CHƯƠNG II
Xuất ly Balamật
(Nekkhammapāramī)
Như đã trình bày ở trên, chúng ta hiểu rõ ý nghĩa xuất gia (pabbajja) là:
– Về hình thức: Có phẩm mạo khác kẻ thế.
– Về tâm lý: Có ý muốn thoát ra những ô nhiễm, giữ tâm không cho đắm nhiễm vào dục lạc.
Trong hai phần này, chủ yếu về phần tâm lý, một hành giả dù ở phẩm mạo chư thiên hay cư sĩ đang tinh cần hành pháp để trừ diệt những ô nhiễm (nhất là dục lạc), vị ấy vẫn được gọi là bậc xuất gia, như Phật ngôn:
“Hatthasaññato pādasaññato, vācāyasaññato saññatuttamo
Ajjhattarato samāhito, eko santusito taṃ ahu bhikkhuṃ.
“Điều phục tay lẫn chơn; điều phục lời và ý [1] .
Thỏa thích trong thiền định [2] ; một mình và biết đủ,
Ta gọi người ấy là Tỳkhưu” [3] .
Hay: “Sabbaso nāmarūpasmiṃ, yassa natthi mamāyitaṃ.
Asatā ca na socati, sa ve bhikkhu’ti vuccati.
“Tất cả danh và sắc; không nghĩ “ta”, “của ta”.
Không thích (ý) và không sầu; người ấy được gọi Tỳkhưu” [4]
Chữ nekkhamma (xuất ly) chỉ chung cho tất cả ai đang tầm cầu sự giải thoát, chịu đựng trước những quyến rũ của năm dục lạc, cố gắng thoát ra mọi vướng mắc, trói buộc của năm dục lạc.
Năm dục lạc này ở khíaa cạnh khác là : Được lợi, được danh, lời khen và hạnh phúc của đới thường. Chính tâm đắm nhiễm trong 5 dục lạc, khi không đượcnhư ý thì phát sinh buồn phiền, phẫn hận….. Nói cách khác, mặt trái của 5 dục lạc chính là: mất lợi, mất danh, bị chê và đau khổ
Chính tâm lý xuất gia mới là mối liên hệ giữa xuất ly và xuất gia. Tuy có hình tướng xuất gia, nhưng tâm vướng mắc vào năm dục lạc, được gọi là “tu sĩ giả hiệu”, như trong Hạnh Tạng phẩm xuất ly độ, câu chuyện của Bồtát Somanassa [5] , tóm lược như sau:
Thuở xưa, ở quốc độ Kuru (Câu Lâu) kinh thành Uttarapañcalā, đức vua Renu trị vì vương quốc này.
Ẩn sĩ Mahā Rakkhita cùng 500 đồ chúng của mình xuống đồng bằng để tìm muối dấm, hữu duyên được vua Renu thỉnh vào an cư mùa mưa nơi vườn Ngự Uyển, cúng dường vật thực đến các vị ẩn sĩ chu đáo.
Mãn mùa mưa, ẩn sĩ Mahā Rakkhita từ giã đức vua Renu trở về Tuyết sơn, Đức vua ao ước có một Hoàng nam để kế vị ngôi vua.
Trên đường về Tuyết sơn, các ẩn sĩ ngồi nghĩ dưới bóng cây râm mát, bàn luận về ước muốn của vua Renu, ẩn sĩ Mahā Rakkhita quán xét về ước nguyện của Đức vua Renu, Ngài bảo rằng:
– Này các Hiền giả! Đêm nay vào lúc rạng đông, một vị thiên tử sẽ giáng sanh vào thai bào của Hoàng hậu.
Nghe vậy, một tu sĩ trong nhóm suy nghĩ: “Ta hãy trở thành người tâm phúc của Hoàng gia”.
Y tìm cách trở lại, không về núi Tuyết cùng các vị ẩn sĩ.
Khi đến Hoàng cung, y tâu dối rằng: “Với thiên nhãn, thần thấy có một thiên tử giáng sanh vào thai bào của Hoàng hậu, e ngại tai họa có thể xẩy đến cho thai bào, nên Thần đến đây báo tin cho bệ hạ biết”.
Thế là, y được trú trong vườn Ngự Uyển, dùng những loại vật thực thượng vị, đồng thời được tán tụng là Dibbacakkhuka (người có thiên nhãn).
Bồtát sau khi sanh ra, Ngài được đặt tên là Somanassa kumāra (Vương tử Hoan lạc).
Khi Bồtát được bảy tuổi, biên cương có giặc loạn Đức vua thân chinh dẹp loạn, giao việc chăm sóc tu sĩ giả hiệu cho Bồtát.
Một hôm, Bồtát đến viếng thăm vị tu sĩ, thấy ông đang chăm sóc cây, Ngài nghĩ: “Ông này tu giả hiệu, lo làm vườn chứ chẳng lo phận sự tu hành”. Ngài hỏi:
– Ông đang làm gì thế? Hỡi này kẻ làm vườn phàm tục.
Tu sĩ giả hiệu, vô cùng tức giận, nảy ác ý muốn sát hại Bồtát, khi Đức vua trở về đến thăm y, y giả vờ bị đánh đập tàn nhẫn.
Đức vua hỏi thì y vu khống cho Bồtát đã hành hạ y. Và tuyên bố rằng “vương quốc này sẽ tiêu vong, hoàng gia sẽ bị hoại diệt, nếu như Hoàng tử Somanassa “người xúc phạm đến bậc tu hành” còn sống”.
Không kịp suy xét, Đức vua nổi giận ra lệnh chém Bồtát.
Bồtát trình bày rõ ràng uẩn khúc, với sự chứng minh của dân thành Kuru, tu sĩ giả danh bị dân chúng bao vây đánh chết.
Bồtát ngán ngẫm cảnh Đế vương nên xin cha mẹ xuất gia, Ngài đi vào Tuyết sơn tu tập chứng đắc Thiền định.
Đức Phật có dạy:
“Anikkasāvo kāsāvaṃ. Yo vatthaṃ paridahessati
Apeto damasaccena. Na so kāsāv’assa.
“Không thoát khỏi nhơ bẩn. Người đấp chiếc y vàng
Không khử trừ kiêu mạn. Không tự chế, không thật.
Không đáng với y vàng.” [6]
Rõ ràng hình thức xuất gia không phải là “xuất ly độ”.
