Tiêu đề 8- TRÍ HIỂU RÕ VỀ ÁI.
Chánh kinh.
“Chư Hiền, thế nào là ái (taṅhā), thế nào là tập khởi của ái, thế nào là đoạn diệt của ái, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của ái?
Chư Hiền, có sáu loại ái này: sắc ái, thinh ái, hương ái, vị ái, xúc ái, pháp ái. Từ tập khởi của thọ, có tập khởi của ái, từ đoạn diệt của thọ có đoạn diệt của ái và Thánh đạo tám ngành này là con đường đưa đến đoạn diệt ái”
Giải.
1- Ý nghĩa của ái.
Taṅhā là ham muốn, yêu thương, tham luyến, vui thích, khao khát.
Pāli có giải thích:
Vatthu kāmaṃ paritassa tīti = taṅhā
“Thích thú với vật dục gọi là ái.”
Hay là:
Vatthukāmaṃ tassanti paritassati sattā etāyāti = taṅhā:
“Điều nào khiến chúng sinh ham thích, mê đắm trong vật dục, điều đó gọi là ái”.
Bốn khía cạnh thực tính của ái.
– Trạng thái: Là nhân (sinh khổ) (hetulakkhaṇa).
– Phận sự: Thỏa thích cao độ trong sáu cảnh (abhinandanarasā).
– Thành tựu: Khao khát hơn thực trạng (atittabhāva paccupaṭṭhānā).
– Nhân cần thiết: Có thọ (vedanāpabbaṭṭhānā).
Chữ atittabhāva = ati (quá, hơn nhiều, vượt qua)+ ta (điều đó) + bhāva.
Atittabhāva là “muốn có được hơn điều đang có”.
Chính sự “mong mỏi hơn thực trạng đang có”, nên (ái) còn được hiểu “sự khao khát”, sự khao khát này không hề thỏa mãn, ví như người khát nước lại uống phải nước mặn, sự khát càng tăng thêm.
Lại nữa, chính vì sự thành tựu của ái là “khao khát” nên các Luận sư bảo rằng: “Chi pháp của ái là tâm sở tham hợp trong tám tâm tham”.
“Tisso imā bhikkhave, taṅhā. Katamā tisso?
Kāmataṅhā, bhavataṅhā, vibhavataṅhā.
“Này các Tỳkhưu, có ba khát ái (taṅhā) này. Thế nào là ba?
Dục khát ái, hữu khát ái, phi hữu khát ái” [71]. (tasinā đồng nghĩa với taṅhā).
Nên hiểu rằng: Khát ái chỉ cho ái tăng thịnh quá mức trở thành gốc rễ tham (lobhamūlaṃ) dẫn đến khổ cảnh, vì quả của tâm tham khi làm việc tái sinh sẽ dẫn chúng sinh rơi vào khổ cảnh, trái lại ái có thể làm duyên cho sinh về thiên giới. Như một người ưa thích các cảnh trời, nên tạo phước lành, khi mệnh chung được sinh về cõi trời.
Tuy nhiên, xét cho cùng, khi còn thích thú bất cứ cảnh giới tái sinh nào thì còn “dính mắc khổ” (cái khổ sinh tử), cho nên chi pháp của ái liệt kê vào thành phần tham (nhân tham – lobhahetu), nói rõ hơn: Chính là dục tham (chandarāga), vì “các pháp lấy dục (chanda) làm căn bản” [72].
“Yo, bhikkhave, rūpasmiṃ chandarāgo taṃ pajahatha.
Evaṃ taṃ rūpaṃ pahinaṃ bhavissati ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṃkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ
“Này các Tỳkhưu, hãy từ bỏ dục tham (chandarāga) đối với sắc.
Như vậy sắc ấy sẽ được đoạn trừ, nhỗ tận gốc rễ, làm cho như thân cây Tālā, làm cho không thể tái sinh, không thể sinh khởi trong tương lai”.
Yo vedanāya chandarāgo taṃ pajahattha ….
Yo saññāya chandarāgo taṃ pajahattha ….
Yo saṅkhāresu chandarāgo taṃ pajahattha ….
Yo viññāṇasmiṃ chandarāgo taṃ pajahattha.
Evaṃ taṃ viññāṇaṃ pahinaṃ bhavissati ucchinnamūlaṃ tālāvatthukataṃ anabhāvaṃkataṃ āyatiṃ anuppādadhammaṃ
Này các Tỳkhưu, hãy từ bỏ dục tham đối với thọ…. đối với tưởng… đối với hành… [73]
Này các Tỳkhưu, hãy từ bỏ dục tham đối với thức.
Như vậy thức ấy sẽ được đoạn trừ, nhỗ tận gốc rễ, làm cho như thân cây Tālā, làm cho không thể tái sinh, không thể sinh khởi trong tương lai”.
Một thiên nhân bạch hỏi Đức Thế Tôn rằng:
“Kenassu nīyati loko, kenassu parikassati.
Kissassu ekadhammassa, sabbeva vasamanvagū’ti.
“Vật gì dẫn dắt đời, vật gì tự não hại.
Và có một pháp nào, mọi vật đều tùy thuộc?”.
Đức Thế Tôn đáp rằng:
“Taṇhāya nīyati loko, taṇhāya parikassati.
Taṇhāya ekadhammassa, sabbeva vasamanvagū’ti.
“Chính ái dẫn dắt đời, chính ái tự não hại.
Chính ái là một pháp, mọi vật đều tùy thuộc.” [74]
Một khi ái sinh lên rồi thì điều chưa có muốn có, có rồi lại muốn có thêm, vì những cảnh dục là đối tượng hấp dẫn của ái, nên sự khao khát không hề thỏa mãn, khao khát nối tiếp khao khát.
Một người chưa có lợi lộc muốn có lợi lộc, có lợi lộc rồi lại muốn có danh, có danh lại muốn có quyền lực, muốn có chức vị cao sang trong xã hội … Đó là bản chất của khát ái.
