Chói Sáng Cội Nguồn Tâm
Hướng Tâm Về Cội Nguồn Vô Tướng: Như Lý Tác Ý
NHƯ LÝ TÁC Ý TRONG KINH TẠNG PALI
Bát thánh đạo sanh khởi
“ Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước và điềm tướng báo trước mặt trời mọc, tức là rạng đông; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái đi trước và
điềm tướng báo trước Thánh đạo Tám ngành sanh khởi chính là đầy đủ như lý tác ý.”
Thất giác chi sanh khởi
“Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, do pháp ấy, các giác chi chưa sanh được sanh khởi và các giác chi đã sanh đi đến tụ tập viên mãn, này các Tỷ-kheo, như như lý tác ý”.
Chánh kiến tăng trưởng
“Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, do pháp ấy, tà kiến chưa sanh được sanh khởi, hay tà kiến đã sanh đi đến tăng trưởng, này các Tỷ-kheo, như không như lý tác ý. Do không như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, tà kiến chưa sanh được sanh khởi, hay tà kiến đã sanh được tăng trưởng.”
“Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, do pháp ấy, chánh kiến chưa sanh được sanh khởi, hay chánh kiến đã sanh được tăng trưởng, này các Tỷ-kheo, như như lý tác ý. Do như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, chánh kiến chưa sanh được sanh khởi, hay chánh kiến đã sanh được tăng trưởng.”
Lậu hoặc đoạn trừ
“Này các Tỷ-kheo, thế nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người thấy: có như lý tác ý và không như lý tác ý. Này các Tỷ-kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các Tỷ-kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.”
Thiện nghiệp tiếp tục làm
“Bạch Thế Tôn, do nhân gì, do duyên gì, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm?
“Này Mahàli, do nhân vô tham, do duyên vô tham, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm. Này Mahàli, do nhân vô sân, do duyên vô sân… do nhân vô si, do nhân vô si… do nhân như lý tác ý, do duyên như lý tác ý… do nhân tâm chánh hướng, do duyên tâm chánh hướng, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm. Này Mahàli, đây là nhân, đây là duyên, thiện nghiệp được làm, thiện nghiệp được tiếp tục làm.”
Từ bỏ bất thiện
“Này các Tỷ-kheo, với vị Tỷ-kheo hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu vô thượng an ổn khỏi các triền ách, sau khi làm thành nội chi phần, Ta không thấy một chi phần nào khác, được nhiều lợi ích như vậy, này các Tỷ-kheo, tức là Như lý tác ý. Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo tác như lý tác ý, từ bỏ bất thiện, tu tập thiện.”
Diệu pháp không lu mờ
“Như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp được an trú, không bị lu mờ, không bị biến mất.”
Món ăn của Dục tham
“Cái gì là món ăn, này các Tỷ-kheo, khiến cho dục tham (kàmacchanda) chưa sanh được sanh khởi; hay dục tham đã sanh được tăng trưởng, quảng đại? Có tịnh tướng, này các Tỷ-kheo. Ở đây, nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho dục tham chưa sanh được sanh khởi, hay dục tham đã sanh được tăng trưởng, quảng đại.”
Món ăn của Sân
“Cái gì là món ăn, này các Tỷ-kheo, khiến cho sân chưa sanh được sanh khởi; hay sân đã sanh được tăng trưởng, quảng đại? Có chướng ngại tướng (patighanimittam), này các Tỷ-kheo. Ở đây, nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho sân chưa sanh được sanh khởi, hay sân đã sanh được tăng trưởng, quảng đại.”
Món ăn của Hôn trầm thụy miên
“Cái gì là món ăn, này các Tỷ-kheo, khiến cho hôn trầm thụy miên chưa sanh được sanh khởi; hay hôn trầm thụy miên đã sanh được tăng trưởng, quảng đại? Không hân hoan, biếng nhác, chán nản, ăn quá no, tâm uể oải. Ở đây, nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho hôn trầm thụy miên chưa sanh được sanh khởi, hay hôn trầm thụy miên đã sanh được tăng trưởng, quảng đại.”
Món ăn của Trạo hối
“ Cái gì là món ăn, này các Tỷ-kheo, khiến cho trạo hối chưa sanh được sanh khởi, hay trạo hối đã sanh được tăng trưởng, quảng đại? Có tâm chưa được chỉ tịnh, này các Tỷ-kheo. Ở đây, nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho trạo hối chưa sanh được sanh khởi, hay trạo hối đã sanh được tăng trưởng, quảng đại.”
Món ăn của Hoài nghi
“Cái gì là món ăn, này các Tỷ-kheo, khiến cho nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi, hay nghi hoặc đã sanh được tăng trưởng, quảng đại? Có các pháp trú xứ của nghi hoặc. Ở đây, nếu phi như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho nghi hoặc chưa sanh được sanh khởi, hay nghi hoặc đã sanh được tăng trưởng, quảng đại.”
Món ăn cho Niệm Giác Chi
“Cái gì là món ăn, này các Tỷ-kheo, khiến cho niệm giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay niệm giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn? Này các Tỷ-kheo, có các pháp trú xứ cho niệm giác chi. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho niệm giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay niệm giác chi đã sanh được tu tập làm cho viên mãn.”
Món ăn cho Trạch Pháp Giác Chi
“Và này các Tỷ-kheo, cái gì là món ăn khiến cho trạch pháp giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay trạch pháp giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn? Có những pháp thiện và bất thiện, này các Tỷ-kheo, có những pháp có tội và không có tội, có những pháp liệt và thắng, có những pháp dự phần đen và trắng. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho trạch pháp giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay trạch pháp giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn.”
Món ăn cho Tinh Tấn Giác Chi
“Và này các Tỷ-kheo, cái gì là món ăn khiến cho tinh tấn giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay tinh tấn giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn? Có phát cần giới, này các Tỷ-kheo, tinh cần giới, dõng mãnh giới. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho tinh tấn giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay tinh tấn giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn.”
Món ăn cho Hỷ Giác Chi
“Và này các Tỷ-kheo, cái gì là món ăn khiến cho hỷ giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay hỷ giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có những pháp trú xứ cho hỷ giác chi. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho hỷ giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay hỷ giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn.”
Món ăn cho Khinh an Giác Chi
“Và này các Tỷ-kheo, cái gì là món ăn khiến cho khinh an giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay khinh an giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn? Này các Tỷ-kheo, có thân khinh an, tâm khinh an. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho khinh an giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay khinh an giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn.”