Do lìa bỏ nhà sống không nhà là nền tảng của xuất ly balamật, vào thời không có Giáo pháp của Đức Chánh giác, để tu tập xuất ly balamật, Bồtát xuất gia tu khổ hạnh như những samôn (samana) hay những khất sĩ (người lang thang) theo “thuyết nghiệp báo – kamma vādi” và “thuyết thực hành – kiriya vādi”.
Tuy nhiên, khi Đấng Giác ngộ xuất hiện trên thế gian, Bồtát gia nhập vào tăng đoàn theo giáo pháp của Đức Phật.
Khi xuất gia Bồtát đã tự đặt mình trong giới hạnh và nghiêm trì cẩn trọng giới hạnh.
Mặt khác, để làm cho giới này được trong sạch, chói sáng, Bồtát còn thực hành thêm những hạnh nhiệt cần (ātappa) là dhutaṅga (đầuđà).
Ba bậc xuất ly balamật.
Ý chính của xuất ly balamật (pāramī) là “thoát ra” và “tầm cầu”.
A– Về sự thoát ra.
Có ba loại thoát ra: Thoát ra dục lạc, thoát ra sắc tưởng và thoát ra luân hồi.
Dục lạc là chướng ngại đầu tiên khiến cho tâm dính mắc. Đức Phật có dạy chư Tỳkhưu bài kinh “Bẩy mồi”[7] , Ngài nêu ra hình ảnh người thợ săn đặt bẩy, trong bẩy có những vật thực làm mồi để đặt bẩy những đàn nai.
Có bốn đàn nai trong đó chỉ có đàn nai thứ tư là thoát ra bẩy mồi của gả thợ săn. Và:
“Nivāpo ti kho bhikkhave pañcann’ etaṃ kāmaguṇānaṃ adhivacanaṃ:
“Chư Tỳkhưu, đồ mồi đồng nghĩa với năm dục tăng trưởng.”
Nevāpiko ti kho bhikkhave Mārassa’ etaṃ pāpinato adhivacanaṃ:
“Chư Tỳkhưu, người thợ săn bẩy mồi đồng nghĩa với ác Ma [8] .
Nevāpikaparisā ti kho bhikkhave Mārapariyāy’ etaṃ adhivacanaṃ:
“Chư Tỳkhưu, quyến thuộc của người thợ săn bẩy mồi đồng nghĩa với quyến thuộc của ác Ma [9] .
Migajātā ti kho bhikkhave samaṇabrāhmaṇān’ etaṃ adhivacanaṃ:
“Chư Tỳkhưu, đoàn nai đồng nghĩa với các Samôn Bàlamôn.
Đức Thế Tôn mô tả bốn đoàn nai:
– Đoàn nai thứ nhất vì tham mồi trong bẩy của gả thợ săn, nên bị gả thợ săn bắt. Cũng vậy, có những Samôn Bàlamôn vì tham đắm trong ngũ dục nên bị phiền não tham (ma) bắt giữ, không thể thoát ra sự trói buộc của phiền não ma. Đây là hạng người chưa thoát ra dục lạc.
– Đoàn nai thứ hai, thấy nguy hiểm của bẩy mồi, lui sâu vào trong rừng. Cuối tháng mùa hạ, thiếu lương thực, thân thể yếu gầy sức lực kiệt quệ. Vì yếu sức lực, chúng trở lại bẩy mồi, thế là bị gả thợ săn bắt giữ.
Cũng vậy, có những Samôn Bàlamôn thực hành những tà khổ hạnh, dần dần suy kiệt nên trở lại tham đắm trong ngũ dục. Đây là hạng người ban đầu cố ý thoát ra dục lạc, về sau lại trở về hưởng thụ dục lạc
– Đoàn nai thứ ba khôn ngoan, ẩn một nơi mà gả thợ săn không thể thấy. Rồi chúng ăn những mồi ấy nhưng không bị người thợ săn bắt được. Người thợ săn suy nghĩ “đàn nai này khôn ngoan”, y làm những cột trụ to lớn, cứng chắc cùng các bẩy rập khắp nơi. Và đàn nai thứ ba lại bị gả thợ săn bắt giữ.
Cũng vậy, có những Samôn Bàlamôn tu tập chứng được thiền định, nhưng vẫn còn tà kiến về “thường” hay “đoạn”, nên cũng không thoát khỏi phiền não ma là tham ái, chấp trước. Đây là hạng người chứng đạt thiền , thoát ra dục lạc, nhưng chưa thoát ra sắc tưởng.
– Đoàn nai thứ tư ám chỉ những Samôn Bàlamôn hoàn toàn giải thoát không còn bị phiền não ma (là tham) bắt giữ. Đây là vị Thánh dù là hữu học hay Vô học, các Ngài thoát ra khỏi luân hồi.
Như vậy, trong một ý nghĩa hẹp, thoát ly khỏi tà kiến xem như “xuất ly bậc cao”, tức là không còn “ý nghĩ TA và CỦA TA”.
Trong thời không có giáo pháp của Đức Chánh giác, sự thoát ra sắc tưởng (là chứng đắc thiền Vô sắc) là đỉnh cao của xuất ly balamật.
Trong thời có Giáo pháp của Đức Chánh giác, chứng đắc Nípbàn là đỉnh cao của xuất ly balamật.
Các Giáo Thọ sư có dạy : Xuất ly balamật có ba bậc: Bậc thường, bậc trung và bậc thượng.
1- Ba bậc Balamật đối với phẩm mạo xuất gia.
Môi trường có nhiều phiền não do 5 dục (sắc, thinh, hương, vị, xúc) mang đến chính là đời sống tại gia. Rừng là nơi trú ấn của những loài thú dữ, cũng vậy, đời sống tại gia là môi trường khiến nhiều phiền não dục sinh khởi.
Tuy đời sống tại gia cũng có thể thành tựu những pháp thượng nhân như thiền định, đạo quả, nhưng số lượng Thánh cư sĩ đắc Alahán hay Thánh quả Hữu học cùng thiền định so với chư Tăng thì rất khiêm tốn.
Người có tâm ý thoát ly những vướng bận do dục lạc gây nên thì phẩm mạo xuất gia là bước tiên khởi. Đời sống xuất gia là môi trường thuận lợi cho sự thành tựu những pháp thượng nhân.
a–Thế nào là xuất ly balamật bậc thường?
