Vòng Sinh Tử Luân Hồi – Phạm-thiên Trên Tầng Trời Sắc-giới Phạm-thiên

3- Phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên

Chư phạm-thiên trên 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên, mỗi vị phạm-thiên đến khi hết tuổi thọ của mình tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, lúc lâm chung gần chết có maraṇāsannavīthi-citta: cận-tử lộ-trình-tâm cuối cùng có 1 trong 3 đối-tượng là kamma, kammanimitta, gatinimitta kiếp hiện-tại phát sinh, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuti đó là cuticitta: tử-tâm là sắc-giới quả-tâm cuối cùng làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) 1 sát-na-tâm rồi diệt; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm có 17 quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới, 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vô-tưởng-thiên), 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên, gồm có 26 cõi-giới, tùy theo năng lực của mỗi quả-tâm gọi là tái-sinh-tâm (paṭisandhicitta) của vị phạm-thiên ấy.

Như vậy, sau khi chư phạm-thiên trên 15 tầng trời sắc-giới phạm-thiên chuyển kiếp tử (chết), có 17 quả-tâm gọi là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau như sau:

* Vị phạm-thiên nào hưởng an-lạc trong 11 tầng trời sắc-giới phạm-thiên (trừ 5 tầng trời Suddhāvāsa: Tịnh-cư-thiên dành riêng cho bậc Thánh Bất-lai), không thực-hành pháp-hành thiền-định, nên không chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào. Đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, lúc lâm chung gần chết, vị phạm-thiên ấy có maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kammanimitta, gatinimitta kiếp hiện-tại, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuti đó là cuticitta: tử-tâm là sắc-giới quả-tâm cuối cùng làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) 1 sát-na-tâm rồi diệt; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm có 1 trong 8 đại-quả-tâm kiếp quá-khứ gọi là paṭisandhicitta: dục-giới tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam trong cõi trời dục-giới, hưởng an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ.

* Vị phạm-thiên nào hưởng an-lạc trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên, và cố gắng tinh tấn thực-hành pháp-hành thiền-định dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm như sau:

– Nếu vị phạm-thiên ấy chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cũ thì đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, lúc lâm chung gần chết, vị phạm-thiên ấy có manodvāramaraṇā-sannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh có đối-tượng paññattikammanimitta kiếp hiện-tại, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuti đó là cuticitta: tử-tâm là sắc-giới quả-tâm cuối cùng làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) 1 sát-na-tâm rồi diệt; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhi-citta: tái-sinh-tâm đó là bậc thiền sắc-giới quả-tâm ngang bằng với bậc thiền sắc-giới quả-tâm cũ gọi là paṭisandhicitta: sắc-giới tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên cũ.

– Nếu vị phạm-thiên ấy chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm thấp hơn bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cũ thì đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, lúc lâm chung gần chết, vị phạm-thiên ấy có manodvāramaraṇāsanna-vīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh có đối-tượng paññattikammanimitta kiếp hiện-tại, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuti đó là cuticitta: tử-tâm là sắc-giới quả-tâm cuối cùng làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) 1 sát-na-tâm rồi diệt; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhi-citta: tái-sinh-tâm đó là bậc thiền sắc-giới quả-tâm thấp hơn bậc thiền sắc-giới quả-tâm cũ gọi là paṭisandhicitta: sắc-giới tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên xuống tầng trời sắc-giới phạm-thiên thấp hơn tầng trời sắc-giới phạm-thiên cũ.

– Nếu vị phạm-thiên ấy có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cao hơn bậc thiền sắc-giới thiện-tâm cũ cho đến bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, thì đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy, lúc lâm chung gần chết, vị phạm-thiên ấy có manodvāramaraṇāsannavīthi-citta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm phát sinh có đối-tượng paññattikammanimitta kiếp hiện-tại, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuti đó là cuticitta: tử-tâm là sắc-giới quả-tâm cuối cùng làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) 1 sát-na-tâm rồi diệt; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm đó là bậc thiền sắc-giới quả-tâm cao hơn bậc thiền sắc-giới quả-tâm cũ, nếu là bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm thì gọi là paṭisandhicitta: vô-sắc-giới tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên lên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên cao hơn tầng trời sắc-giới phạm-thiên cũ, hưởng an-lạc tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy cho đến khi hết tuổi thọ.