Món ăn cho Định Giác Chi
“Và này các Tỷ-kheo, cái gì là món ăn khiến cho định giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay định giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn? Này các Tỷ-kheo, có tịnh chỉ tướng, bất loạn tướng. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho định giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay định giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn.”
Món ăn cho Xả Giác Chi
“Và này các Tỷ-kheo, cái gì là món ăn khiến cho xả giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay xả giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn? Này các Tỷ-kheo, có các pháp trú xứ cho xả giác chi. Ở đây, nếu như lý tác ý được làm cho sung mãn, thời chính cái này là món ăn khiến cho xả giác chi chưa sanh được sanh khởi, hay xả giác chi đã sanh được tu tập, được làm cho viên mãn.”
Hướng Về Cội Nguồn Tâm Vô Tướng ( Như Lý Tác Ý )
Khi đến với những lời dạy của Đức Phật, đặc biệt là kinh tạng Pali, chúng ta sẽ gặp một cụm từ được lập lại trong khá nhiều bài pháp, đó là “Như lý tác ý”, viên kim cương giữa những lời vàng. Bốn chữ này có tầm quan trọng như thế nào mà Đức Thế Tôn lại dạy rằng:
“ Này các Tỷ-kheo, như cái đi trước và điềm tướng báo trước mặt trời mọc, tức là rạng đông; cũng vậy, này các Tỷ-kheo, cái đi trước và điềm tướng báo trước Thánh đạo Tám ngành sanh khởi chính là đầy đủ như lý tác ý.” [1]
“Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, do pháp ấy, các giác chi chưa sanh được sanh khởi và các giác chi đã sanh đi đến tụ tập viên mãn, này các Tỷ-kheo, như như lý tác ý” [2]
(Giải nghĩa)
Tiêu đề của bài viết cũng đã nói lên ý nghĩa chính của Như lý tác ý (Yoniso manasikara). Xin được nói thêm về bốn chữ này từ một số tài liệu đáng tin cậy.
Theo tự điển Pali-Anh [3] thì yoni có 2 nghĩa:
- Womb (tử cung, cái cung của đứa con, mọi người đều từ đó sinh
- Origin (nguồn cội), place of birth (nơi sanh), realm of existence (cảnh giới hiện hữu), nature (bản chất).
Yoniso có gốc từ yoni cũng có 2 ý:
- Down to its origin or foundation (hướng về nguồn gốc hay nền tảng).
- Thoroughly, wisely, properly, judiciously (thiện xảo, khéo léo, khôn ngoan).
Và nghĩa của yoniso manasikara là:
- Fixing one’s attention with a purpose (đặt sự chú ý có mục đích),
- Proper attention (chú tâm đúng đắn),
- Having thorough method in one’s thoughts (thiện xảo trong cách hướng tâm).
“Hướng tâm về cội nguồn”cũng là nghĩa chung chung của Như lý tác ý mà một số vị thiền sư đã từng giải thích. Thầy Nhất Hạnh nói rằng ‘Khi đưa (tâm) về đúng cội nguồn, không lạc hướng, thì gọi là yoniso. Đưa đi lạc khỏi cội nguồn thì gọi là ayoniso, hay Phi như lý tác ý” [4]. Theo Ajahn Brahm thì yoniso manasikara cũng có nghĩa là “work of the mind that goes to the source”- hoạt động của tâm đi về cội nguồn [5]. Và nghĩa của cội nguồn trở nên cụ thể hơn với Ajahn Sumedho khi nói Như lý tác ý là ‘turn the mind towards the emptiness’– hướng tâm về sự trống rỗng [6].
Như vậy, khi kết hợp cả nghĩa đen và nghĩa bóng của cụm từ này thì ý nghĩa “cội nguồn” rất rõ ràng. “Tử cung”là nguồn cội từ đó những đứa con dược sinh ra, không gian của vũ trụ cũng giống như tử cung hay thai bào của người mẹ, từ đó xuất hiện mọi vật thể, khổng lồ như tỷ tỷ thiên thể, tinh tú, bé nhỏ như con sâu, cái kiến, đến và đi, sinh diệt trong cội nguồn hư không này. Biết hướng tâm thiện xảo, tác ý khéo là biết nhận ra, biết hướng vào chiều kích rỗng của hư không, tịch lăng vô vi vốn không sinh không diệt, vĩnh hằng, không bị chi phối bởi thời gian. Quan trọng hơn là nhận ra cội nguồn của thân cũng chỉ là hư không, và cội nguồn của tâm là Niết-bàn rỗng lặng.
(Tác ý vô tướng)
Cội nguồn là không gian không có tướng nên Đức Phật còn dùng một nhóm từ khác là tác ý vô tướng thay cho Như lý tác ý và tác ý vào tất cả tướng thay cho Phi như lý tác ý.
“Ở đây, Tỷ-kheo không tác ý tất cả tướng, chứng và trú Vô tướng tâm định” [7] hay
“Có hai duyên để chứng nhập vô tướng tâm giải thoát: không có tác ý nhất thiết tướng và tác ý vô tướng giới”. [8]
“Khổ và con đường thoát khổ” là cách nói đơn giản của giáo lý Tứ Diệu Đế. Nếu nhìn dưới góc cạnh tướng và vô tướng như trên thì có thể nói rằng khi tác ý nhất thiết tướng là hướng vào Khổ đế và Tập đế, còn tác ý vô tướng là hướng về Diệt đế và Đạo đế. Một là dòng phàm, một là dòng thánh. Một là cách đặt tâm của kẻ “trong mắt nhiều bụi”, một là cách hướng tâm của người “ít bụi trong mắt”. Và vô tướng chắc chắn là con đường xuất thế gian, thoát khỏi dòng phàm, nhập vào dòng thánh.
Như vậy, như lý tác ý hay tác ý vô tướng là một trong những điều kiện tối quan trong trên đạo lộ giải thoát. Xin trích thêm một dòng kinh quen thuộc:
“Có bốn pháp, này các Tỷ kheo, được tu tập, được làm cho sung mãn đưa đến chứng ngộ quả Dự-lưu. Thế nào là bốn?
- Thân cận với bậc chân nhân
- Nghe diệu pháp
- Như lý tác ý
- Thực hành pháp và tùy pháp. [9]
(An trú không)
Khi như lý tác ý hay tác ý vô tướng được thực hành viên mãn còn được gọi là an trú không:
“Thuở xưa và nay, này Ananda, Ta nhờ an trú không nên an trú rất nhiều” [10].
“Sự an trú này, này Ananda, đã được Như Lai hoàn toàn giác ngộ, tức là sau khi không tác ý với tất cả tướng, chứng đắc và an trú nội không” [11].