Đây là người thấy được nguy hiểm của năm dục lạc, từ bỏ gia đình, vợ con, tài sản, vương quyền, xuất gia hành phạm hạnh để thoát ra dính mắc trong năm dục, như tiền thân Đức Phật là Bồtát Mahā Kañcana [10] . Tức là từ khước những gì thuộc ngoại thân, để thành tựu phẩm mạo xuất gia.
b- Thế nào là xuất ly balamật bậc trung?.
Là người thấy được nguy hiểm của năm dục, quyết chí xuất gia để thoát ra năm dục lạc, cho dù phải hy sinh một phần thân thể cũng không từ nan. Như tiền thân Đức Phật là Bồtát Temiya [11] . Tức là chấp nhận hy sinh một phần cơ thể để thành tựu phẩm mạo xuất gia.
c- Thế nào là xuất ly balamật bậc thượng?.
Là người thấy được nguy hiểm của năm dục lạc, quyết chí xuất gia để thoát ra năm dục lạc, cho dù phải hy sinh mạng sống cũng không từ nan, như Công tử Sudinna [12] , Công tử Ratthapāla [13] .
Về trú xứ của bậc xuất gia.
Bậc xuất gia thường trú nơi thanh vắng, đó là một trong 10 điều tâm niệm [14] .
Lẽ thường, trú trong rừng tốt hơn trú trong thành phố cho dù là trú trong ngôi nhà trống. Trú trong rừng nhưng ở cội cây tốt hơn so với ở thảo am.
Như vậy, trú trong rừng và ở dưới cội cây là bậc thượng, trú trong rừng nhưng ở thảo am, hang động là bậc trung. Trú trong ngôi nhà trống gần thành phố hay trong thành phố là bậc hạ.
Tuy nhiên, chưa hẳn ở trong rừng là hoàn toàn tốt, nếu như tâm ý không tốt. Đức Upāli có bạch hỏi Đức Thế Tôn:
“Kati nu kho, bhante, āraññikā’ti?
“Bạch Thế Tôn, có bao nhiêu hạng người trú trong rừng?”
Đức Thế Tôn đáp:
Pañcime, Upāli, āraññikā. Katame pañca?
“Này Upāli, có năm hạng người trú trong rừng. Thế nào là năm?”
1’- Mandattā momūhattā āraññiko hoti.
Hạng ngụ trong rừng vì bản tính khù khờ, si mê.
2’- Pāpiccho icchāpakato āraññiko hoti.
Hạng ngụ trong rừng có ước muốn xấu xa và bị ước muốn ấy thúc giục.
(Là hạng ngụ trong rừng với ý nghĩ: “Nếu ta ngụ trong rừng, mọi người sẽ cung kỉnh, cúng dường nhiều đến ta…”).
3’- Ummādā cittakkhepā āraññiko hoti.
Hạng ngụ trong rừng do điên khùng, do mất trí.
4’- Vaṇṇitaṃ buddhehi buddhasāvakehīti āraññiko hoti.
Hạng ngụ trong rừng (nghĩ rằng): “Được Đức Phật và chư Thinh văn của Chư Phật khen ngợi”.
5’- Api ca appicchaññeva nissāya santuṭṭhiññeva nissāyasallekhaññeva nissāya pavivekaññeva nissāya idamatthitaññevanissāya āraññiko hoti.
Hạng ngụ trong rừng vì ít ham muốn, biết đủ, tự chế và hiểu rõ lợi ích của sự tách ly.
Ime kho, Upāli, pañca āraññikā’ti”.
“Này Upāli, đây là năm hạng người ở rừng” [15] .
Chỉ có hạng người thứ năm là cao quý, đáng tán thán.
Một trú xứ lý tưởng là một trú xứ có 5 chi phần như sau:
“Idha, bhikkhave senāsanaṃ nātidūraṃ hoti nāccāsannaṃ gamanāgamanasampannaṃ.
– Ở đây, này các tỳkhưu, trú xứ không quá xa (thành phố), không quá gần (thành phố), thuận tiện cho đến và đi [16] .
“Divā appākiṇṇaṃ rattiṃ appasaddaṃ appanigghosaṃ.
Ban ngày không nhộn nhịp, ban đêm ít tiếng động, không huyên náo.
“Appaḍaṃsamasakavātātapasarīsapasamphassaṃ.
Ít xúc chạm với ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời và các loài rắn rết.
“Tasmiṃ kho pana senāsane viharantassa appakasirena upajjhanti cīvarapiṇḍapātasenāsanagilānapaccayabhesajjaparikkhārā.
Tại trú xứ này, tìm các vật dụng như vật thực, y phục, sàng tọa, dược phẩm trị bịnh không khó khăn, không mệt nhọc.
“Tasmiṃ kho pana senāsane therā bhikkhū viharanti bahussutā āgatāgamā dhammadharā vinayadharā mātikādharā…
“Tại trú xứ này, là nơi ở của các Trưởng lão tỳkhưu đến ở, là những bậc nghe nhiều, là bậc trì pháp, trì luật, nắm giữ tổng thuyết… [17] .
Lại nữa, trong Trung bộ kinh, bài kinh Khu rừng [18] , Đức Phật có dạy khi ở rừng có 4 trường hợp tóm lược như sau:
1’- Các pháp tu tập [19] không tấn hóa, các vật dụng cần thiết cho đời sống Samôn như: Vật thực, y phục, sàng tọa, dược phẩm tìm được khó khăn thì cần phải đi ngay:
“Tena bhikkhave bhikkhunā rattibhāgaṃ vā divasabhāgaṃ yātaṃhā vanapathā pakamitabbaṃ, na vatthabbaṃ
“Này các Tỳkhưu, vị tỳkhưu ấy phải từ bỏ ngôi rừng ấy, không được ở lại, ngay lúc ban ngày hay lúc ban đêm.”
(Theo bản sớ giải thì: Khi vị tỳkhưu quán xét thấy rõ điều này, thì lập tức đi ngay dù khi đó là ban ngày hay ban đêm).
2’- Các pháp tu tập không tấn hóa, các vật dụng cần thiết cho đời sống Samôn được dồi dào, nên bỏ đi.
3’- Các pháp tu tập tấn hóa, các vật dụng tìm được khó khăn: Nên ở lại.
4’- Các pháp tu tập tấn hóa, các vật dụng tìm được dễ dàng: Phải ở lại khu rừng cho đến trọn đời không được bỏ đi.
2- Ba bậc Balamật về nguyên nhân xuất gia.