Và hai hình ảnh: người nghèo ước muốn cái chưa có (ví như ái), người giàu muốn điều đang có được tăng thịnh (ví như khát ái). Xét ra khát ái tệ hại hơn ái.
Luận sư Buddhaghosa ví “ái như người sờ soạng trong bóng tối để tìm vật, khát ái là tìm được vật, nắm giữ chặt là thủ”.
Nên dục thủ và ái đều có chi pháp là tâm sở tham (lobha cetasika)
Bà Thánh nữ Sumedhā khi chưa xuất gia Tỳkhưu ni, còn công chúa con vua Konca, ở thành Mantāvati. khi vua Anikaratta muốn cưới nàng làm vợ, nàng từ chối vì có chí nguyện xuất gia. Đức vua Anikaratta ngỏ ý “nếu nàng bằng lòng sẽ giao nàng trọn vẹn tài sản cả vương quốc để nàng làm phước sự và thọ dụng dục lạc tuổi thanh xuân”, nhưng nàng trả lời rằng:
Cātuddīpo rājā Mandhātā, āsi kāmabhogina maggo,
Atitto kālaṅkato, na cassa paripūritā icchā. (Therī, 488).
“Mandhātu là vua,
Chúa bốn châu hưởng dục,
Dục lạc ấy tối thượng.
Tuy vậy, khi vua chết.
Cũng chưa được thỏa mãn.
Satta ratanāni vasseyya, vuṭṭhimā dasadisā samantena,
Na catthi titti kāmānaṃ, atittāva maranti narā. (Therī, 489).
Ước vọng chưa đầy đủ.
Dầu có mưa bảy báu.
Khắp mười phương tràn đầy.
Không có dục thỏa mãn.
Người chết chưa thỏa mãn” [75].
Một đoạn kinh khác cho thấy hình ảnh của khát ái là:
“Mahaddhanā mahābhogā, raṭṭhāvantopi khattiyā.
Aññamaññābhigijjhanti, kāmesu analaṅkatā.
“Sát Đế lỵ giàu lớn, tài sản quốc độ lớn.
Luôn luôn còn tham muốn (abhigijjhanti), hưởng dục không biết ngán (analaṅkatā)”[76].
Tương truyền có vị Tỳkhưu, vì bắt chước Bậc Đạo Sư khổ hạnh, tinh tấn tu tập quá mức nên chết thình lình khi đứng dựa vào cây cột.
Vị ấy tái sinh lên cõi Ba mươi ba thấy các thiên nữ ca múa chào đón, ngỡ mình còn Tỳkhưu, vị ấy không hoan hỷ với sự chào đón của các thiên nữ, tiếng hát của các thiên nữ vị ấy có cảm giác là tiếng than khóc của ngạ quỷ.
Sau khi biết mình mệnh chung, sinh về cõi này, nên cùng các thiên nữ viếng vườn Nandavana, nhưng tâm tư vị Thiên tử cảm thấy nhàm chán khu rừng kỳ diệu cùng các thiên nữ, vị ấy đi đến Đức Thế Tôn, chỉ trích các thú vui chư thiên với bài kệ:
“Accharāgaṅasaṅ ghuṭṭhaṃ, pisācagaṅasevitaṃ,
Vanantaṃ mohanaṃ nāma, kathaṃ yātrā bhavissatī’ti.
“Thiên nữ đoàn tụ hội, ngạ quỷ chúng tới lui
Rừng ấy danh rừng si, làm sao có lối thoát”[77].
Đại trưởng lão Mahāsi Sayadaw có lời bình [78].
“Ngạ quỷ thiếu thốn vì đói khát, chư thiên chìm đắm trong dục lạc lại thiếu thốn như ngạ quỷ”. Điều này nghe thật thú vị.
Tức là, cho dù thọ dụng dục lạc, chư thiên vẫn thấy đói khát. Ý muốn nói mãnh lực của ái là như thế.
Một khi ái cường thịnh, chúng sinh ấy sẵn sàng hành động để chiếm cho được vật “đang khao khát”, bất chấp hậu quả sau đó. Hình ảnh con thiêu thân sẵn sàng lao vào ngọn lữa khi đam mê ánh lửa, có thể là ví dụ cho loại ái cường thịnh này.
Đức Raṭṭhapāla có trả lời cho vua Koravya:
“Ūno loko atitto taṅhādāso ti’kho:
Thế gian là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái” [79].
Một khi ái sinh lên rất khó trừ diệt, Đức Phật ví ái như con nhện chăng lưới bắt mồi, nhưng chính nó nằm trong chiếc lưới mà nó đã tạo ra [80].
Hành giả thực hành pháp niệm thân hay niệm thọ để ngăn chận ái.
Bản Sớ giải kinh Tứ niệm xứ có dạy:
-Quán thân trên thân để diệt trừ ái thô thiển (là dục ái).
– Quán thọ trên thọ để trừ diệt ái vi tế (là pháp ái) .
– Quán tâm trên tâm để diệt trừ tà kiến thô (tức là chấp thường hay chấp đoạn).
– Quán pháp trên pháp để diệt trừ tà kiến vi tế (là chấp ngã) ”.
Có câu hỏi: Ái khác với Thủ ra sao?.
Đáp rằng: Về bản thể pháp thì giống nhau, tức là xuất phát từ nhân tham (lobhahetu), nhưng có điểm khác biệt là: Ái là nhân sinh khổ, còn Thủ thì nắm giữ cái khổ.
Nói cách khác: Ái là đi tìm cái khổ (pariyesamadukkha), như phải vất vả để tìm kiếm dục lạc, còn Thủ thì gìn giữ cái khổ (arakkhadukkha), như phải lo âu sợ mất vật quí đang có, khi mất thì sầu bi, ưu não … Hoặc phải đánh đổi nhiều thứ khác để gìn giữ cái “yêu thích đang có”, hoặc phải tìm nhiều cách để bảo vệ “cái yêu thích đang có”.
2- Các loại ái.