Đây chắc chắn là tinh thần của “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang, tâm kia kỳ diệu sẽ sanh khi không trụ vào bất kỳ tướng gì hay khi tâm trở về với cội nguồn vô tướng.
Khi Phật nói với Tôn giả Ananda điều này, có phải an trú không chỉ là chứng nghiệm đăc biệt của chính Ngài hay là kinh nghiệm chung cho những bậc thầy giác ngộ? Đây là câu trả lời của Đức Thế Tôn:
“Phàm có những Sa-môn hay Bà-la-môn nào trong quá khứ sau khi chứng đạt, đã an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh Không tánh, tất cả các vị ấy sau khi chứng đạt đều chỉ an trú cứu cánh vô thượng thanh tịnh này”.
An trú không là trạng thái tâm như hư không, hiện hữu yên lặng như hư không thuần khiết tựa bầu trời không mây, mặt hồ không sóng.
“Này Rahula, hãy tu tập sự tu tập như hư không. Do sự tu tập như hư không, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.” [13].
(Hư không)
Hư không vốn có 10 đặc tính như Niết -bàn, , cảm nhận những đặc tính này có thể nắm bắt phần nào trạng thái của Niết Bàn, trạng thái cội nguồn thuần khiết của tâm thức vô tướng:
- không già (na jivati)
- không chết (na miyati)
- không thay đổi (na cavati)
- không sanh (na uppajjati)
- không bị ép chế (appasayhan)
- không bị tổn hại (acprakahaniyam)
- không có nơi nương đỡ (anissatam)
- đường đi của loài phi cầm (vihinkakamanam)
- không có gì cả (niravaranam)
- không bờ không mé (anantam) [14]
Không gian là trạng thái vô vi của vũ trụ, là chân lý muôn đời vô thủy vô chung, dù có Phật ra đời hay không thì không gian vẫn thường hằng như thế. Khi một bậc giác ngộ xuất hiện là con đường này được khám phá lại, được mở ra và ánh sáng của Niết-bàn tỏa chiếu.
“Như người dựng đứng lại những gì đã bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho những người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào bóng tối để những ai có mắt có thể thấy” [15] là lời tán thán từ những người khi được Phật khai thị Pháp nhãn, nhìn được cội nguồn.
Không có khả năng cảm nhận được cội nguồn trống rỗng của không gian vô tướng thì “không có cửa” để thoát khỏi khổ đau. Kinh Phật đã xác định rõ ràng như vậy:
“Hư không, không dấu chân
Ngoài đây, không sa-môn” [16]
Và đường bay ra khỏi sinh tử luân hồi nhất định phải là đường không có dấu chân của tướng, thoát khỏi tầm mắt của Mara.
“Không vô tướng giải thoát
Như chim giữa hư không
Hướng chúng đi khó tìm” [17]
hay:
“Không vô tướng giải thoát
Như chim giữa hư không
Dấu chân thật khó tìm” [18]
Mọi người chúng ta được kết nối bởi không gian, di chuyển trong không gian, hít thở bầu không khí của không gian, nhìn được mọi vật nhờ ánh sáng của không gian, nghe được các âm thanh từ sự tĩnh lặng của không gian. Nhưng có mấy ai nhận ra được sự có mặt “âm thầm, lặng lẽ” của cội nguồn này? Như cá sống một đời trong nước mà cứ hỏi nước là chi?
Có lẽ vì thế mà có lời thiền như lời của thiền sư Bạch Ẩn:
Vì không biết đạo nằm ngay trước mắt
Người ta tìm nó tận đâu đâu
Như người ở ngay giữa dòng sông
Mà kêu gào xin nước uống. [19]
Con đường, cánh cửa dẫn đến Niết-bàn là hư không, là “đường vô lộ” (pathless path) hay “vô môn quan” (gateless gate). Mặc dù ‘sờ sờ’ ra đó nhưng vì không biểu hiện (unmanifested) nên rất khó để nhận ra. Tuy vậy nếu không có hậu cảnh vô hình đó làm nền tảng thì mọi hình tướng không có nơi xuất hiện, sinh diệt như phần tiền cảnh (foreground), biểu hiện ra (manifested) để giác quan có thể cảm nhận được.
Hai chiều kích vô tướng và tướng có thể dễ dàng nắm bắt hơn qua những hình ảnh như bầu trời và mây, đại dương và sóng, v.v.. vẫn thường được dùng. Một vĩnh hằng, bất biến, một tạm bợ, đổi thay.
“Pháp ở khắp mọi nơi” là câu thường hay nghe, nhưng phần lớn chỉ nhận biết được phần biểu hiện của pháp hữu vi, còn phần không biểu hiện của nguồn cội vô vi là không gian vô tướng thì hay “bị quăng cục lơ”. Pháp vô vi (vô tướng) là không gian, không có nhân duyên, không sanh không diệt. Pháp hữu vi (tướng) là vật thể (đối tượng, cảnh), có điều kiện, chịu sự chi phối của sinh diệt Có thể gọi hai loại pháp này là Dhamma và dhammas. Dhamma (viết hoa, số ít) là pháp vô vi vì chỉ có một, và dhammas (viết thường, số nhiều) là pháp hữu vi vì thiên hình vạn trạng, trùng trùng duyên khởi của chúng.
Nếu nhìn được hai chiều vô vi và hữu vi của thực tại, một bất biến, một vạn biến, ta sẽ có một “tầm nhìn” nhận biết rộng mở (spacious awareness). Tầm nhìn này có trung tâm và ngoại vi. Ngoại vi thì thay đổi, vô thường, còn trung tâm thì thường hằng, bất động.
Cách nhìn toàn diện thực tại này ngày xưa Đức Phật cũng đã từng dạy:
“Này Ananda, có hai giới này: hữu vi giới và vô vi giới. Này Ananda, cho đến khi biết được, thấy được hai giới này là vừa đủ để nói “Tỷ-kheo thiện xảo về giới”. [20].
Giới là tướng trạng đặc biệt của các pháp. Hữu vi giới là tướng trạng của tướng hay đối tượng của lục căn, vô vi giới là tướng trạng của không gian vô tướng, đối tượng chỉ có thể trực nhận bằng Pháp nhãn, Pháp nhĩ. Nhìn và phân biệt được hai tướng trạng này, chúng ta có sự lựa chọn trong việc chánh hướng tâm. “Tâm đặt đúng hướng sẽ đâm thủng được vô minh” còn “tâm đặt sai hướng thì chuyện vô minh bị đâm thủng là không thể xảy ra”. [21]
Tác ý vô tướng có nghĩa là tác ý đến không gian “không có gì”, nơi trống rỗng, không có tướng nhưng bao trùm các tướng. Khi hướng tầm nhìn vào trống rỗng của không gian, hướng tầm nghe vào tĩnh lặng của không gian, chúng ta lập tức sẽ kinh nghiệm được những thoáng nhìn về giải thoát. Tâm lập tức nhẹ nhàng khi thoát ra được sự trói buộc của vọng tưởng khi dính mắc với hình tướng. Tướng vẫn có đó nhưng vì không được đặt tâm nên trở nên vô tác dụng, không có sự dội lại của tưởng. nguồn gốc của mọi đảo điên. Ý nghĩa thâm sâu của công án thiền “tiếng vỗ một bàn tay” nằm ở đây chăng?