- Xuất gia bậc thường.
Là sự xuất gia như một truyền thống, hay như một khuynh hướng có từ trước, điển hình là câu truyện của Bồtát Mahā Kañcana [20]
Bồtát Mahā Kañcana.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì vương quốc Bāraṇasī (Balanại), Bồtát sinh vào một đại gia tộc Bàlamôn có gia sản trị giá 800 triệu đồng vàng, Ngài có tên là Mahā Kañcana.
Khi Ngài biết đi chập chửng thì một bé trai khác ra đời, có tên là Upa Kañcana. Khi Upa Kañcana biết đi chập chửng thì một bé trai khác được sinh ra. cứ như thế Bồtát có 6 người em trai và cô em gái út có tên là Kañcana devī (Tiểu thư Kañcana).
Bồtát khi lớn lên theo học mọi nghiệp nghệ ở kinh thành Takkasilā, song thân Ngài bảo Ngài lập gia đình, Ngài từ chối. Lần lượt các em trai lẫn nàng Kañcana devī cũng theo gương Ngài, quyết ý sống độc thân.
Khi song thân qua đời, Bồtát cùng với các người em hào phóng phân phát hết gia sản đến những người khổ như hành khất, du sĩ… Rồi tất cả đi vào rừng Tuyết xuất gia, một nữ tỳ và một gia nhân cũng xin đi theo các vị ấy.
Đoàn người đi vào Tuyết lãnh, tìm được vùng đất vừa ý gần một hồ sen, mỗi người xây dựng một thảo am cho riêng mình để ẩn cư tu hành.
Thời gian đầu, mọi người cùng nhau đi tìm vật thực là trái rừng, củ rừng … mỗi người đi riêng lẻ, khi tìm được vật thực thì gọi nhau đến để hái, nhặt rồi cùng ăn.
Bồtát suy nghĩ: “Chúng ta bỏ cả gia sản 800 triệu đồng vàng, để rồi vào rừng đi quanh quẩn tìm thức ăn, thật không hợp lý chút nào.”
Ngài hội tất cả những đạo sĩ lại, nói rằng:
“Chúng ta xuất gia với mục đích tu tập để thành tựu những pháp thượng nhân, nếu mãi tìm thức ăn để sống thì thật là vô bổ. Kể từ hôm nay, các em hãy ở đây tu tập, ta sẽ đi tìm vật thực về cho các em”.
Đạo sĩ Upa Kañcana thưa rằng:
– Các em theo anh để tu tập, vậy chính anh sẽ ở tại thảo am tu tập, trong rừng có nhiều bất trắc, vậy nữ đạo sĩ Kañcana devī cùng nữ đạo sĩ nữ tỳ cũng ở tại thảo am tu tập. Những người còn lại sẽ thay nhau, mỗi ngày một người đi tìm vật thực cho tất cả nhóm.
Tất cả đều đồng ý với sự kiện này. Do tu tập tứ vô lượng tâm nên các vị Thọ thần hoan hỷ trợ giúp thực phẩm đến các đạo sĩ đầy đủ.
Các đạo sĩ tinh cần hành pháp với một nỗ lực phi thường, khiến cho chiếc ngai vàng của vua trời Sakka (Đếthích) nóng rang.
Sau khi quán xét vua Trời biết rõ sự kiện, Ngài suy nghĩ: “Những đạo sĩ này thoát khỏi tham dục chưa nhỉ? Ta hãy thử xem sao”.
Vua Trời ĐếThích dùng thần lực của mình dấu mất phần ăn của đạo sĩ Mahā Kañcana suốt cả ba ngày. Ngày thứ nhất, Bồtát suy nghĩ: Có lẽ phần ăn của ta bị bỏ quên”, Ngài im lặng, ngày thứ hai Bồtát vẫn không thấy phần ăn của mình, Ngài suy nghĩ: “Có lẽ ta đã phạm một lầm lỗi gì chăng?”, ngày thứ ba lại không thấy phần ăn, Ngài suy nghĩ: “Nếu thật sự ta đã phạm lỗi, ta hãy hòa giải với các đạo sĩ”.
Vào buổi chiều, Bồtát cho đánh chiêng hội tất cả lại, khi tất cả đến hội đầy đủ rồi. Các đạo sĩ hỏi:
– Bạch Ngài, ai đã đánh chiêng vậy?
– Này các hiền giả, chính ta đấy.
– Bạch Ngài, có chuyện gì vậy?
– Này các hiền giả, hôm nay là ngày thứ ba ta không có phần ăn. Ngày đầu tiên ta không thấy phần của mình, ta nghĩ “người chia phần có lẽ quên phần của ta”, ngày thứ hai cũng không có , ta nghĩ “có lẽ ta đã phạm lỗi chi chăng?”, ngày hôm nay ta cũng không có phần ăn, ta nghĩ “nếu ta có phạm lỗi, ta hãy hòa giải với các hiền giả”. Do đó, ta đánh chiêng hội các hiền giả lại.
Các đạo sĩ đều xác nhận “có mang phần ăn đến cho Bồtát”, Ngài dạy rằng:
“Như vậy, chúng ta phải tìm xem ai là người trộm các phần ăn ấy. Chúng ta đã từ bỏ thế tục và tham dục ở đời, mà còn trộm cắp dù chỉ là một củ sen, đó là việc làm không xứng đáng.”
Vị đạo sĩ Upa Kañcana xin được chứng minh mình là người vô tội, khi được Bồtát đồng ý, vị ấy nguyện rằng:
“ Mong người trộm phần ăn của Tôn giả, người ấy sẽ là vị đại đế có nhiều trâu, ngựa, nhiều quốc độ…, nhiều tài sản, châu ngọc, có vợ đẹp và nhiều con trai lẫn gái”.
Nghe câu nguyện này, các đạo sĩ đều bịt tai và kêu lên: “Ôi lời thề quá nặng”. Bồtát bảo: “ Này hiền giả, lời thề trên chứng tỏ hiền giả vô tội, này hiền giả hãy ngồi vào chỗ mình đi”.
Lần lượt tất cả đều chứng tỏ mình vô tội qua các lời nguyện như sau:
Vị thứ hai nguyện: “Mong nguời trộm phần ăn của Tôn giả, người ấy sẽ là vị Quốc vương hùng mạnh, có nhiều lãnh thổ trù phú với nhiều tài sản, châu ngọc, mả não …”
Vị thứ ba nguyện: “Mong người trộm phần ăn của tôn giả, sẽ là một đại gia chủ giàu có, nhiều y phục sang trọng luôn luôn thọ hưởng mọi dục lạc.”