Ái được phân tích theo nhiều khía cạnh, như: Ái năm uẩn, ái bốn món vật dụng, ái sáu cảnh trần …
“Katamo ca, bhikkhave, bhāro? Pañcupādānakkhandhā tissa vacanīyaṃ.
“Này các Tỳkhưu, thế nào là gánh nặng (bhāra)?[81] Năm thủ uẩn là câu trả lời.
“Katamañca bhikkhave, bhārādānaṃ?.
Yāyaṃ taṅhā ponobhavikā, nandīrāgasahagatā, tatratatrābhinandinī, seyyathidaṃ-kāmataṅhā, bhavataṅhā, vibhavataṅhā.
Này các Tỳkhưu, thế nào là cầm gánh nặng lên?
Chính là tham ái đưa đến tái sinh, câu hữu với hỷ và tham, đi tìm hỷ lạc chỗ này, chỗ kia. Tức là dục ái, hữu ái, phi hữu ái.
“Katamañca bhikkhave, bhāranikkhepanaṃ?
Yo tassāyeva taṅhāya asesavirāganirodho cāgo paṭinissaggo mutti anālayo.
Này các Tỳkhưu, thế nào là đặt gánh nặng xuống?
Chính là sự đoạn diệt, ly tham khát ái ấy một cách hoàn toàn, sự từ bỏ, sự xả ly, sự giải thoát, sự không chấp thủ.” [82].
Hay:
“Cīvare piṇḍapāte ca, paccaye sayanāsane,
Etesu taṅhaṃ mākāsi, mālokam, punarāgami
“Y áo, đồ khất thực, Vật dụng và sàng tọa.
Chớ có tham ái chúng, chớ trở lui đời này.”[83]
Trong bản kinh, Đức Sāriputta (Xálợiphất) nêu ra ba ái là: Dục ái (kāmataṅhā), hữu ái (bhavataṅhā), phi hữu ái (vibhavataṅhā), Đức Phật đã tuyên thuyết ba ái này trong kinh Chuyển pháp Luân.
- Dục ái (kāmataṅhā).
Là sự thích thú hưởng thụ (hay ao ước hưởng thụ) sáu cảnh dục lạc, đây chỉ là sự hưởng thụ thuần túy sáu cảnh có liên quan đến dục (sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp) không liên quan gì đến thường kiến hay đoạn kiến.
Các Ngài giáo thọ sư có giải thích:
“Kāmetīti kāmo: (Sáu) cảnh trần gọi là dục.”
“Kāmo ca so taṅhācāti = kāmataṅhā:
Thích thú trong các cảnh trần, gọi là dục ái”.
Sau đây là ái sáu cảnh trần.
*- Ái (cảnh) sắc (rūpataṅhā).
Là thích thú trong các hình thể, màu sắc … Tức là thích thú đối với những cảnh do mắt nhận biết.
Các Ngài có giải thích:
“Rūpe taṅhā = rūpataṅhā: Thích thú trong sắc, gọi là ái sắc.”
Thông thường chúng sinh thích thú trước những hình ảnh, màu sắc xinh đẹp, … tuy nhiên không hoàn toàn là như vậy.
Ái cảnh sắc phụ thuộc vào mãnh lực “ngũ ngầm (anusaya)” có nơi chúng sinh ấy.
Có người thích cảnh “chiều tà”, người lại thích “buổi bình minh tươi sáng”, có người thích cảnh “núi non hùng vĩ”, kẻ lại thích cảnh “điêu tàn, hoang phế”…
Không hẳn phải là cảnh tốt đẹp mới quyến rũ tâm rơi vào tham ái, đôi khi chính những cảnh thô xấu, quyến rũ tâm rơi vào tham ái. Như có người thích nhìn cảnh “đánh đấm ”, cảnh “chiến tranh”, cảnh “tai nạn rùng rợn”, cảnh “ma quái” …
*- Ái (cảnh) thinh (saddataṅhā).
Là thích thú trong các loại âm thanh mà tai nhận biết.
Các Ngài có giải thích:
“Sadde taṅhā = saddataṅhā:
Thích thú trong âm thanh, gọi là thinh ái.”
Lẽ thường, những âm thanh du dương dễ làm say đắm lòng người, nhưng không hẳn là vậy, có người lại thích dùng những âm thanh thô xấu, cộc cằn (để mắng người khác), có người thích thú trước những âm thanh mắng chưỡi của người khác (dĩ nhiên không phải mắng chưỡi y mà mắng chưỡi người y ghét), đó là do ái ngủ ngầm có trong tâm người ấy.
Trong một cuộc tranh tài giữa thiên chủ Sakka và chúa Atula Vepacitt về khéo nói thì:
“Bhāsitā kho Vepacittinā asurindena gāthāyo. Tā ca kho sadaṇḍāvacarā sasatthāvacarā, iti bhaṇḍanaṃ iti viggaho iti kalaho.
“Những bài kệ của chúa Atula Vepacitti nói lên. Đó là những lời bạo lực, những lời đao kiếm, đưa đến đấu tranh, đưa đến bất hòa, đưa đến gây hấn.
”“Bhāsitā kho Sakkena devānamindena gāthāyo. Tā ca kho adaṇḍāvacarā asatthāvacarā, iti abhaṇḍanaṃ iti aviggaho iti akalaho.
“Những bài kệ của thiên chủ Sakka nói lên. Đó là những lời không bạo lực, không đao kiếm, không đưa đến đấu tranh, không đưa đến bất hòa, không đưa đến gấy hấn. [84]
Đoạn kinh mô tả, khi chúa Atula nói kệ ngôn thì các Atula tán thán, các thiên chúng im lặng. Khi vua trời Sakka nói kệ ngôn thì thiên chúng tán thán, các Atula im lặng. Và trong cuộc thi này, vua Sakka đã chiến thắng vì khéo nói.
Rõ ràng ái ngủ ngầm như thế nào thì thích cảnh thinh như thế ấy.