Hán tự có chữ “tưởng” 想 gồm chữ “tướng” 相 nằm trên chữ “tâm” 心 mang ý nghĩa rất sâu sắc về ý đạo này. Do tâm hướng vào tướng, phi như lý tác ý, nên sinh vọng tưởng. Mà “ vọng tưởng là bệnh hoạn. là cục bướu, là mũi tên” cần phải chữa trị, cần phải giải phẩu, cần phải nhổ ra và “khi vọng tưởng không có chuyển động, vị ấy được gọi là một ẩn sĩ tịch tịnh” [22]. Khi vọng tưởng đã được đoạn diệt chính là tâm không tướng, hay vô tướng tâm định, là tâm đã trở về với cội nguồn tự tính, vốn rỗng không, vốn thanh tịnh và chói sáng sẵn có của mình.
(Phi như lý tác ý hay Tác ý tất cả tướng)
Nếu thế gian như căn nhà lửa và Niết-bàn ví như lửa được dập tắt thì tác ý vào tướng giống như thêm nhiên liệu cho lửa, hay Niết-bàn ví như thoát khỏi rừng rậm thì phi như lý tác ý giống như loanh quanh mãi trong rừng, không thấy đường ra. Đó là lý do Phật luôn luôn dạy về sự nguy hiểm của tướng:
“Ai sống nhìn tịnh tướng
Không hộ trì các căn
Ma uy hiếp kẻ ấy
Như cây yếu trước gió” [23]
Lục căn có trở về với sự thanh tịnh được hay không hoàn toàn được quyết định bởi sự tu tập cách không nắm giữ tướng, không dính mắc tướng, không chấp thủ tướng. Trong tam học Giới Định Tuệ, Giới là một nền tảng chắc chắn cho sự tu tập Định Tuệ vì Giới giúp ta không bị trói buộc bởi tướng – nguồn gốc của lậu hoặc, nhiễm ô.
“Khi mắt thấy sắc, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Khi tai nghe tiếng… mũi ngửi hương… lưỡi nếm vị… thân cảm xúc… ý nhận thức các pháp, không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu, bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, chúng ta sẽ tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn”. [24]
(Không gian bên trong vật thể)
Cảnh giới vô tướng không chỉ là không gian bao trùm bên ngoài các vật thể, làm nền cho các tướng có mặt mà còn nằm bên trong mọi vật thể. Thuật ngữ Phật giáo gọi hư không nằm trong sắc pháp này là sắc giao giới , sắc hư không, hay không giới, không đại.
Ngày nay, khoa học vật lý lượng tử (quantum physics) khi nhìn vào cấu trúc nguyên tử (atomic structure) đã thấy được tính rỗng không của các dạng vật chất, 99,9999 % là hư không. Cơ thể người cũng không ngoại lệ.
“Các nhà vật lý cho ta biết rằng tính rắn chắc, đông đặc của vật chất chỉ là một ảo tưởng của chúng ta. Ngay cả những thứ dường như rắn chắc, trong đó bao gồm cả cơ thể chúng ta, thì chúng chứa gần cả 100 phần trăm là khoảng không – khoảng cách giữa các nguyên tử quá lớn lao so với kích thước của chúng. Hơn nữa, ngay bên trong mỗi nguyên tử thì hầu hết là khoảng không. Phần còn lại thì như là một làn sóng, hay một tần số rung động, nhiều hơn là những vi thể của vật rắn.” (Physicists tell us that the solidity of matter is an illusion. Even seemingly solid matter, including your physical body, is nearly 100 percent empty space – so vast are the distances between the atoms compared to their size. What is more, even inside every atom there is mostly empty space. What is left is more like a vibrational frequency than particles of solid matter). [25]
Khám phá này dù mới đối với nhân loại nhưng cũng chỉ là một sự công nhận của khoa học đối với trí tuệ của Phật cách đây hơn 25 thế kỷ. “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” [26] hay “sắc ví như bọt nước” [27] là những lời kinh tuyệt vời khi nói về sự thật này đã được tuyên thuyết khi xưa.
Khi nhìn được sự “đồng nhau cả thảy” của muôn loài vốn “giai không” thì “bình đẳng tánh trí” sẽ tự động sanh khởi. Tâm từ bi sẽ tự nhiên hiển lộ khi nhận ra “ai cũng như ai”, “tất cả là một, một là tất cả”. Sự khác biệt chỉ là phần nổi trên bề mặt, còn chiều sâu thì vạn pháp đều trống rỗng giống nhau.
Dù không có không gian thì vật thể không thể xuất hiện nhưng nếu không có vật thể thì không thể hiểu được không gian. Hiểu biết về bản chất rỗng không của thế giới hình tướng không có nghĩa là phủ nhận chúng mà ngược lại chúng ta càng biết trân trọng và biết ơn sự có mặt của chúng. Vì nếu không có hình tướng thì không thể hiểu được vô tướng là gì. Phi như lý tác ý hay không tác ý tất cả tướng mang ý nghĩa sâu sắc là đừng dính mắc vào giá trị “vị ngọt” ảo tạm thời của chúng. Chúng ta sử dụng thân ngũ uẩn này để “xuất ly” nên phải khéo chăm sóc, giữ gìn như người thủy thủ bảo vệ chiếc thuyền của mình khi vượt sóng ra khơi.
(Kết luận)
Trong đoạn mở đầu có trích dẫn bài kinh với ý một người đi trong bóng đêm, nếu như lý tác ý sẽ thấp thoáng thấy được ánh sáng tờ mờ của rạng đông với tràn đầy hy vọng về buổi bình minh đang tới. Cũng giống như người thấy ánh sáng cuối đường hầm, tuy vẫn còn trong bóng tối nhưng niềm vui hy vọng đó thật ngây ngất biết bao.Thực hành như lý tác Tánh Không là cốt lõi của Phật giáo, dù truyền thống nào cũng không thể phủ nhận sự thật này. Nếu chưa thấy được tinh túy này thì coi như vẫn còn là ‘ngoại đạo’ (bên ngoài con đường).