Vị thứ tư nguyện: “Mong người trộm phần ăn của Tôn giả, người ấy sẽ là đại trưởng giả có nhiều danh vọng, nhiều ruộng vườn, nhà kho, con cái..”
Vị thứ năm nguyện: “Mong người trộm phần ăn của tôn giả, người ấy sẽ là vị Đại tướng quân danh tiếng, khắp mọi nơi đều khiếp sợ.”
Vị thứ sáu nguyện: “Mong người trông phần ăn của Tôn giả, sẽ là một tu sĩ thông thạo khoa chiêm tinh, hiểu thông các vì sao, là một chiêm tinh gia thân cận của Đức vua, hưởng mọi vinh hoa phú quý từ Đức vua ban cho”.
Vị thứ bảy (là gia nhân) nguyện: “Mong người trộm phần ăn của Tôn giả, sẽ là một thôn trưởng có quyền uy, có nhiều lộc bổng.”
Vị thứ tám (cô em gái) nguyện: “ Mong người trộm phần của Tôn giả, sẽ là người nữ tuyệt thế giai nhân, là Hoàng hậu của vị Đại đế hùng mạnh.”
Vị thứ tám (cô nữ tỳ ) nguyện: “Mong người trộm phần ăn của Tôn giả, sẽ là Hoàng hậu sủng ái của một Đức vua có nhiều quyền lực”.
Bồtát nghe các vị đạo sĩ nguyện như vậy, Ngài nghĩ: “Nếu ta không nguyện, hẳn các đạp sĩ sẽ nghĩ rằng: “ta không mất phần ăn, nay lại vu khống cho họ”.
Nghĩ xong, Ngài nguyện rằng : “Người không mất phần ăn, lại bảo mất, mong rằng người này luôn thọ hưởngmọi dục lạc, khi sắp mệnh chung tâm vẫn còn chìm trong dục lạc”.
Nghe các lời nguyện của các đạo sĩ, vua Trời Đế Thích hiện ra và thú nhận “mình dấu mất ba ngày ăn của Đạo sĩ trưởng, nhằm mục đích xem tâm lý của các đạo sĩ có chán nản với 5 dục trần không.”
Ý chính của câu truyện này là: “xuất gia do nhàm chán ngũ dục”, nên được xem là “xuất ly bậc thường”.
b- Xuất gia bậc trung.
Là sự xuất gia phát sinh do động tâm. Như câu chuyện Bồtát Yudhañjāya [21] .
Bồtát Yudhañjāya là con trưởng của vua Sabbadatta, vua Sabbadatta có ngàn vị vương tử. Khi Bồtát Yudhañjāya trưởng thành, Ngài được phong là Phó vương.
Một hôm, vào buổi sáng ngự lên chiếc vương xa lộng lẫy của mình, đi đạo chơi trong vườn ngự uyển, Ngài trong thấy những giọt sương lóng lánh như những hạt ngọc đọng trên lá cây, ngọn cỏ, ngạc nhiên Ngài hỏi : “Đó là gì thế?”. Những người hầu cận giải thích cho Ngài biết: “Đó là những hạt sương”.
Vào buổi chiều, khi Ngài quay về lối cũ, không còn trông thấy những hạt ngọc ban sáng, hỏi rằng:
– Những hạt sương ban sáng đâu rồi?
– Bạch Ngài, khi mặt trời lên, những giọt sương tan biến rồi.
Nghe xong, Bồtát cảm thán rằng: “Đời người chẳng khác gì hạt sương, sớm có chiều không. Ta phải thoát ra gánh nặng luôn thay đổi, không bền vững này thôi”.
Thế là Ngài từ bỏ vương quyền ra đi xuất gia.
c- Xuất gia bậc cao.
Cũng là xuất gia do động tâm, giữa hai sự động tâm có sự khác biệt nhau là: Sự động tâm d0 nhận thức tính vô thường và sự động tâm do nhận thức khổ.
Chính sự động tâm do kinh cảm sự khổ cao hơn sự động tâm do nhận thức vô thường, như sự động tâm của Bồtát Ayoghara.
Vì sao sự động tâm do nhận thức khổ cao hơn sự động tâm do nhận thức được tính vố thường?.
Vì rằng: Tuy có nhận thức được vô thường nhưng chưa hẳn cho là khổ. Một số người biết “mọi sự đều thay đổi”, nhưng trong lúc khổ đang có, họ mong mõi “khổ sẽ thay đổi, để lạc sinh lên”. Tức là “khổ bị vô thường sẽ là lạc”.
Trái lại, người có trí sẽ nhận thức rằng “cái khổ cũ đã diệt, cái khổ mới đang sinh lên và sẽ hiện bày trong tương lai”. Do đó, Đức Thế Tôn thường hỏi chư tỳkhưu:
“Cái gì vô thường là lạc hay là khổ?”. Và chư tỳkhưu đã trả lời:
“Bạch Thế Tôn, là khổ”.
Bồtát Ayoghara [22] .
Trong một kiếp quá khứ Hoàng hậu của vua Brahmadatta trị vì xứ Bāraṇasī (mẹ của Bồtát Ayoghara), gây oan trái với một nữ nhân lấy chung chồng.
Trong kiếp ấy, bà là một nữ nhân vô sinh, buộc phải cưới một người vợ kế cho chồng để có người nối dõi gia tộc. Vì e ngại gia tài sẽ thuộc về người vợ kế, nếu người này có con, nên bà đã hai lần tìm cách phá hại thai bào của nữ nhân, lần thứ ba thì cả mẹ và con đều chết. Người vợ kế kết oan trái với bà, nguyện sẽ trả mối hận này.
Khi Hoàng hậu sinh ra một vương tử, người vợ kế khi xưa nay là một nữ dạ xoa, đã hiện ra, bắt hài tử ăn sống rồi biến đi, lần thứ hai cũng thế.
Đức vua cho vời các cố vấn đến hỏi:
– Hoàng hậu sinh ra hoàng nhi, đều bị dạ xoa đến bắt lấy ăn thịt. Vậy phải làm sao để hoàng nhi không bị tai hại?
Các cố vấn đưa ra nhiều cách, có người nói rằng:
– Dạ xoa rất sợ nhà sắt, hãy cho làm nhà sắt nuôi Hoàng tử trong đó.