Có một Dạ xoa xấu xí, thấp lùn, bụng to (okotimako) ngồi lên chỗ ngồi của thiên chủ Đếthích (Sakka), khi chư thiên phẩn uất, bực tức, chán ghét thì nó càng xinh đẹp. Vua Trời Đếthích đảnh lễ dạ xoa, nói lời dịu ngọt thì nó trở nên thô xấu.[85] Rõ ràng, dạ xoa thích lời thô xấu.
*- Ái (cảnh) mùi (gandhataṅhā).
Là thích thú trong các mùi do mũi nhận biết.
Các Ngài giải thích:
“Gandha taṅhā = gandhataṅhā:
Thích thú trong các mùi (thơm), gọi là hương ái.”
Những hương thơm từ hoa, từ quả, từ thân cây, từ lõi cây, từ lá cây … cũng là vật quyến rũ tâm rơi vào dục nhiễm.
Ái hương cũng có sự khác biệt nhau, có người thích hương nồng, có người thích hương thoang thoảng nhẹ nhàng… Phần lớn chúng sinh đắm nhiễm trong hương thơm và dùng hương thơm để che lấp mùi xú uế.
So sánh với sắc ái, có lẽ hương ái chiếm địa vị cao hơn, như một cánh hoa xinh đẹp không có hương hoặc có mùi hôi thối sẽ không hấp dẫn so với cánh hoa không đẹp nhưng có hương thơm.
Nhưng về khía cạnh nổi bật thì sắc ái chiếm vị trí khá rõ vì sắc ái thường được nhận thức trước tiên, do đó ái sắc được nêu lên trước tiên.
*- Ái (cảnh) vị (rasataṅhā).
Là thích thú trong các vị chất do lưỡi nhận biết. Có người thích vị ngọt, kẻ thích vị đắng (café đen không đường), vị cay (men rượu), vị chua…
Các Ngài có giải thích như sau:
“Rasa taṅhā = rasataṅhā:
Thích thú trong vị, gọi là ái vị”.
*- Ái (cảnh) xúc (phoṭṭhappataṅhā).
Là thích thú trong sự đụng chạm êm ái do thân nhận biết. Như đứa bé thích được mẹ bồng ẩm, vuốt ve…
Các Ngài có giải thích như sau:
“Phoṭṭhappa taṅhā = phoṭṭhappataṅhā:
Thích thú trong pháp, gọi là ái pháp”.
*- Ái (cảnh) pháp (dhammataṅhā).
Là thích thú trong pháp khả lạc, khả hỷ do tâm nhận biết.
Các Ngài có giải thích như sau:
“Dhamma taṅhā = dhammataṅhā:
Thích thú trong pháp, gọi là ái pháp”.
Nên ghi nhận: Đối với 5 cảnh trần thuộc về sắc pháp, như cảnh sắc chẳng hạn, khi cảnh sắc thâm nhập vào nhãn môn phát sinh lộ nhãn môn, từ sátna tâm Hướng ngũ môn đến tâm Đoán định, ái vẫn chưa sinh khởi, bao giờ tâm đổng lực (javanacitta) sinh lên, bấy giờ ái sinh mới sinh khởi và sẽ hoàn chỉnh sau những lộ ý nối lộ ngũ.[86]
Ký hiệu:
Bh: Hữu phần (Bhavaṅga)
V: Hữu phần Vừa qua (ātītabhavaṅga).
R: Hữu phần Rúng động (bhavaṅgacalana).
D: Hữu phần Dứt dòng (bhavaṅgupaccheda).
K 5: Tâm Hướng ngũ môn (pañcadvāravajjana citta).
N : Nhãn thức (cakkhuviññāṇa).
T : Tâm Tiếp thâu (sampaṭicchana citta).
Q : Tâm Quan sát (santīraṇa citta).
P : Tâm Phán đoán (voṭṭhapana citta).
C: Tâm Đổng lực (javana citta).
Tương tự như thế đối với thinh ái, vị ái, hương ái và xúc ái.
Pháp ái chỉ xuất hiện trong lộ ý thuần túy, tuy cũng có liên hệ đến sắc, thinh, hương, vị xúc, nhưng những cảnh (ārammaṇa) đó là do tầm (vitakka) hay tưởng (saññā) tạo ra, gọi là dục tầm (kāmavitakka), dục tưởng (kāmasaññā), tâm dính mắc vào những cảnh ấy gọi là pháp ái.
Lại nữa, sự tự hào về trí thông minh, trí nhớ, giới, định mà mình đã thực hành cũng là pháp ái.
Hoặc thích thú với mắt tinh tường, tai thính, da nhạy cảm … của mình, cũng là pháp ái.
Hoặc khi nghĩ về những pháp thiện như bố thí, trì giới, thiền định (như thiền Chỉ hay thiền Quán) đã thực hành, có tâm dính mắc thích thú, cũng là pháp ái.
Trong Sớ giải kinh Trung bộ (majjhimānikāyatthakathā), có ghi:
“Dhammarāgena dhammanandiyāti padavayehi samathavipassanāsu chandarāgo vutto:
Tham luyến, hỷ ái với hai pháp căn bản lả Chỉ và Quán, gọi là dục tham”.
Bàlamôn Vedabbha.
Thuở xưa, khi vua Brahmadatta trị vì xứ Bāraṇasī (Balanại), có Bàlamôn Vedabbha ở trong ngôi làng nhỏ.
Bàlamôn Vedabha có môn chú thuật cao cấp là “khi có sự giao hội của các vì sao, nếu nhìn lên trời, đọc chú thuật ấy lên thì mưa bảy báu (gồm vàng, bạc, san hô, hổ phách, ngọc đỏ và kim cương) sẽ rơi xuống. Bồtát theo học nghệ thuật này của Bàlamôn Vedabbha.
Một hôm Bàlamôn Vedabbha phải sang nước Ceti vì một vài việc cần thiết, Bồtát cùng đi với ông.