“Như lý nhìn các pháp
Hiện rõ tánh trống không” [28]
“Hãy nhìn đời trống không
Thần chết không thấy được” [29]
Đi vào vô tướng là đi vào được cốt lõi của hiện tại (sanditthiko) , không gian luôn luôn có mặt “ở đây và bây giờ” với sự hiện hữu đơn thuần trong sạch vốn có của nó. Không gian không có thời gian, vượt ngoài ảo tưởng của thời gian, không bị chi phối bởi thời gian (akaliko), đến để mà thấy, thể nhập để thấy chân lý (ehipassiko), có khả năng xuôi về Niết-bàn (opanayiko) và chỉ người trí mới tự mình chứng hiểu (paccatam veditabbo vinnuhi).
Với cách nhìn Như lý tác ý hay Tác ý vô tướng theo lời dạy của Đức Phật như thế này (chánh kiến), khả năng phân biệt được đâu là đường đến Tham Sân Si, đâu là đường về Vô Tham Vô Sân Vô Si sẽ rất rõ ràng.
“Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, do pháp ấy, chánh kiến chưa sanh được sanh khởi, hay chánh kiến đã sanh được tăng trưởng, này các Tỷ-kheo, như như lý tác ý. Do như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, chánh kiến chưa sanh được sanh khởi, hay chánh kiến đã sanh được tăng trưởng. [30]
“Ta không thấy một pháp nào khác, này các Tỷ-kheo, do pháp ấy, tà kiến chưa sanh được sanh khởi, hay tà kiến đã sanh đi đến tăng trưởng, này các Tỷ-kheo, như không như lý tác ý. Do không như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, tà kiến chưa sanh được sanh khởi, hay tà kiến đã sanh được tăng trưởng”. [31]
Theo dấu chân Phật, những dấu chân không dấu, là thực hành như lý tác ý. Diệu pháp liên hệ đến không vẫn tỏa sáng trên thế gian này nếu còn có những người con của Như Lai với tâm hướng về chiều kích vô tướng, vô vi của Niết-bàn.
“Như lý tác ý, này các Tỷ-kheo, đưa đến diệu pháp được an trú, không bị lu mờ, không bị biến mất.” [32]
Và diệu pháp không bị lu mờ, không bị biến mất khi vẫn còn có người hiểu được pháp thù thắng của bài kinh Tứ Niệm Xứ – cánh cửa mở vào vô tướng hay con đường thể nhập tánh không.
TỨ NIỆM XỨ – CON ĐƯỜNG VỀ LẠI CỘI NGUỒN TÂM CHÓI SÁNG
Minh Tuệ Đỗ Minh
Kinh Tứ Niệm Xứ trong Trung bộ kinh 10 và Trường bộ kinh 22 là hai bản kinh thường được đọc.“Con đường duy nhất đưa đến sự thanh tịnh cho chúng sanh, đoạn tận khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn” còn được lập lại lần cuối cùng trước khi Đức Thế Tôn nhập diệt.
“Này Ananda, thế nào là vị Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?
“Này Ananda, ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân, quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ… đối với tâm… đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác.” [1]
Qua lời kinh này, chúng ta dễ dàng nhận thấy “ánh sáng ngọn đèn” và “chánh pháp” là cùng một ý nghĩa: Ánh sáng của chân lý. Điều đó cũng đồng nghĩa là mỗi người đều có khả năng thắp đèn để thấy được chân lý ngay nơi chính mình. Khả năng tự mình là ánh sáng cho chính mình, còn được gọi là phật tính, ai cũng có sẵn, nhưng phật tính này cũng giống số zero, lớn nhỏ tùy nơi bụi trong mắt ít hay nhiều. Người thì bé như hạt bụi chìm trong bóng tối, người như ngọn đèn, và cũng có người như mặt trời, mặt trăng.
Khi đã nhận ra mình có ngọn đèn, có khả năng thắp đèn thì việc còn lại chỉ là giữ cho ngọn đèn cháy mãi. Con đường thiền chính là hành trình điều chỉnh ngọn đèn này mỗi ngày một sáng hơn để bóng tối mỗi ngày một giảm hơn.
(Xin mở ngoặc nói thêm về hai từ “phật tính”, ở đây phật được viết thường, không phải viết hoa, với ý nghĩa là tiềm năng giác ngộ, khả năng tỉnh thức)
Đọc toàn bộ bài kinh Tứ Niệm Xứ, từ nổi bật và quan trọng nhất là Biết, có biết có, không có biết không có. Cái biết giống như phần nền vô tướng ẩn sâu để các pháp hữu vi “vô thường, anicca, khổ, dukkha, không phải là tôi, không phải của tôi, anatta” nổi lên bề mặt và được cái biết này quan sát.
Cái biết này còn được gọi là Cái biết không sinh không diệt và đối tượng được biết là các pháp sinh diệt của thân, thọ, tâm, pháp. Nói như thiền sư Achan Chah:
“Tất cả mọi suy nghĩ chỉ là sự dao động của tâm, và cái biết thì không sinh và không diệt. Cái mà chúng ta gọi là tâm – tất cả những sự dao động
– chỉ là cái tâm thông thường. Nó không phải là cái tâm thật. Cái tâm thật chỉ ở đó, nó không sinh vầ không diệt.” [2]
Cốt lõi của thiền quán là nhận ra được cái tâm thật hay cái biết không sinh không diệt. Cái tâm và cái biết này còn được gọi bằng nhiều cách khác nhau: người quan sát, người nhận biết, người chứng kiến v.v…
Ví dụ, khi quan sát hơi thở, cùng với nhưng cảm giác và suy nghĩ đi theo như “đang thở vào”, “đang thở ra”, hay “phồng”, xẹp” … Nếu chỉ có thế thôi thì chưa đủ, mà phải thấy được rằng tất cả những pháp này đều được quan sát một cách toàn diện bởi một nhân chứng vô hình, vô tướng “đang ở đâu đó” nhưng “biết hết mọi sự”. Nhân chứng “đứng phía sau” này chính là ông chủ, còn pháp sinh diệt hữu vi “phía trước” là khách.
Tinh túy của thiền quán chính là nhận ra ông chủ này.và quan trọng hơn là duy trì được vị trí bất động của người chủ như một trung tâm để quan sát những gì diễn ra ở phần ngoại vi, luôn thay đổi, giống như ánh sáng cố định của mặt trời chiếu soi sự vận hành, chuyển động của trái đất.