Đức vua đồng ý với cách thức này, cho xây dựng ngôi nhà sắt kiên cố ngay trong kinh thành trong 9 tháng.
Khi Bồtát sinh ra, Ngài được nuôi dưỡng trong ngôi nhà sắt ấy, nên có tên Ayoghara kumāra (Vương tử nhà sắt), riêng nữ dạ xoa vì khát nước, đi đến hồ Anotatta (Vô nhiệt trì) uống nước, đã bị những dạ xoa giữ hồ nước chém chết.
Khi Bồtát được 16 tuổi, Ngài được phong địa vị Phó vương, Đức vua cho rước Bồtát ra khỏi nhà sắt, Ngài đi du ngoạn một vòng kinh thành, trông thấy những hoa viên xinh đẹp muôn màu rực rỡ. Ngài hỏi người hầu:
-Kinh thành này rất xinh đẹp, vì sao cha ta không cho ta ra ngoài, bắt ta phải ở trong nhà sắt?
Người hầu cho Bồtát biết rõ nguyên do, Ngài suy nghĩ:
“Ta chịu khổ trong bụng mẹ suốt 10 tháng, như người đang chịu khổ hình trong địa ngục Chảo sắt hay địa ngục Phẩn dơ.
Khi ra khỏi thai bào, suốt 16 năm ta phải sống trong ngôi nhà sắt không có cơ hội ra ngoài, chỉ vì sự chết đe dọa. Giờ đây tuy không bị chết do dạ xoa, nhưng sự chết vẫn không buông tha ta, chắc chắn ta phải chết”.
Kinh cảm trước sự chết sẽ đến, Bồtát quyết ý xuất gia. Đây là xuất gia bậc thượng.
Chúng ta có thể hiểu như sau: Bồtát Siddhattha (Sĩđạtta) khi thấy già, bịnh, tâm Ngài kinh cảm là kinh cảm bậc trung; khi Ngài thấy sự chết, tâm Ngài kinh cảm, là kinh cảm bậc cao.
3- Ba bậc Balamật về tâm lý xuất gia.
Tâm lý xuất gia ám chỉ “sự thoát ra tham ái”.
a- Thế nào là xuất gia balamật bậc thường?
Là quyết ý thoát ra “trói buộc” của năm dục: Sắc, thinh, hương, vị xúc. Nói cách khác là: Bậc xuất gia không có tâm tham ái đối với 5 dục, có tâm nhàm chán, kinh cảm sự tai hại do đắm nhiễm 5 dục mang lại, như câu truyện Bồtát Mahā Kañcana ở trên.
b- Thế nào là xuất gia bậc trung?
Là không có tâm tham ái đối với các chi thể như tay, chân, mặt mày… như Bồtát Temiya, Bồtát phải giả tê liệt suốt 16 năm.
c- Thế nào là xuất gia bậc cao?
Là quyết ý thoát ra 10 trói buộc (đã nêu ở trên). Nói cách khác, là bậc xuất gia không còn dính mắc với “cái ta” và “của ta”.
Như tiền thân Đức Phật khi là Bồtát Cūla Sutasoma [23] . Là xuất gia bậc thượng.
Câu chuyện của Bồtát Cūla Sutasoma cũng tương tự như câu truyện Bồtát Mahā Janaka, nhưng có sai khác những chi tiết.
Đức vua Cūla Sutasoma sau khi thấy sợi tóc bạc trên đầu, Ngài quyết chí xuất gia, Ngài cho triệu tập triều thần lại, công bố ý định của Ngài, triều đình van nài Ngài hãy ở lại ngôi vua, nhưng không làm thay đổi được ý Ngài. Tiếp theo là cha, me. vợ, con… níu kéo Ngài, nhưng tất cả đều thất bại. Và Ngài xuất gia theo như ý nguyện.
Nói cách khác, sở dĩ sự xuất gia của Đức vua Cūla Sutasoma gọi là xuất gia bậc cao, vì Đức vua vượt ra khỏi đầy đủ 10 trói buộc.
B- Về sự tầm cầu.
Xuất ly balamật là các tâm thiện cùng các tâm sở hợp, với ý thoát ra dục lạc hay thoát ra các cảnh giới tái sinh (các cõi).
Nói rõ hơn, khi tạo những phước lành mà có tâm mong mỏi thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi, đó chính là bước tiên khởi của xuất ly.
Xuất ly balamật là sự tìm kiếm những pháp thượng nhân (uttara manussadhammā), nói gọn: Pháp thượng nhân có hai là: Thiền định và Đạo quả Siêu thế (lokuttara dhammā).
Thoát ra các dục lạc là thành tựu trước tiên của xuất ly, khi đã áp chế được chướng ngại tham dục (kāmacchandanīvaraṇa), hành giả chứng đắc Sơ định, như kinh văn:
“Bhikkhu vivicc’eva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ pīti sukhaṃ paṭhamajjhānaṃ upasampajja viharati.
“Vị Tỳkhưu xa lià (vicca) dục, xa lìa bất thiện pháp, chứng và trú Sơ thiền, một trạng thái hỷ lạc do xa lìa dục sanh lên, có tầm có tứ” [24] .
Từ đó làm nền tảng để tu tập minh sát (vipasanā), tiến đạt Níp-bàn thoát ra khỏi dần sinh tử luân hồi và quả vị A-la-hán là cao tột, thoát ra khỏi sinh tử luân hồi, chấm dứt trọn vẹn vô minh.
“Chandamūlakā sabbe dhammā: Các pháp lấy ước muốn (chanda) làm căn bản”.
Manasikārasambhavā sabbe dhammā: Các pháp lấy tác ý làm sinh khởi” [25] .
Ước muốn (chanda), nói gọn có hai là:
– Ước muốn dục lạc (kāmacchanda) là: “Ước muốn thuộc về bất thiện”, là loại ước muốn thụ hưởng sắc, thinh, hương, vị và xúc.
– Ước muốn pháp (dhammacchanda): “ Ước muốn thuộc về thiện”, là loại ước muốn thành tựu những pháp thượng nhân.
Tác ý (manasikāra), nói gọn cũng có hai:
– Tác ý không đúng (ayoni so manasikāra: phi như lý tác ý), là nền tảng cho các bất thiện pháp sinh khởi.
