (nhàm chán) trong thức uẩn, người ấy không say mê (nhàm chán) trong khổ của thức uẩn. Người nào không say mê (nhàm chán) trong khổ của thức uẩn, Như Lai gọi người ấy có thể giải thoát khổ khỏi thức uẩn được”.
Đức Phật dạy: Tóm lại, chấp thủ trong ngũ uẩn là Khổ đế, người nào say mê trong uẩn nào là say mê trong khổ của uẩn ấy. Như vậy, tâm sở trí tuệ (paññācetasika) thuộc trong hành uẩn, hành giả phát sinh tâm hoan hỷ, hài lòng trong trí tuệ sở đắc của mình, nghĩa là tâm hoan hỷ hài lòng trong khổ của hành uẩn ấy. Cho nên Đức Phật dạy: Ñāṇamattāya 1 (Trí tuệ cũng chỉ để biết rõ thực tánh của các pháp mà thôi).
Trí tuệ này cũng có trạng thái chung là trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã, chung quy cũng chỉ có Khổ đế mà thôi, huống hồ các pháp khác. (chắc chắn cũng chỉ có Khổ đế)
Do đó, Đức Phật dạy không nên say mê, nên nhàm chán trong ngũ uẩn, thì mới mong giải thoát khỏi khổ của ngũ uẩn.
Ngũ Uẩn (Pañcakkhandha)
Ngũ uẩn nghĩa là 5 thành phần khác nhau đồng sinh đồng diệt với nhau.
Ngũ uẩn có 2 loại:
1- Ngũ uẩn (pañcakkhandha) có chi pháp trong 4 Chân nghĩa pháp (Paramatthadhamma): Tâm, tâm sở, sắc pháp và Niết Bàn như sau:
– Sắc uẩn có chi pháp là 28 sắc pháp.
– Thọ uẩn có chi pháp là tâm sở thọ đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
– Tưởng uẩn có chi pháp là tâm sở tưởng đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
– Hành uẩn có chi pháp là các tâm sở hành (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng) đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.
– Thức uẩn có chi pháp là 89 hoặc 121 tâm.
Niết Bàn không thuộc về uẩn nào, gọi là khandhavimutta (ngoại 5 uẩn). Bởi vì Niết Bàn có tính chất như sau:
* Niết Bàn là pháp vô vi (asaṅkhatadhamma) không bị cấu tạo do bởi 4 nguyên nhân nghiệp, tâm, thời tiết và vật thực.
* Niết Bàn là pháp không sinh không diệt.
* Niết Bàn là pháp không có 3 thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) gọi là kālavimutta.
* Niết Bàn là đối tượng bên ngoài gọi là bahiddhā.
* Niết Bàn là đối tượng vi tế gọi là sukhuma.
* Niết Bàn là đối tượng cao thượng gọi là paṇita.
* Niết Bàn là đối tượng xa gọi là dūra, v.v…
Đó là những tính chất riêng biệt của Niết Bàn, cho nên không thuộc về uẩn nào.
2- Chấp thủ ngũ uẩn hoặc chấp thủ trong ngũ uẩn (pañcupādānakkhandha) là đối tượng chấp thủ của tham ái và tà kiến, có chi pháp trong 4 Chân nghĩa pháp như sau:
– Chấp thủ sắc uẩn là chấp thủ trong sắc uẩn có chi pháp là 28 sắc pháp.
– Chấp thủ thọ uẩn là chấp thủ trong thọ uẩn có chi pháp là tâm sở thọ đồng sinh với 81 tâm tam giới (không có 8 hoặc 40 tâm Siêu tam giới).
– Chấp thủ tưởng uẩn là chấp thủ trong tưởng uẩn có chi pháp là tâm sở tưởng đồng sinh với 81 tâm tam giới.
– Chấp thủ hành uẩn là chấp thủ trong hành uẩn có chi pháp là 50 tâm sở (không có tâm sở thọ và tâm sở tưởng) đồng sinh với 81 tâm tam giới.
– Chấp thủ thức uẩn là chấp thủ trong thức uẩn có chi pháp là tất cả 81 tâm tam giới.
Tâm cùng tâm sở sinh rồi diệt liên tục không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác, từ kiếp vô thuỷ cho đến kiếp hiện tại này. Nếu chúng sinh còn vô minh tăm tối bao trùm phủ kín chân lý Tứ Thánh Đế: Còn tham ái như sợi dây buộc cổ dẫn dắt theo 6 đối tượng đáng hài lòng làm cho say mê, thì sự tử sinh luân hồi nối tiếp mãi mãi vô chung.
Mỗi lần chỉ có 1 tâm (citta) sinh, trong mỗi tâm chắc chắn có một số tâm sở (cetasika) tương ứng đồng sinh với tâm ấy, đồng diệt với tâm ấy, đồng một đối tượng, đồng một nơi nương nhờ phát sinh.