Trong thiền tập, cái biết này thường được diễn đạt bằng câu “Lấy tâm nhìn tâm” khi nói về nghệ thuật chánh niệm. Nghĩa sẽ rõ ràng hơn nếu thêm chân và vọng hay vô vi và hữu vi để trở thành “lấy chân tâm nhìn vọng tâm” hay “lấy tâm vô vi nhìn tâm hữu vi”. Cách thiện xảo nhất vẫn là “bám chân buông vọng” hay “biết vọng liền buông”. Có nhiều cách để trình bày hai thực tại này, xin dùng biểu đồ đơn giản dưới đây:
VÔ VI | hữu vi | ||
TÂM | tâm | ||
Lấy | CHÂN | Nhìn | vọng |
THỰC | giả | ||
TĨNH | động | ||
THƯỜNG HẰNG | vô thường | ||
CHỦ | khách | ||
GỐC | ngọn |
(Trong biểu đồ có chữ in và chữ thường để phân biệt thật và giả)
Hoặc biểu đồ dùng “số” sau đây : số zero tượng trưng cho chân tâm và những con số 1,2,3…tương trưng cho vọng tâm.
Hay trong biểu đồ của môn học Vi Diệu Pháp, nếu dời vòng tròn của Niết-bàn vô vi từ góc phải, bên dưới trở thành vòng tròn bao trùm các pháp hữu vi sinh diệt ở bên trong thì sẽ thấy rõ hơn chiều kích của hai thực tại: một tuyệt đối vô sinh bất diệt và một tương đối hữu diệt hữu sinh.
Như vậy, ta thấy có hai phần rõ rệt, phần tâm và phần trạng thái tâm, tâm thật và tâm giả, hay ta thật và ta giả. Tâm thật, Ta thật là gì? Tâm giả, Ta giả là ai?
“Bạn là bầu trời, mọi thứ khác đều là thời tiết” (You are the sky. Everything else is just the weather”) của Pema Chodron, .một vị nữ thiền sư truyền thống Tây tạng là câu trả lời hay cho câu hỏi này.
Mà bầu trời hay không gian là gì? Chỉ là sự rỗng không, rỗng không nhưng tròn đầy. Chẳng là ai cả, chẳng là gì cả nhưng dung chứa tất cả. Chưa bao giờ sinh, chưa bao giờ diệt. Đó là lý do tại sao để hiểu được cái biết không sinh không diệt (chân tâm) này, hư không vô sanh bất diệt là một “đối tượng” thích hợp để cảm nghiệm. Chúng ta cùng đọc mười đặc tính của hư không trong kinh Mi-tiên vấn đáp:
Thứ nhất, hư không và Niết bàn đều không già.
Thứ hai, hư không và Niết bàn đều không chết.
Thứ ba, hư không và Niết bàn đều không rời đi, rớt đi. Thứ tư, hư không và Niết bàn đều không tái sanh. Thứ năm, hư không và Niết bàn không ai áp chế được. Thứ sáu, hư không và Niết bàn không ai trộm cắp hoặc sở hữu được.
Thứ bảy, hư không và Niết bàn đều không có gì dính mắc được. Thứ tám, hư không là nơi đi lại của chim, chư thiên, người và dạ xoa có thần thông- Niết bàn là nơi đi lại của bậc Thánh.
Thứ chín, hư không và Niết bàn không có gì ngăn ngại.
Thứ mười, hư không và Niết bàn là nơi mênh mông không có chỗ cuối cùng. [6]
Khi cảm nhận được chiều kích vô vi của hư không cũng là lúc ánh sáng của tánh biết hòa nhập được với ánh sáng cội nguồn, nhận ra chiều vô biên, vô lượng “thường chiếu”, “tịch chiếu” sẵn có của tâm thức thanh tịnh, thuần khiết.
Và khi hành thiền quán Tứ Niệm Xứ, phải luôn luôn nhớ đến cái biết như hư không này để quan sát “thời tiết” lúc này, lúc khác của thân, thọ, tâm pháp và không đồng hóa với chúng, cho chúng là ta, là của ta. Đây chính là mục đích của con đường giải thoát, kinh nghiệm được “tâm không bám víu”, và điều đó đã thể hiện rất rõ ràng trong lời kinh qua câu nói được Phật lập đi lập lại rất nhiều lần: “Vị ấy không nương tựa, không chấp trước bất cứ một tướng gì ở trên đời”.
Cặp mắt phân biệt được cái gì là thật, cái gì là giả, đâu là vô vi thường hằng, đâu là hữu vi hư vọng là yếu tố quyết định được trí tuệ và an lạc trên đường tu. Vô vi là thật vì không bao giờ mất, tại sao lại không bao giờ mất? Bởi vì không có nhân duyên thì không thể có sinh, có diệt: có thể nói là “không có gì để mất”. Cũng như hư không, không có gì làm sao mất được. Vạn pháp sinh và chết trong lòng của hư không, nhưng hư không là bất tử.
Chân thật, biết chân thật
Không chân, biết không chân
Chứng đạt được chân thật
Do chánh tư, chánh hạnh [7]
Chân thật chính là ánh sáng vô tướng của tánh biết, không chân là bóng tối của hình tướng qua bao nhiêu kiếp sống đã che mờ tánh biết chân thật đó. Hay nói cách khác là nhận ra được bản chất chói sáng của tánh biết là nhận ra cái “ta thật”. Và nói như thế có phải hành trình phá vỡ sự đồng hóa với bản ngã hay cái “ta giả” sẽ được dễ dàng hơn chăng?
Dù trong kinh Pali, Phật chỉ nói “Tâm này là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi các cấu uế từ ngoài vào.Tâm là sáng chói và tâm này được gột sạch các cấu uế từ ngoài vào.” [8]. không nói gì đến cái ta thật nhưng cũng đã hàm ý là có một cái tâm thật chói sáng, vô nhiễm và một tâm giả ô nhiễm, lu mờ.
Và để dễ hiểu, chúng ta có thể nói thế này: Cái gì mà ta có thể quan sát được thì cái đó không phải là ta. Ta chính là người quan sát nên không thể thấy được chính mình, giống như con mắt có thể thấy mọi vật nhưng không thể thấy được chính nó.
Trong nhiều truyền thống Phật giáo, có những cách nói khác nhau để tạm thời phân biệt được thật và giả cũng là một điều chính đáng, như nói Ta thật là “Tánh biết” hay “chơn tâm”, “chơn ngã”, “chơn tánh”, “tự tánh”, “minh tâm”, “phật tánh” .v..v… hay gì gì đi nữa cũng không thành vấn đề, quan trọng ở đây là hiểu được ngôn từ, khái niệm chỉ là những ngón tay (pointer) hay bảng chỉ đường (signpost) và vượt qua nó để thực chứng chân lý vốn tịch diệt, không lời, chỉ có thể nhận ra bằng tĩnh lặng, vô ngôn. Kinh nghiệm được vô ngã, vốn bất khả tư nghì, không thể bằng chữ nghĩa.