Đến một khu rừng, hai thầy trò bị năm trăm tên cướp trú trong rừng bắt giữ. Năm trăm tên cướp này khi bắt được người, chúng cử sứ giả đến nhà nạn nhân để đòi tiền chuộc, nên bọn chúng có tên gọi là “bọn cướp sứ giả”.
Nếu chúng bắt được cha con, chúng cử người cha đi, đem tiền đến chuộc người con về.
Nếu chúng bắt được mẹ con, chúng cử người mẹ đi, bắt được anh em, chúng cử người anh đi, bắt được thầy trò, chúng cử trò đi.
Khi bắt được thầy trò Bồtát, chúng cử Bồtát đi. Bồtát đảnh lễ thầy, thưa rằng:
– Con sẽ trở lại trong vài ngày, thầy chớ sợ. Nhưng thầy hãy nghe con, hôm nay là ngày sao hội, thầy chớ vì chịu đựng cực khổ không nỗi mà đọc chú thuật, khiến mưa bảy báu rơi xuống. Khi ấy cả thầy lẫn bọn cướp sẽ diệt vong.
Rồi Bồtát lên đường trở về mang tiền đến chuộc thầy ra. Hôm ấy là ngày trăng rằm, nhìn các chòm sao, Bàlamôn Vedabbha biết có giờ khắc sao hội, ông suy nghĩ: “Vì sao ta phải chịu khổ như thế này? Ta hãy làm mưa bảy báu rơi xuống, sau khi nhặt được tài sản, bọn cướp sẽ đối xử tốt với ta”. Ông hỏi bọn cướp:
– Vì sao các ông bắt thầy trò chúng tôi?
– Vì muốn có tài sản.
– Nếu vậy, các ông hãy thả trói tôi, cho tôi mặc áo mới, thoa xức hương thơm, rồi để tôi ở một mình, các ông sẽ có tài sản.
Bọn cướp làm theo lời Bàlamôn Vedabbha. Khi đến giờ sao hội, ông nhìn trời đọc lên chú thuật, từ trên trời mưa bảy báu rơi xuống trước mặt ông.
Bọn cướp nhặt tài sản gói lại, rồi tha Bàlamôn Vedabbha, chúng đi ra khỏi rừng. Vì không biết đường đi, nên Bàlamôn đi theo sau bọn chúng.
Trong khu rừng lớn ấy có bọn cướp thứ hai gồm 500 tên, bọn cướp thứ nhất bị bọn thứ hai chặn bắt, vì bất ngờ nên bọn cướp thứ nhất đành đầu hàng.
Nhìn thấy Bàlamôn cũng bị bắt, bọn chúng suy nghĩ “vị cứu tinh của chúng ta kia rồi”. Chúng hỏi bọn cướp thứ hai:
– Vì sao các người lại bắt chúng tôi?
– Vì muốn có tài sản.
– Ông Bàlamôn này là người biết làm mưa bảy báu rơi xuống, tài sản này là của ông đã cho chúng tôi. Hãy bảo ông Bàlamôn này cho các anh tài sản như ông đã cho chúng tôi, hãy thả chúng tôi ra đi.
Bọn thứ hai thả bọn thứ nhất ra, rồi bảo Bàlamôn Vedabbha: “Hãy cho chúng tài sản như ông đã cho bọn cướp thứ nhất”. Bàlamôn nói:
– Tôi không thể làm được, vì giờ khắc sao hội đã qua rồi. Nếu các anh muốn, hãy chờ đợi khi nào có sao hội.
– Thời gian bao lâu?
– Phải đợi đến năm sau.
Bọn cướp tức giận nói:
– Bàlamôn này thật xảo quyệt, hẳn là đồng bọn của bọn cướp, chúng muốn kéo dài thời gian để đánh lừa chúng ta.
Chúng chém chết Bàlamôn Vedabbha, rồi rượt theo nhóm cướp trước, giao chiến cùng nhau và diệt hết 500 tên cướp.
Những tên cướp còn lại, mở những gói hàng ra, thấy toàn là châu báu, lòng tham đã làm mờ lý trí, chúng lại tranh chấp cùng nhau, rồi quay ra thanh toán lẫn nhau, đến khi chỉ còn lại hai tên. Chúng thỏa thuận với nhau sẽ chia đôi tài sản này.
Qua trận kịch chiến cả hai đều mệt mỏi, sau khi chôn dấu tài sản, chúng phân công nhau: “Một người ở lại canh chừng kho báu, một người vào làng tìm vật thực”.
“Lòng tham là gốc rễ của diệt vong”. Tên canh giữ suy nghĩ: “Tài sản này sao phải chia đôi? Ta hãy giết tên kia để hưởng trọn”.
Tên đi tìm vật thực cũng suy nghĩ như thế, sau khi tìm được vật thực, dùng xong rồi, nó mang vật thực có tẩm thuốc độc về cho tên canh giữ.
Tên canh giữ ẩn vào bụi gần nơi chôn dấu tài sản, khi tên tìm vật thực về lên tiếng gọi, tên ẩn núp im lặng, ngỡ tên kia đã đào lấy tài sản mang đi, tên tìm vật thực đào bới nơi chôn dấu tài sản. Từ bụi rậm tên cướp xông ra, chém chết tên đang đào, sau đó y dùng vật thực do tên kia mang về và cũng mệnh chung.
Vài ngày sau, Bồtát mang tiền chuộc đến, thấy những châu báu còn vương vãi đây đó, Ngài suy nghĩ: “Thầy không nghe ta, e sự diệt vong đã đến”.
Theo dấu chân, Ngài đi tìm và thấy thi hài của Thầy bị chặt đứt nằm trên đường, Bồtát đành tìm củi thiêu xác thầy, rồi Ngài lần theo con đường thấy xác chết của hai bọn cướp.
Cảm thán, Ngài nói lên kệ ngôn:
“Anupāyena yo atthaṃ, icchati so vihaññati.
Cetā haniṃsu Vedabbhaṃ, sabbe te byasanamajjhagū’ti.
“Dùng phương tiện bất xứng, muốn lợi thì bị hại.