– Tác ý đúng (yoni so manasikāra: Như lý tác ý hay tác ý khéo), là nền tảng cho tất cả các thiện pháp, đi từ thấp dần lên cao. Trong tác ý đúng có “tác ý thoát ra”.
Có hai tác ý thoát ra: Thoát ra dục lạc và thoát ra vô minh.
1- Thoát ra dục lạc.
Vị Bồtát tu tập pháp xuất ly balamật sẽ nương theo truyền thống của bậc Thánh (ariyavaṃsa) để hạn chế dính mắc trong 5 dục.
“Cattārome bhikkhave, ariyavaṃsā aggaññā rattaññā vaṃsāsaññā porāṇā, asaṃkiṇṇā asaṃkiṇṇapubbā, na saṃkīyanti na saṃkīyissanti, appaṭikuṭṭhā samaṇehi brahmaṇehi viññūhi. Katame cattāro?
“Này các Tỳkhưu, có bốn truyền thống bậc thánh được biết là cao tột (aggaññā), được biết lâu đời (rattañnā), được biết là truyền thống cổ sơ (porāṇā), không có nhơ bẩn, trước không bị nhơ bẩn, không bị nghi ngờ (na saṃkīyanti), không bị (người khác) ngờ vực, không bị các Samôn, Bàlamôn có trí quở trách (appaṭikuṭṭhā). Thế nào là bốn.
Idha, bhikkhave, bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena cīvarena,…
Ở đây, vị tỳkhưu biết đũ với bất cứ y phục nào, ….
Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena piṇḍapātena,…
Lại nữa, vị tỳkhưu biết đủ với bất cứ loại đồ ăn khất thực nào,…
Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu santuṭṭho hoti itarītarena senāsanena,…
Lại nữa, vị tỳkhưu biết đủ với bất cứ loại sàng tọa nào,…
Puna caparaṃ, bhikkhave, bhikkhu, bhāvanārāmo hoti bhāvanārato, pahānārāmo hoti pahānarato ….
Lại nữa, này các tỳkhưu, tỳkhưu ưa thích tu tập, vui thích tu tập, ưa thích đoạn tận, vui thích đoạn tận, mà không khen mình chê người …” [26]
Vị Bồtát thực hành bốn pháp truyền thống của bậc Thánh (ariyavaṃsa), “hài lòng với bất kỳ y phục, vật thực và chỗ ngụ nào”.
Bồtát nỗ lực thành tựu truyền thống thứ tư, hoan hỷ trong tu tập (bhāvanārāma), hành pháp thích hợp theo cơ tánh của mình qua 40 đề mục thiền, cho đến khi đạt được cận định (upacārasamādhi), an trú định (appanāsamādhi), thành tựu các tầng thiền (jhāna).
a- Vì sao phải có tác ý thoát ra dục lạc?
Bồtát thấy rõ những nguy hại của dục lạc rằng: “Đời sống tại gia là nơi trú ngụ của nhiều ô nhiễm, đồng thời có những ràng buộc như vợ, con, tài sản … đời sống tại gia là chướng ngại của sự thực hành giới hạnh, vì liên hệ đến nhiều hoạt động khác nhau như mua bán, trồng trọt, chăn nuôi…
Đời sống tại gia không phải là môi trường thích hợp để hạnh phúc xuất ly có thể thành tựu”.
Các lạc thú như giọt mật trên mũi nhọn của thanh gươm, chúng nguy hại hơn là thụ hưởng, lạc thú nhanh chóng qua đi như giọt sương đọng trên lá, sẽ tan biến khi nắng lên.
Lạc thú như vở diễn trên sân khấu chỉ được thấy bằng những ánh đèn ngắt quãng, lạc thú giống như những vật trang trí cho người điên, lạc thú ví như tấm lụa bọc thi hài đã thối rữa….
Lạc thú ví như thức ăn được đưa vào miệng một xác chết; lạc thú giống như khúc xương khô mà con chó cứ gậm, liếm mãi mà chẳng no lòng…
Sở dĩ chúng sinh đắm chìm trong lạc thú, vì bị chi phối bởi những ý nghĩ sai, bị chi phối bởi những tầm cầu sai.
Loại trừ được các ô nhiễm tâm với dòng nước sạch của giới, được củng cố bằng pháp hành dhutaṅga (đầuđà), Bồtát thực hành thân và lời nói trở nên trong sạch.
Cái gì là lạc thú ở đời?
“Yaṃ kho lokaṃ paṭicca uppajjati sukhaṃ somanassaṃ, ayaṃ loke assādo,
“Do duyên nào trong đời, thích thú (somanassa) khoái lạc (sukha) sinh lên, đó là lạc thú (assāda) ở đời”(A.i,258) [27] .
Bồ tát thấy rõ “chính do sắc, thinh, hương, vị, xúc đáng yêu, đáng hài lòng, đáng hấp dẫn, liên hệ đến ước muốn hưởng thụ chúng (kaamacchanda)”, dẫn đến sự dính líu, dính mắc nơi chúng. Nên Bồtát cố ý lánh xa dục lạc này.
Vì sao phải khước từ lạc thú (assāda)?
Vì thấy được những nguy hiểm của dục lạc. Các dục lạc luôn bị định luật vô thường chi phối, vui ít khổ nhiều.
“ Yaṃ loko anicco dukkho vipariṇāmadhammo, ayaṃ loke ādīnavo
“Cái gì ở đời là vô thường, khổ, chịu sự biến hoại, đấy là nguy hại ở đời”(sđd- A.i, 258).
Và:
“No cedaṃ, bhikkhave, loke ādīnavo abhavissa, nayidaṃ sattā loke nibbindeyyuṃ.
“Này các Tỳkhưu, nếu không có nguy hại ở đời, thì chúng sinh không có nhàm chán đời” (A.i, 260) [28] .
Có hai loại lạc thú (assāda): Lạc thú bên ngoài và lạc thú bên trong.
Lạc thú bên ngoài chính là 5 dục (kāmā: Sắc, thinh, hương, vị và xúc), lạc thú bên trong là “sự thích thú với các tầng thiền”.
“No cedaṃ, bhikkhave, loke assādo abhavissa, nayidaṃ sattā loke sārajjeyyuṃ
“Này các Tỳkhưu, nếu không có lạc thú ở đời, thời các hữu tình không bị dính mắc (sārajjeyyuṃ) với đời” (sđd,A.i, 260).