Mở đầu bài kinh Tứ niệm xứ, câu “tinh cần, chánh niệm, tỉnh giác” khi “quán tánh sanh diệt” là một câu rất quan trọng về thái độ khi đi vào thiền. Niệm (sati) nghĩa là nhớ (remember), là nghĩ (think), là biết (know). Nhớ là nhớ đến cái biết chân thật, nghĩ là nghĩ đến chiều kích vô ý của tâm tỉnh thức và biết là biết rõ cái biết không sinh không diệt cùng với bản chất vô thường của các pháp sinh diệt. Và chánh niệm (samma-sati) với ý nghĩa sâu nhất là sự hiện hữu đơn thuần, trống rỗng và thanh tịnh như hư không. Tỉnh giác là tinh cần gìn giữ kiên cố ngọn đèn quan sát này, không để bị pháp sanh diệt cuốn đi, lúc nào cũng nhớ, cũng nghĩ đến nhiệm vụ nhận biết của người chủ nhà.
Với thái độ như vậy để “nhiếp phục tham ưu ở đời”, ta sẽ hiểu được sự thảnh thơi, ung dung, tự tại, nổ lực không cần dùng sức trong thiền quán nếu biết nghệ thuật điều chỉnh cách nhìn. Không làm gì cả, chỉ hiện hữu với “cái đang là”, “xuôi thuận” với những gì đang xảy ra, “cắm rễ” và “song hành” với không gian và sự tĩnh mặc ngoài thời gian của phút giây hiện tại. Dù đi, đứng, nằm. ngồi, tâm lúc nào cũng “tĩnh tọa” và rộng sáng như bầu trời.
Có phải đây là nghệ thuật “dừng lại” và “buông bỏ” dành cho những ai muốn “vượt bộc lưu” hay “đặt gánh nặng xuống” mà Phật đã dạy khi xưa?
QUÁN PHÁP
Tu là vượt qua phiền não, có thể nói phần Quán Pháp trong Tứ Niệm Xứ thể hiện rõ ràng được quá trình “vượt qua” này, như một câu kinh trong Bát-nhã: “gate gate paragate parasamgate bodhi svaha!” (Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên kia, hoàn toàn vượt qua, đến bờ kia).
Phần này gồm có sáu phần: năm triền cái, ngũ uẩn, sáu nội ngoại xứ, tứ đế, thật giác chi và bát chánh đạo. Với nội dung của các pháp được nêu ở đây, ta có thấy được tiến trình thanh lọc của con đường từ chặng đầu đến chặng cuối.
“Vạn sự khởi đầu nan” là vượt qua năm triền cái. Cửa ải đầu tiên phải đối diện là cảnh “tắc nghẽn giao thông”, đối diện với “đài phát thanh không ngừng nghỉ”. Tình trạng đầy gai góc chập chùng này còn gọi là năm chướng ngại hay năm pháp che lấp. Chướng ngại vì là bức màn che lấp mất ánh sáng của cội nguồn tâm, làm mờ “bản lai diện mục”. “Gương mặt nguyên thủy” này không thể hiển lộ, không như thật biết được, thấy được cũng chính vì năm triền cái.
“Này Bà-la-môn, một bát nước trộn lẫn với thuốc nhuộm gôm lắc, hay màu đỏ tía, hay màu xanh, hay màu vàng, và ở đây một người có mắt muốn ngắm bóng mặt của mình, không có thể như thật biết được, thấy được.”(tham triền cái)
“”Này Bà-la-môn, một bát nước được lửa đun sôi, sôi lên sùng sục, sôi lên cuồn cuộn. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được.”(sân triền cái)
“Này Bà-la-môn, một bát nước bị rong rêu che phủ. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm khuôn mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được.” (hôn thụy triền cái)
“Này Bà-la-môn, một bát nước bị gió thổi, dao động, chấn động, nổi sóng. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm khuôn mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được.” (trạo cử triền cái)
“Này Bà-la-môn, một bát nước bị khuấy động, khuấy đục, khuấy bùn, đặt trong bóng tối. Ở đây, một người có mắt muốn ngắm khuôn mặt của mình, không thể như thật biết và thấy được“ (hoài nghi triền cái). [9]
Khi tâm bị che lấp bởi năm triền cái được ví như một người bị mắc nợ, người bịnh hoạn, tù nhân, kẻ nô lệ và người giàu đi qua sa mạc. Khi đã thoát ra được những triền cái này là cảm giác sung sướng, hoan hỷ của một người trả hết nợ, người khỏi bệnh, người tự do, người đến được đất lành bình an. [10]
Và cách vượt qua khéo léo nhất vẫn là cách giữ vừng vàng tấm gương trước thiên hình vạn trạng của hình ảnh đi qua tấm gương đó.
Tấm gương và hình ảnh phản chiếu là một trong những ví dụ hay để minh họa cho cái biết và đối tượng được biết. Tấm gương vô hình (invisible), vô tướng (formless), vô ngã (nonself) với những đặc tánh như hư không, bao giờ cũng chói sáng (luminuous), rỗng không (empty), mở rộng (open, spacious), sẵn sàng tiếp nhận (receptive), yên tĩnh (silent). Gương chỉ làm nhiệm vụ của người quan sát (observer), người chứng kiến (witness) đơn thuần với cái nhìn không chống đối (non-resistence), không phán xét (non-judgement), không dính mắc (non-attachment). Hình ảnh phản chiếu của tham, sân, hôn thụy, trạo cử, hoài nghi cứ như thế đi qua, không lưu lại dấu vết trong gương. Gương không làm gì cả, chỉ ghi nhận và buông xả.
Khi qua được “mịt mù” của ngũ cái, sự hiểu biết về bản chất giả tạm của ngũ uẩn sẽ rất sâu sắc, cũng như tính chất duyên khởi của vạn pháp phát sinh khi lục căn (sáu nội xứ) tiếp xúc với lục trần (sáu ngoại xứ), bốn sự thật cùng với cảnh “trời quang mây tạnh”, gió lặng sóng yên” tràn đầy “vị mặn giải thoát” của thất giác chi và bát chánh đạo.