* Chư phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Asaññasattā: Vô-tưởng-thiên có thân không có tâm, đến khi hết tuổi thọ 500 đại-kiếp trái đất, jīvitanavakakalāpacuti cuối cùng làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) diệt kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên, có 1 trong 8 đại-quả-tâm gọi là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới là cõi người hoặc cõi trời dục-giới.

4- Phạm-thiên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên

Chư phạm-thiên trong 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên, mỗi vị phạm-thiên đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên của mình, lúc lâm chung gần chết có manodvāra-maraṇāsannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kamma-nimitta, gatinimitta cuối cùng phát sinh, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự đến cuti đó là cuticitta: tử-tâm là vô-sắc-giới quả-tâm cuối cùng phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) rồi diệt; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhi-citta: tái-sinh-tâm có số quả-tâm trong mỗi tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên khác nhau như sau:

1- Tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ nhất gọi là Không-vô-biên-xứ-thiên, vị phạm-thiên trong tầng trời này hết tuổi thọ 20.000 đại-kiếp trái đất, lúc lâm chung gần chết có manodvāramaraṇāsanna-vīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kammanimitta, gatinimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là không-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm cuối cùng phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên diệt; liền tiếp theo sau paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm có 8 quả-tâm đó là 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ và 4 vô-sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong cõi thiện-dục-giới và 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên như sau:

* Vị phạm-thiên nào tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ nhất gọi là Không-vô-biên-xứ- thiên hưởng an-lạc, mà không cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-định, nên không chứng đắc được bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm nào. Vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 20.000 đại-kiếp trái đất lúc lâm chung gần chết có manodvāramaraṇā- sannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kammanimitta, gati-nimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là không-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm cuối cùng phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tử (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm có 1 trong 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân (tihetukapuggala), hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân trong cõi trời dục-giới.

* Vị phạm-thiên nào tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ nhất gọi là Không-vô-biên-xứ- thiên hưởng an-lạc, và cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-định, vị phạm-thiên ấy chỉ có khả năng chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ là không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm và chứng đắc 3 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cao hơn bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ mà thôi, nhưng không thể chứng đắc bậc thiền thấp hơn bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ, bởi vì không có đối-tượng thiền-định.

– Nếu vị phạm-thiên nào chứng đắc bậc thiền không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ, vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 20.000 đại-kiếp trái đất, đến lúc lâm chung gần chết, thì có manodvāra-maraṇāsannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có đối-tượng paññattikammanimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là không-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm cũ phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử (chết), kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm là không-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm mới phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trở lại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên Không-vô-biên-xứ thiên cũ, hưởng an-lạc cho đến hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.

– Nếu vị phạm-thiên nào chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cao hơn bậc thiền không-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm cũ. Vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 20.000 đại-kiếp trái đất, đến lúc lâm chung gần chết, thì có manodvāramaraṇāsanna-vīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có đối-tượng mahaggatakammanimitta (hoặc paññattikamma-nimitta), các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là không-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm cũ phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử (chết), kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭi-sandhicitta: tái-sinh-tâm là bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm cao hơn bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm cũ phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên lên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên cao hơn tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên cũ, hưởng an-lạc cho đến hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.

2- Tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ nhì gọi là Thức-vô-biên-xứ thiên, vị phạm-thiên trong tầng trời này hết tuổi thọ 40.000 đại-kiếp trái đất, lúc lâm chung gần chết có manodvāramaraṇā-sannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kammanimitta, gati-nimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là thức-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm cuối cùng phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm có 7 quả-tâm đó là 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ và 3 vô-sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới và 3 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên như sau:

* Vị phạm-thiên nào tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ nhì gọi là Thức-vô-biên-xứ-thiên hưởng an-lạc, mà không cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-định, nên không chứng đắc được bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm nào. Vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 40.000 đại-kiếp trái đất lúc lâm chung gần chết có manodvāramaraṇā- sannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kammanimitta, gati-nimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là thức-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm cuối cùng phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tử (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm có 1 trong 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân (tihetukapuggala), hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân trong cõi trời dục-giới.

* Vị phạm-thiên nào tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ nhì gọi là Thức-vô-biên-xứ-thiên hưởng an-lạc, và cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-định, vị phạm-thiên ấy chỉ có khả năng chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ là thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm và chứng đắc 2 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cao hơn bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ mà thôi, nhưng không thể chứng đắc bậc thiền thấp hơn bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ, bởi vì không có đối-tượng thiền-định.

– Nếu vị phạm-thiên nào chứng đắc bậc thiền thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ, vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 40.000 đại-kiếp trái đất, đến lúc lâm chung gần chết, thì có manodvāra-maraṇāsannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có đối-tượng mahaggatakammanimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là thức-vô-biên-xứ thiền quả-tâm cũ phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử (chết), kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm là thức-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm mới phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trở lại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên Thức-vô-biên-xứ-thiên cũ, hưởng an-lạc cho đến hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.

– Nếu vị phạm-thiên nào chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cao hơn bậc thiền Thức-vô-biên-xứ-thiền thiện-tâm cũ, vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 40.000 đại-kiếp trái đất, đến lúc lâm chung gần chết, thì có manodvāramaraṇāsanna-vīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có đối-tượng mahaggatakammanimitta (hoặc paññatti-kammanimitta), các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là thức-vô-biên-xứ-thiền quả-tâm cũ phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử (chết), kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm là bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm cao hơn bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm cũ phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên lên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên cao hơn tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên cũ, hưởng an-lạc cho đến hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.

3- Tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ ba gọi là Vô-sở-hữu-xứ-thiên, vị phạm-thiên trong tầng trời này hết tuổi thọ 60.000 đại-kiếp trái đất, lúc lâm chung gần chết có manodvāramaraṇā-sannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kammanimitta, gati-nimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là vô-sở-hữu-xứ-thiền quả-tâm cuối cùng phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm có 6 quả-tâm đó là 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ và 2 vô-sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới và 2 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên như sau:

* Vị phạm-thiên nào tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ ba gọi là Vô-sở-hữu-xứ-thiên hưởng an-lạc, mà không cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-định, nên không chứng đắc được bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm nào, vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 60.000 đại-kiếp trái đất lúc lâm chung gần chết có manodvāramaraṇā- sannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kammanimitta, gati-nimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là vô-sở-hữu-xứ-thiền quả-tâm cuối cùng phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tử (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm có 1 trong 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân (tihetukapuggala), hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân trong cõi trời dục-giới.

* Vị phạm-thiên nào tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ ba gọi là Vô-sở-hữu-xứ-thiên hưởng an-lạc, và cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-định, vị phạm-thiên ấy chỉ có khả năng chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ là vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm và chứng đắc 1 bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cao hơn bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ mà thôi, nhưng không thể chứng đắc bậc thiền thấp hơn bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ, bởi vì không có đối-tượng thiền-định.

– Nếu vị phạm-thiên nào chứng đắc bậc thiền vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ, vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 60.000 đại-kiếp trái đất, đến lúc lâm chung gần chết, thì có manodvāramaraṇāsanna-vīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có đối-tượng paññattikammanimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là vô-sở-hữu-xứ-thiền quả-tâm cũ phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử (chết), kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhi-citta: tái-sinh-tâm là vô-sở-hữu-xứ-thiền quả-tâm mới phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trở lại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên Vô-sở-hữu-xứ thiên cũ, hưởng an-lạc cho đến hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.