Khi mở rộng phạm vi hoạt động thì lạc thú bên ngoài bao gồm những gì có liên hệ đến sắc, thinh hương, vị, xúc như: Hội chúng, danh tiếng, lợi đắc, được cung kỉnh … Câu truyện Tôn giả Kapila là minh chứng.
Tôn giả Kapila [29] .
Tương truyền, sau khi Đức Thế Tôn Kassapa (Cadiếp) đã Vô dư Nípbàn. Có hai anh em thuộc gia tộc trưởng giả, xuất gia trong Giáo pháp của Đức Phật Kassapa, người anh tên là Sodhana, người en là Kapila, người mẹ là Sādhinī và người em gái là Tāpanā cũng xuất gia làm tỳkhưu ni.
Sau khi theo vị Tế độ sư học tập và làm tròn bổn phận với vị Tế độ sư và Giáo thọ sư một cách thành kính. Một hôm, hai vị hỏi Thầy Tế độ:
– Bạch Ngài, trong Giáo pháp này có bao nhiêu phận sự phải làm?
– Này các tỳkhưu, trong giáo pháp này có hai phận sự là: Học pháp và hành pháp.
Ngài Sodhana suy nghĩ: Ta đã già, ta hãy thực hành pháp. Sau khi nhận đề mục thích hợp với cơ tánh của mình từ vị thầy tế độ, Ngài đi vào rừng tinh cần hành pháp và chứng quả Alahán.
Ngài Kapila suy nghĩ: “Ta còn trẻ, ta hãy học pháp. Khi tuổi cao, ta sẽ thực hành pháp”.
Ngài tinh cần học thông Tam tạng, nương nhờ vào ân đức pháp học, Ngài Kapila có danh tiếng, có đồ chúng đông và phát sinh nhiều lợi đắc.
Thích thú với kiến văn và biện tài của mình, đồng thời bị dục trần chi phối, Ngài Kapila trở nên kiêu mạn. Ngài thường dùng biện tài của mình để bác bỏ ý kiến người khác, khi người nói đúng pháp thì Ngài bảo là sai pháp, khi người nói đúng luật Ngài bảo là nói sai luật, việc đáng có tội Ngài lại bảo là không tội… Ngoài ra, điều phi pháp, Ngài cho là hợp pháp, điều phi luật Ngài cho là hợp luật, điều vô tội Ngài cho là có tội…
Các bậc Samôn hiền trí nhắc nhở Ngài Kapila về Pháp luật của Đức Thế Tôn, thì Ngài khinh miệt rằng:
– Các ông hiểu biết được gì? Hỡi những con cá rỗng kia.
Rồi Tôn giả Kapila nhục mạ người nhắc nhở mình, biết được việc này, Ngài Sodhana đi đến nhắc nhở Tôn giả Kapila, nhưng Tôn giả Kapila vẫn bỏ ngoài tai. Sau ba lần nhắc nhở vẫn không thấy Kapila sữa đổi, Ngài Sodhana nói rằng:
– Này Kapila, em sẽ phải nhận ác quả vì những việc làm của mình.
Và Ngài Sodhana bỏ đi.
Chẳng những Tôn giả Kapila chế nhạo, khinh thường chư Tăng, ngay cả mẹ và em gái của Kapila cũng a tùng theo tỳkhưu Kapila, binh vực, bảo vệ cho Kapila đồng thời mắng chưởi, chế nhạo chư tỳkhưu.
Từ đó chư Tăng hiền thiện xa lánh tỳkhưu Kapila, tỳkhưu Kapila quy tụ một số chúng đệ tử có sở hành giống như ông [30] .
Một ngày nọ, vào ngày Bốtát (uposatha), tỳkhưu Kapila đi vào giảng đường, với ý nghĩ “Ta sẽ tụng đọc Giới bổn”.
Khi vị ấy ngồi pháp tọa, tuyên hỏi Luật theo thường lệ:
-“ Thưa chư Tôn giả, phải chăng hôm nay là ngày Bốtát?”.
Chư tỳkhưu đều im lặng, càm thấy mình bị xúc phạm, tỳkhưu Kapila nói rằng:
– Này các Tôn giả, nơi đây không có Pháp cũng không có Luật. Các vị có nghe hay học luật cũng như không nghe không học luật mà thôi.
Nói xong, ông bước xuống pháp tọa, tỳkhưu Kapila đã thóa mạ chư Tăng, đồng thời ông xúc phạm đến Pháp luật của Đức Phật. Khi mệnh chung, ông cùng với mẹ và em gái rơi vào địa ngục Atỳ (avīciniraya).
Vào thời Đức Phật Gotama còn hiện tiền, tỳ khưu Kapila tái sinh làm con cá có thân màu vàng óng ánh ở dòng sông Aciravatī, 500 thanh niên dân chài đã đánh bắt được con cá này, mang đến bán cho vua Pasenadi. Khi con cá hả miệng ra, mùi thối lan khắp nơi.
Nhân câu truyện này, Đức Thế Tôn thuyết lên bài kinh Dục (kāmasuttaṃ), bài kinh này được ghi chép vào Kinh Tập (suttanipāta), trong Tiểu bộ kinh (Khuddakanikāya). Xin trích lục vài đoạn như sau:
“Khettaṃ vatthuṃ hiraññaṃ vā; gavassaṃ dāsaporisaṃ.
Thiyo bandhū puthukāme; yo naro anuggijjhati. (Sn 775)
“Người nào tham đắm dục (anuggijjhati); ruộng đất, vàng, bò, ngựa.
Người nô tỳ, phục vụ; nữ nhân (thiyo) và bà con.
“Abalā naṃ balīyanti; maddantenaṃ parissayā.
Tato naṃ dukkhamanveti; nāvaṃ bhinnamivodakaṃ.(Sn-776)
“Như người không sức lực; bị các dục chinh phục (balīyanti).
Tai họa (parissaya) dẫm đạp (maddante) nó; khổ đau bước theo nó.
Như nước úa tràn vào; chiếc thuyền bị vỡ nát.
“Tasmā jantu sadā sato; kāmāni parivajjaye.
Te pahāya tare oghaṃ; nāvaṃ sitvāva pāragūti. (Sn- 777).
“Do vậy, người thường niệm, từ bỏ các loại dục.
Bỏ dục, vượt bộc lưu; tát thuyền đến bờ kia [31] .
Một câu truyện khác cho thấy người từ bỏ dục lạc, thành đạt lợi ích lớn, đó là câu truyện của Tôn giả Poṭhila.