Cướp giết Vedabbha, rồi tất cả diệt vong.” [87]
Câu truyện trên nói lên “tai hại của dục ái”.
b- Hữu ái (bhavataṅhā).
Hữu ái là thích thú trong các cảnh trần tương tự như dục ái, nhưng có điểm khác biệt là “có cái tôi (ngã – atta) thường hằng trong 6 cảnh”.
Nói cách khác, hữu ái là tham đi chung với thường kiến.
Các Ngài có giải tự bhavataṅhā như sau:
– Bhavatīti = bhavo: Gọi là hữu vì cho là “thường có” .
Hữu ở đây đồng nghĩa “thường kiến”.
– Bhavo ca so taṅhā cāti bhavataṅhā:
Hữu đi chung với ái, gọi là hữu ái.
-Bhave taṅhā = bhavataṅhā:
Thích thú với “cái có”, gọi là hữu ái.
Theo Suttantamahāvaggatthakathā thì hữu ái có 5: [88].
1- Thích thú trong dục hữu (kāmabhava). Là muốn được làm người hay chư thiên Dục giới.
2- Thích thú trong Sắc hữu (rūpabhava). Là muốn được sinh làm Phạm thiên Sắc giới.
3- Thích thú trong Vô sắc hữu (arūpabhava). Là muốn được sinh làm Phạm thiên Vô sắc giới.
4- Thích thú trong thiền định (jhānasampatti). Là muốn chứng đắc các tầng thiền Sắc hay Vô sắc giới.
5- Thích thú với quan điểm thường hằng (sassatadiṭṭhi).
Là cho rằng: “Có một cái ngã (atta) thường hằng trong mỗi chúng sinh, tuy chúng sinh có chết đi nhưng cái ngã vẫn tồn tại luân chuyển sang thân khác và vẫn là như vậy.
Tức là nếu kiếp này là người thì thân sau cũng là người, nếu kiếp này là thú thì mãi mãi là thú ….
Pāli có ghi nhận 5 khía cạnh của hữu ái như sau:
Bhavapatthanāvasena uppannassa sassatadiṭṭhisahagatassa rūpārūpabhavarāgassa ca jhānanikantiyā cetaṃ addhivacanam;
“(Nói rộng) Hữu ái là chỉ cho: Ước muốn sinh hữu, đi chung với thường kiến, tham luyến trong cõi Sắc hay Vô sắc hữu, nhiễm đắm trong các tầng thiền”.
Có câu hỏi rằng: Các cõi Dục, cõi Sơ thiền , cõi Nhị thiền, cõi Tam thiền bị hoại do lửa, do nuớc, do gió nên các cõi ấy vô thường, điều này đã rõ ràng.
Các cõi Tứ thiền Sắc và Vô sắc không bị hoại do ba điều trên, vì sao cũng vô thường?
Đáp rằng: Trước tiên, tam giới (Dục, Sắc và Vô sắc giới) là pháp hữu vi, đã là pháp hữu vi thì bị định luật vô thường chi phối, như Phật ngôn:
“Sabbe saṅkhārā aniccā’ti: Các pháp hữu vi là vô thường.”
Gọi là cõi (gati), đó là nơi chúng sinh đến nương trú, như Pāli có giải thích từ gati như sau:
“Gatigati: Cõi là nơi tái sinh của chúng sinh”.
Dukkhena gantabbati = Duggati:
Nơi phát sinh khổ của chúng sinh, gọi là cõi khổ.
Sudarāgati = Sugati:
Nơi tốt đẹp, gọi là cõi vui.
Kāmasahacaritā sugati = Kāmasugati:
Cõi vui (có) đời sống đi chung với dục, gọi là cõi vui dục giới.[89]
Như vậy, khi không có chúng sinh nương trú thì không gọi là cõi. Ví như không có vua quan thì không gọi là triều đình.
Tuy tầng Tứ thiền Sắc giới hay Vô sắc giới không bị hủy hoại do gió (tầng Sơ thiền bị hủy hoại do lửa, tầng Nhị thiền bị hủy hoại do nước, tầng Tam thiền bị hủy hoại do gió), nhưng chúng vẫn vô thường khi không có chúng sinh nương trú.
Các vị Luận Sư dạy rằng: “Các cõi Phạm thiên Sắc giới bị vô thường khi các vị Phạm thiên mệnh chung, khi ấy các Phạm cung biến mất.
Lại nữa, cõi Tịnh cư (suddhavāsa) của các bậc Thánh Anahàm sẽ trở nên rỗng không khi các Ngài thành đạt quả vị Alahán, sau đó viên tịch”.
Tương tự như thế với cõi Vô sắc, khi các vị Phạm thiên Vô sắc mệnh chung thì cõi Vô sắc trở thành rỗng không.
Mặt khác, chúng sinh thành đạt các tầng thiền Vô sắc rất hiếm so với phần đông không thành tựu thiền Vô sắc.
Cho năm uẩn “bền vững” hẳn nhiên là tà kiến, điều này không cần phải bàn cải, nhưng cho rằng “có cõi thường hằng” cũng xem như rơi vào tà kiến, do đó hữu ái là “ái đi chung với thường kiến”.
c- Vô hữu ái (vibhavataṅhā).
Các Ngài giải thích từ vibhavataṅhā như sau:
– Na bhavatīti = vibhava:
Không tồn tại gọi là vô hữu.
Chữ vibhava ở đây ám chỉ cho quan điểm “đoạn diệt” (đoạn kiến).
Vibhavo ca so taṅhā = vibhavataṅhā:
Thích thú với (quan điểm) không tồn tại, gọi là vô hữu ái.
Vô hữu ái là ái đi chung với đoạn kiến.
Thật ra, đó cũng là ái trong 6 cảnh và cũng cho rằng có một cái ngã trong 6 cảnh, nhưng cái ngã ấy sau khi chết thì hoại diệt.
Hoặc cho rằng “trên đời này chẳng có gì cả, tất cả đều tiêu hoại hoàn toàn, không có tái sinh, không có luân hồi”.