– Nếu vị phạm-thiên nào chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cao hơn bậc thiền vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm cũ, vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 60.000 đại-kiếp trái đất, đến lúc lâm chung gần chết, thì có manodvāramaraṇāsannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có đối-tượng paññatti-kammanimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là vô-sở-hữu-xứ-thiền quả-tâm cũ phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử (chết), kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhi-citta: tái-sinh-tâm là bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm cao hơn bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm cũ phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên lên trên tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên cao hơn tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên cũ, hưởng an-lạc cho đến hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.

4- Tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ tư gọi là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên, vị phạm thiên trong tầng trời này hết tuổi thọ 84.000 đại-kiếp trái đất, lúc lâm chung gần chết có mano-dvāramaraṇāsannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kamma- nimitta, gatinimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm cuối cùng phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm có 5 quả-tâm đó là 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ và 1 vô-sắc-giới quả-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau trong 7 cõi thiện-dục-giới và 1 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên như sau:

* Vị phạm-thiên nào tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ tư gọi là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên hưởng an-lạc, mà không cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-định, nên không chứng đắc được bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ. Khi vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 84.000 đại-kiếp trái đất, lúc lâm chung gần chết có manodvāramaraṇāsannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kammanimitta, gatinimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm cuối cùng phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tử (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm có 1 trong 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân (tihetuka-puggala), hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân trong cõi trời dục-giới.

* Vị phạm-thiên nào tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên thứ tư gọi là Phi-tưởng-phi-phi-tưởng- xứ-thiên hưởng an-lạc, và cố gắng tinh-tấn thực-hành pháp-hành thiền-định, vị phạm-thiên ấy chỉ có khả năng chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm mà thôi, nhưng không thể chứng đắc bậc thiền thấp hơn bậc thiền vô-sắc-giới thiện tâm cũ, bởi vì không có đối-tượng thiền-định.

– Nếu vị phạm-thiên nào chứng đắc bậc thiền phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm ngang bằng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm cũ, vị phạm-thiên ấy hết tuổi thọ 84.000 đại-kiếp trái đất, đến lúc lâm chung gần chết, thì có mano-dvāramaraṇāsannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có đối-tượng mahaggatakammanimitta các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm cũ phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự chuyển kiếp tử (chết), kết thúc kiếp hiện-tại của vị phạm-thiên ấy; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭi-sandhicitta: tái-sinh-tâm là phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền quả-tâm mới phát sinh 1 sát-na-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trở lại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên cũ, hưởng an-lạc cho đến hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy. Nếu vị phạm-thiên ấy không chứng đắc trở lại bậc thiền cũ thì đến khi hết tuổi thọ cũng phải chuyển kiếp tử (chết), rồi đại-thiện-nghiệp trong 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có 1 trong 4 đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ gọi là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân (tihetukapuggala) hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam tam-nhân trong cõi trời dục-giới.

Như vậy, trong ba giới đó là cõi dục-giới có 11 cõi-giới, cõi sắc-giới có 16 tầng trời sắc-giới phạm-thiên, cõi vô-sắc-giới có 4 tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên, gồm có 31 cõi-giới chúng-sinh chỉ là nơi tạm trú mau hoặc lâu của tất cả mọi chúng-sinh còn là hạng phàm-nhân trong 4 loài chúng-sinh là loài thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh mà thôi.

Cho nên, trong vòng tử sinh luân-hồi đối với hạng phàm-nhân trong ba giới giới loài, không có một chúng-sinh nào thường trú vĩnh viễn trong một cõi-giới nào nhất định cả.