QUÁN THÂN – QUÁN THỌ – QUÁN TÂM
Khi bước vào thiền, giai đoạn khởi đầu bao giờ cũng với hơi thở, “cảm nghiệm toàn thân” với hơi thở ra, hơi thở vào thực sự là chuyển động của gió khi kết nối không gian bên ngoài và không gian bên trong thân. Cách quan sát này có thể gọi vui là “gió vào nhà trống” hay “gió lộng vườn không”. Khi gió hòa với đất, nước, lửa tạo được quân bình giữa không đại là bước khởi đầu vững chắc gọi là giai đoạn “an tịnh thân hành”, tạo nền tảng cho những cảm nghiệm tiếp theo như “cảm giác hỷ thọ”, “tâm hân hoan”, tâm định tĩnh”, tâm giải thoát” v.v..[11]
Xin trở lại với ví dụ “bầu trời và thời tiết” đã đề cập phần trên. Bầu trời là không gian vô biên của tâm nhận biết, gió là hơi thở, mây là suy nghĩ, còn những rung động khác như nhịp tim, mạch đập, cảm giác dễ chịu, khó chịu là động đất,. Vẫn với nguyên tắc “lấy tĩnh chế động”, hướng tâm đến sự an bình và tĩnh lặng của bầu trời phải là “ưu tiên hàng đầu”, còn gió, mây …thuộc về thời tiết đổi thay là “chuyện nhỏ”, dầu cường độ thế nào cũng giữ cái biết “bình chân như vại” để quan sát bản chất vô thường của chúng nhưng không “té ngã”. Khi mới bước vào thiền, “té lên té xuống” là điều không thể tránh khỏi, nhưng cũng giống như học võ, mối lần té và cố gắng đứng dậy là mỗi lần công lực tăng lên. Con chim trước khi bay vào không trung cũng “rớt lên, rớt xuống” không ít lần với đôi cánh còn non yếu.
Để kinh nghiệm được cội nguồn vô tướng của tâm, dấu hiệu đầu tiên để nhận biết sự sáng chói, rỗng không này chính là những khoảng trống vô niệm (no-mind gap), không có suy nghĩ, chỉ có cái biết thuần túy nhưng không có nội dung. Khi tâm lắng xuống, trong dần, chúng ta sẽ quán sát và kinh nghiệm được những khoảng trống yên lặng này (silent gap) giữa hai luồng tư tưởng. Khoảng trống vô niệm và yên lặng này giống như khoảng trời xanh giữa hai đám mây, hay khoảng cách giữa những giòng xe khi lưu thông trên đường. Một tâm trí tán loạn, phóng dật, thích suy tư, diễn dịch, không được tu tập chỉ như mây chập chùng, hay như xe cộ ồn ào, dày đặc, không thể hiểu được sự vi diệu của trạng thái gọi là “sự im lặng của bậc thánh” này. Đây là một trong những ý nghĩa sâu thẳm của Trung đạo, con đường ngược dòng đi giữa các tướng thuộc thế gian!
Hãy cùng đọc một đoạn ngắn trong phần quán tâm:
“Này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo sống quán tâm trên tâm? Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo, với tâm có tham, tuệ tri: “Tâm có tham”; hay với tâm không tham, tuệ tri: “Tâm không tham”. Hay với tâm có sân, tuệ tri: “Tâm có sân”; hay với tâm không sân, tuệ tri: “Tâm không sân”.v..v
Giữa dòng tâm thức khi xuất hiện tâm không có tham, tâm không có sân, tâm không có si, tâm được thâu nhiếp, tâm quãng đại, tâm có định, tâm có giải thoát … chính là những khoảng trống, có thể nói đó những thoáng nhìn (glimpse) được sự thuần khiết của tâm thức cội nguồn. Với nhiệt tâm và tỉnh giác, theo thời gian những khoảng trống này sẽ kéo dài hơn, kinh nghiệm về tâm định vô tướng sẽ sâu hơn. “Satori” (flash of enlightenment, ánh chớp giác ngộ) là một từ quen thuộc để diễn tả trạng thái này, khi satori được mở rộng ra sẽ là samadhi.
Trên con đường thể nhập “cứu cánh vô thượng không tánh”, giai Đoạn cuối của cuộc hành trình được Phật diễn tả rất đẹp khi nói về Chánh Định (samma samaddhi), hay Thánh định, Tứ thiền siêu thế. Đây là những chặng cuối bước vào sự an tịnh trầm lặng, không động không rung chuyển của bậc thánh. Mỗi chặng đều bắt đầu bằng những từ khác nhau nhưng có cùng một nghĩa: “ly”, “xả”, “diệt”.
“Ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và an trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ từ trước, chứng và trú Thiền thứ tư không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh ”.[13]
Những trạng thái này là kết quả chứng nghiệm cuối cùng của quá trình “ly tướng”, giống như trang giấy trắng chào vĩnh biệt những con chữ cuối cùng rơi ra khỏi nó để trở về thuở tinh khôi không chữ ban đầu, bởi vậy tâm giải thoát còn được gọi là “tâm nguyên thủy” (original mind) hay “sơ tâm” (beginner’s mind). Thơ thiền Việt Nam có chữ “vô tâm” (no-mind, zero mind) trong “đối cảnh vô tâm” cũng là ý này.
Giai đoạn cuối của việc “tháo chốt nhổ đinh” để phá tan ngôi nhà đã qua bao kiếp sống nổi trôi trong tam giới cũng là giai đoạn thể nhập được chánh định này, sự phá chấp cuối cùng.
Ôi! Người làm nhà kia
Ngươi không làm nhà nữa
Đòn tay ngươi bị gãy
Kèo cột ngươi bị tan [14]
Hành thiền thực ra không phải để chứng đạt được cái gì chưa có mà là xả ly tướng để phát hiện lại kho báu đã có sẵn bên trong. Vàng ròng vốn sẵn đó, chỉ cần loại sắt kẽm đồng chì. Nước trong vốn sẵn đó, chỉ cần lọc được rong rêu, bùn sình. Vải vốn trắng đó, chỉ cần gội rửa cấu uế, tạp dơ. Lõi cây vẫn có đó, chỉ cần buông cành lá, vỏ cây. Mặt trăng sáng vẫn sáng đó, chỉ cần thoát khỏi mây mù. Những hình ảnh quen thuộc này đã được Phật giảng trong nhiều bài kinh. [15]
Nói cách khác, chân lý đã có sẵn đó rồi, chỉ cần “hồi đầu” thì sẽ nhận ra thôi. Viêc cần làm là buông bỏ các tướng, đặt gánh nặng của các tướng xuống thì vô tướng sẽ hiển lộ, bóng tối sẽ tan dần khi ánh sáng sanh lên.
Để kết bài, xin mượn hai bài thơ thiền quen thuộc, tuy ngắn nhưng chứa đựng tinh thần “không chấp trước bất cứ một tướng gì ở trên đời” của Kinh Tứ Niệm Xứ và cũng chính là cốt tủy “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” trong kinh Kim Cang.
- “Nhạn quá hàn đàm, nhạn khứ nhi đàm vô lưu ảnh”
“Phong lai sơ trúc, phong khứ nhi trúc bất lưu thanh’’
- “Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm” [16]