Chấp nhận quan điểm như thế, gọi là vô hữu ái.
Như vậy, hữu ái và vô hữu ái có điểm chung là “chấp nhận có một bản ngả”, điểm khác biệt là: Hữu ái thì cho “bản ngã thường hằng, tồn tại”, vô hữu ái thì cho “bản ngã bị hoại diệt”.
Ngay cả người Phật tử, nếu cho rằng: “Nípbàn là một cõi thường hằng” là hữu ái, hay “có một cái ngã thể nhập vào Nípbàn” cũng là thường kiến. Hoặc là, cho rằng “ngã này diệt mất” là vô hữu ái.
Nípbàn không là cõi trú của chúng sinh, Nípbàn chỉ là trạng thái (là cảnh – ārammaṇa) được tâm Siêu thế nhận biết mà thôi.
Trạng thái ấy là gì? Là diệt trừ tham, sân si.
Tóm lại: Ái đi chung với tham đắm trong 5 trần cảnh là dục ái.
Ái đi chung với thường kiến là hữu ái.
Ái đi chung với đoạn kiến là phi hữu ái.
Hay:
Dính mắc vào dục giới, gọi là dục ái. Dính mắc vào cõi Sắc giới, gọi là sắc ái. Dính mắc vào cõi Vô sắc gọi, gọi là Vô sắc ái.
Ái nói gọn có ba như đã trình bày, nếu phân tích rộng thì có 108.
Cách tính như sau: Lấy 6 cảnh bên ngoài (gọi là cảnh ngoại phần) + 6 cảnh bên trong (gọi là cảnh nội phần) thành 12 cảnh.
Lấy 12 cảnh x 3 ái thành 36 ái. Lấy 36 ái x ba thời (quá khứ, hiện tại, vị lai) thành 108 ái.
Đối với người còn ái ngủ ngầm (taṅhānusaya), thì ái sinh lên do có thọ, nên Đức Sāriputta (Xálợiphất) dạy: “Từ tập khởi của thọ, có tập khởi của ái”, khi thọ tuyệt sinh thì ái cũng tuyệt sinh: “Từ đoạn diệt của thọ, có đoạn diệt của ái”.
Hành giả có niệm mạnh về quán thọ, hiễu biết rõ thọ đang sinh khởi, ái không có cơ hội sinh lên, ví như chiếc chảo nóng đỏ, giọt nước rơi vào sẽ không tồn tại, chỉ khi nào niệm yếu hoặc không có niệm, phóng dật có cơ hội sinh lên, thế là ái sinh khởi.
Đối với bậc Alahán, tuy các Ngài còn có thọ nhưng không còn ái, vì trí tuệ của các Ngài đã viên mãn, diệt trừ tận gốc rễ Vô minh, ái sinh lên phải có vô minh là nền tảng, không có vô minh, ái không thể sinh lên.
Trong năm thượng phần kiết sử (5 sợi giây trói buộc bậc cao) là: Ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật và vô minh.
Một khi vô minh diệt thì 4 pháp kia cũng không có, nên bậc Anahàm vẫn còn 5 kiết sử này, trái lại bậc Alahán thì diệt tận 5 kiết sử ấy chỉ trong một sátna tâm Đạo Alahán.
Ái trợ cho thủ.
a- Dục ái và dục thủ.
Có câu hỏi: Dục ái khác với dục thủ ra sao?
Đáp rằng: Cả dục ái và dục thủ đều là tâm sở tham (lobhacetasika), dục ái ví như mầm non tham vừa nhú ra khỏi hạt, còn dục thủ ví như mầm non đã trở thành rễ.
Có thể nói: Dục ái trợ duyên cho dục ái = dục thù.
Hay dục thủ = dục ái x dục ái.
Lại nữa, dục ái là pháp đối nghịch với pháp “ít ham muốn trong dục (apicchatāguṇā)”, còn dục thủ là pháp đối nghịch với pháp “không biết đủ trong dục (santosaguṇā) ”.
Thông thường, dục ái là tầm cầu những dục lạc đang thiếu thốn, như tiền thân của Khemaka cháu của trưởng giả Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc), ông cúng dường đến Bảo Tháp thờ Xá Lợi Phật Kassapa hai lá cờ, phát nguyện: “Ngoại trừ những nữ nhân trong thân tọc, các nữ nhân khác, khi nhìn thấy tôi đều say mê tôi”. [90]
Hoặc người làm công có tên Annabhāra (tiền thân của Ngài Anuruddha), cúng dường đến vị Độc giác Phật Upaniṭṭha buổi ăn trưa rồi ước nguyện: “Xin cho tôi đừng biết tiếng không có”.[91].
Còn dục thủ là “không muốn mất cái đang có”, như bà Kisāgotamī không muốn mất đứa con độc nhất của mình, bà đã đau khổ khi hài tử chết. Hay như bà Patācārā điên loạn khi cha, mẹ, chồng, con đều chết… Những hình ảnh trên nói lên ý nghĩa dục thủ.
Ở khía cạnh khác thì: Dục ái là mất điều chưa có, còn dục thủ là mất điều đang có.
Tuy nhiên, khi mất điều chưa có, nhưng tâm rơi vào sầu khổ, đó cũng là một trong những mô thức của dục thủ.
Câu chuyện Hoàng hậu Mudulakkhaṇā minh họa vấn đề này, tóm lược như sau.
Hoàng hậu Mudulakkhaṇā
Tương truyền, thuở quá khứ khi vua Brahmadatta trị vì xứ Bārāṇasī (Balanại), Bồtát là vị ẩn sĩ ở Tuyết Sơn, nhờ tinh cần tu tập Ngài thành tựu 8 thiền chứng cùng 5 pháp thần thông.
Có lần Ngài đến kinh thành Bārāṇasī để tìm dấm muối, khi Ngài đi khất thực, vua Brahmadatta thấy oai nghi an tịnh của Bồtát, phát sinh tâm cảm phục, cung thỉnh Ngài an trú nơi hoa viên để Đức vua cúng dường.
