11- Hạ thứ mười một: Đức-Phật ngự đến an cư nhập hạ tại ngôi chùa trong tỉnh lỵ Dakkhiṇa-giri gần xóm nhà Bà-la-môn Ekanāḷa cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng để tế độ ông Bà-la-môn Kasibhāradvāja xuất gia trở thành tỳ-khưu, rồi tỳ-khưu Kasibhāradvāja thực-hành pháp-hành thiền-tuệ dẫn đến chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán.
Sau khi mãn hạ, Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng du hành khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.
12- Hạ thứ mười hai: Đức-Phật ngự đến an cư nhập hạ tại xứ Verañjā theo lời thỉnh mời của ông Bà-la-môn Verañjā, cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng.
Trong thời ấy, xứ Verañjā gặp phải hạn hán mất mùa, nạn đói phát sinh, dân chúng bị chết đói rất đông, bởi vì thiếu thốn vật thực. Cho nên, chư tỳ-khưu đi khất thực không được vật thực.
Đoàn người lái buôn từ xứ Uttarāpatha cùng với 500 cỗ xe ngựa vừa đến xứ Verañjā gặp mùa mưa, nên đành phải trú lại. Họ nhìn thấy chư tỳ-khưu đi khất thực, nhưng không được gì, nên họ làm phước-thiện bố-thí cúng dường lúa là phần vật thực để nuôi ngựa, giã thành gạo đỏ đem nấu cơm, mỗi ngày dâng cúng dường đến Đức-Phật cùng chư tỳ-khưu. Đặc biệt dâng cúng dường Ngài Trưởng-lão Ānanda những món bơ, mật ong, đường, … để Ngài Trưởng-lão Ānanda làm vật thực dâng cúng lên Đức-Phật.
Trong 3 tháng an cư nhập hạ ấy, Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng phải chịu cảnh độ cơm nấu bằng gạo đỏ (Đó là một trong những quả ác-nghiệp cũ của Đức-Phật còn dư sót chút đỉnh, và cũng có ảnh hưởng đến chư tỳ-khưu gần gũi với Đức-Phật).
Sau khi mãn hạ, Đức-Phật cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng du hành khắp mọi nơi thuyết pháp tế độ chúng-sinh.