Tâm nào sinh là thức uẩn sinh, trong tâm ấy chắc chắn có một số tâm sở tương ứng đồng sinh là:
* Tâm sở thọ là thọ uẩn.
* Tâm sở tưởng là tưởng uẩn.
* Tâm sở còn lại đồng sinh là hành uẩn.
Như vậy, mỗi tâm sinh có 4 uẩn sinh.
Đối với tất cả mọi chúng sinh trong 11 cõi dục giới và 15 cõi sắc giới (ngoại trừ cõi Vô Tưởng Thiên) tâm cùng tâm sở đồng sinh cần phải nương nhờ 1 trong 6 nơi sinh (vatthu) để phát sinh, nơi sinh này là sắc uẩn.
Ví dụ: Nhãn thức tâm phát sinh, có 7 tâm sở đồng sinh với nhãn thức tâm; nương nhờ nơi sắc nhãn căn (cakkhuvatthu) để phát sinh, được phân tích theo ngũ uẩn như sau:
– Nhãn thức tâm thuộc về thức uẩn.
– Tâm sở thọ đồng sinh với nhãn thức tâm thuộc về thọ uẩn.
– Tâm sở tưởng đồng sinh với nhãn thức tâm thuộc về tưởng uẩn.
– 5 tâm sở còn lại là tâm sở xúc, tâm sở tác ý, tâm sở nhất tâm, tâm sở mạng chủ và tâm sở ý hành thuộc về hành uẩn.
– Sắc nhãn căn (cakkhuvatthu) thuộc về sắc uẩn.
Tâm (citta) có 89 hoặc 121 tâm và tâm sở (cetasika) có 52 tâm sở. Trong số tâm và tâm sở ấy, 10 thức tâm (2 nhãn thức tâm + 2 nhĩ thức tâm + tỷ thức tâm + 2 thiệt thức tâm + 2 thân thức tâm) có số tâm sở ít nhất chỉ có 7 tâm sở đồng sinh với 10 tâm ấy; và 2 tâm đại thiện dục giới cùng với hỷ hợp với trí tuệ, có số tâm sở đồng sinh nhiều nhất, có 38 tâm sở đồng sinh với 2 tâm ấy.
Mỗi tâm và tâm sở đồng sinh có nghĩa là 4 danh uẩn (thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn) đồng sinh; tâm và tâm sở đồng diệt cũng có nghĩa là 4 danh uẩn đồng diệt; tâm và tâm sở không thể tách rời nhau được có nghĩa là 4 danh uẩn cũng không thể tách rời nhau được.
Tâm và tâm sở sinh rồi diệt vô cùng mau lẹ. Trong Chú giải Đồng Loại Bộ Kinh dạy: Chỉ một lần búng đầu móng tay, tâm + tâm sở sinh rồi diệt 1.000 tỷ lần 1 .
Đối với chúng sinh trong 11 cõi dục giới và phạm thiên trong 15 cõi trời sắc giới (trừ cõi Vô Tưởng Thiên), nếu tâm nương nhờ nơi vatthurūpa: Sắc căn nào phát sinh, thì sắc căn ấy cùng với các sắc pháp khác là sắc uẩn. Ngũ uẩn nương nhờ lẫn nhau để tồn tại trong mỗi kiếp. Tâm cùng tâm sở, 4 danh uẩn, sinh rồi diệt, thay đổi liên tục không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác, nếu chúng sinh còn tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, còn sắc uẩn cũng sinh rồi diệt, liên tục không ngừng nhưng chỉ có giới hạn chắc chắn trong mỗi kiếp mà thôi.
Sự bắt đầu của mỗi kiếp tính từ khi tái sinh (paṭisandhi) và giới hạn cuối cùng của mỗi kiếp là tử (cuti) (chết).
Từ vô số kiếp trước liên quan đến kiếp sau bằng tâm và tâm sở, 4 danh uẩn sinh rồi diệt liên tục không ngừng từ đời này sang đời khác, mà không liên quan đến sắc uẩn của mỗi kiếp.
Ví dụ: Tiền kiếp của Đức Phật Gotama là Đức Bồ Tát có kiếp sinh làm vua, có kiếp sinh làm con voi chúa, con chim, v.v… tuỳ theo năng lực của nghiệp thiện, nghiệp ác cho quả tái sinh.
Dù kiếp nào Đức Bồ Tát cũng tiếp tục tạo mọi pháp hạnh ba-la-mật để chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.
TẢI MOBILE APP PHẬT GIÁO THERAVĀDA ĐỂ XEM THÊM NHIỀU THÔNG TIN HỮU ÍCH (ANDROID & IOS)