Bồtát nhận lời và Ngài thường đến hoàng cung để thọ thực.
Ngài ngự nơi hoa viên ấy suốt 16 năm trời, thuyền xuyên dạy đạo cho hoàng tộc.
Lần nọ, khi biên cương có giặc, Đức vua thân chinh đi dẹp loạn, Hoàng hậu Mudulakkhaṇā thay vua dâng vật thực đến Bồtát.
Một hôm, sau khi chuẩn bị vật thực xong, Bồtát đến muộn nên Hoàng hậu đi tắm, rồi nằm phơi nắng, trên người chỉ khoác hờ chiếc y choàng.
Bồtát phi hành trên hư không đến hoàng cung thọ thực, nghe tiếng y vỏ cây của Bồtát, theo thói quen Hoàng hậu đứng dậy chào đón và mãnh áo choàng rơi tuột xuống.
Chợt thấy Hoàng hậu trong tình trạng như thế, lửa dục tùy miên phát khởi khiến Ngài hoại thiền cùng 5 pháp thần thông.
Sau khi thọ thực xong Ngài đi bộ về thảo lư của mình, nằm trên giường gỗ suốt 7 ngày không ăn uống chi cả, tâm tư cứ nghĩ tưởng đến bóng hình kiều diễm của Hoàng hậu.
Vào ngày thứ 7, Đức vua trở về sau khi dẹp yên giặc ở biên cương, tìm đến viếng thăm Bồtát, thấy tình cảnh Bồtát như thế, Ngài hỏi thăm, Bồtát thú thật tâm bịnh của mình, nghe xong Đức vua phán:
– Vậy kể từ nay, Hoàng hậu Mudulakkhaṇā thuộc về Ngài. Trẩm dâng đến Ngài Hoàng hậu Mudulakkhaṇā.
Nghe xong, Bồtát dứt bịnh, về sau nhờ Hoàng hậu cảnh tỉnh, Bồtát tỉnh ngộ mang Hoàng hậu trả lại Đức vua, rồi Ngài tịnh tâm chứng đắc lại thiền lực, theo đường hư không trở về núi Tuyết và không trở lại kinh thành Bārāṇasī nữa.[92]
Ở đây, chúng ta có thể hiểu: “Khi nhìn thấy thân hình kiều diễm của Hoàng hậu, tâm của Bồtát bị dục ái xâm chiếm. Dục ái tăng trưởng trở thành dục thủ khiến tâm tư Bồtát sầu khổ suốt 7 ngày. Khi được Đức vua ban cho Hoàng hậu, Ngài hết bịnh sầu khổ”.
Lại nữa, không được Hoàng hậu là “mất cái chưa có”, nhưng Bồtát vẫn sầu khổ đó là dục thủ.
Đức Phật dạy:
“Dunniggahassa lahuno. Yattha kāmanipātino.
Cittassa damatho sādhu. Cittaṃ dantaṃ sukhāvahaṃ.
“Khó nắm giữ, khinh động. Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm. Tâm điều, an lạc đến” [93].
b- Ái trợ cho kiến thủ, giới cấm thủ và ngã luận thủ.
Ba loại kiến thủ, giới cấm thủ và ngã luận thủ đều có điểm chung là: Xuất phát từ “cái ngã”, nhưng cái ngã vốn không có, nó do tưởng tượng mà hình thành, tức là do “bám víu vào năm uẩn” rồi nảy sinh ra quan điểm này.
Nói cách khác: “Do ái năm uẩn quá sâu đậm, nên cho rằng có cái ta trong 5 uẩn”.
Điểm khác biệt giữa kiến thủ, giới cấm thủ và ngã luận thủ là:
– Kiến thủ cho rằng ngoài tự ngã, còn có tha ngã, cả tự ngã hay tha ngã hoặc thường còn hoặc đoạn diệt.
– Giới cấm thủ là: “Ái luyến tự ngã quá sâu đậm nên có những nghi thức thực hành, những cách thức cúng tế sai lệch, nhầm mục đích giúp tự ngã hưởng lạc thú sau này.” Phân tích kỹ hơn, sẽ thấy giới cấm thủ cũng là thường kiến.
– Ngã luận thủ chỉ đơn thuần là “bám víu vào cái ngã, một cái ngã do tưởng tượng nảy sinh”.
Sau đây là câu chuyện minh họa cho “từ dục ái dẫn đến giới cấm thủ”.
Bồtát Canda
Thành Bārāṇasī khi xưa có tên là Pupphavatī, Bồtát khi ấy sinh làm con của vua Ekarāja (Nhất Vương), Ngài có tên là Candakumāra.
Một đêm nọ, vào lúc gần sáng Đức vua Ekarāja nằm mộng, thấy cảnh trời Ba mươi Ba với vườn Nandavana (Hỷ lạc lâm) thù diệu. Khi tỉnh giấc, Đức vua muốn được sinh về cõi trời Ba mươi Ba.
Sáng ra, Đức vua thuật lại điềm mộng và hỏi vị Tế tự sư Khandahāla: “Làm cách nào được tái sinh về thiên cung?”.
Để trả tư thù với Bồtát, Tế tự sư đáp rằng:
“Để sinh về thiên giới, Đại vương phải tế thần lửa. Lễ vật để tế thần là: Bốn hoàng hậu, 4 Hoàng tử, 4 công chúa, bốn trâu, 4 dê… mỗi sinh vật đều bốn.”
Đức vua vì ham thích hưởng thụ cảnh giới thiên cung, nên đã làm theo lời chỉ dạy đầy tà kiến của Tế lễ sư Khandahāla, và vua trời Đế Thích xuống giúp họ thoát ra khỏi tai nạn này. [94].
Đức Phật có dạy: Duyên sinh khởi tà kiến là “tiếng nói người khác và không có tác ý đúng”.
Dứt trí hiểu rõ về ái.
-ooOoo-