Tất cả chúng-sinh nào dù lớn nhất, dù nhỏ nhất trong vòng tử sinh luân-hồi trong ba giới bốn loài đều hoàn toàn tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của chúng-sinh ấy, chắc chắn không có ai có khả năng an bài số-mệnh của mỗi chúng-sinh lớn nhỏ trong ba giới gồm có 31 cõi-giới chúng-sinh và trong bốn loài chúng-sinh là thai-sinh, noãn-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh. Đức-Phật dạy về nghiệp và quả của nghiệp:

 “Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammappaṭisaṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyānaṃ vā pāpakaṃ vā, tassa dāyādo Bhavssāmi.”

(Ta có nghiệp là của riêng ta, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta, ta tạo nghiệp nào ‘thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp’ ta sẽ thừa hưởng quả an-lạc của thiện-nghiệp ấy, hoặc chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy.)

Ba bậc Thánh-nhân cuticitta và paṭisandhicitta

Ba bậc Thánh-nhân đó là bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai còn một phần nhỏ vô-minh (avijjā) và tham-ái (taṇhā), nên vẫn còn tái-sinh kiếp sau hạn chế kiếp tái-sinh theo mỗi bậc Thánh-nhân như sau:

1- Bậc Thánh Nhập-lưu đến lúc lâm chung gần chết, có maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kam-manimitta, gatinimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta: tử-tâm là quả-tâm cuối cùng của kiếp hiện-tại làm phận sự tử (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của bậc Thánh Nhập-lưu; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm là đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân (tihetukapuggala), hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trong cõi trời dục-giới nhiều nhất 7 kiếp nữa mà thôi.

Đến kiếp thứ 7, bậc Thánh Nhập-lưu ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

2- Bậc Thánh Nhất-lai đến lúc lâm chung gần chết, có maraṇāsannavīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm có 1 trong 3 đối-tượng kamma, kam-manimitta, gatinimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta: tử-tâm là quả-tâm cuối cùng của kiếp hiện-tại làm phận sự tử (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của bậc Thánh Nhất-lai; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm là đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận sự tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người tam-nhân (tihetukapuggala), hoặc hóa-sinh làm vị thiên-nam hoặc vị thiên-nữ tam-nhân trong cõi trời dục-giới chỉ có 1 kiếp nữa mà thôi. Trong kiếp ấy, bậc Thánh Nhất-lai ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

3- Bậc Thánh Bất-lai chưa chứng đắc bậc thiền nào chắc chắn không còn tái-sinh kiếp sau trở lại cõi thiện dục-giới, cho nên, bậc thiền sắc-giới thiện-tâm nào phát sinh, đến lúc lâm chung gần chết, có manodvāramaraṇāsannavīthicitta: ý-môn cận-tử lộ-trình-tâm có paññattikamma-nimitta, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là cuticitta: tử-tâm là quả-tâm cuối cùng của kiếp hiện-tại làm phận sự tử (chết) kết thúc kiếp hiện-tại của bậc Thánh Bất-lai; liền tiếp theo sau không có thời gian khoảng cách paṭisandhi đó là paṭisandhicitta: sắc-giới tái-sinh-tâm, đó là bậc thiền sắc-giới quả-tâm ấy làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng với bậc thiền sắc-giới quả-tâm ấy, hưởng an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy.

Bậc Thánh Bất-lai không tái-sinh trở lại tầng trời sắc-giới phạm-thiên bậc thấp cũng không tái-sinh trở lại tầng trời sắc-giới phạm-thiên cũ mà chỉ có tái-sinh lên tầng trời sắc-giới phạm-thiên bậc cao hơn mà thôi, nên đến lúc lâm chung bậc thiền sắc-giới thiện tâm bậc cao phát sinh, sắc-giới thiện nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao ấy cho quả tái-sinh lên tầng trời sắc-giới phạm-thiên tương xứng. Cứ như vậy đến lúc lâm chung bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao tột đỉnh đó là đệ ngũ thiền sắc-giới thiên-tâm phát sinh, sắc-giới thiện- nghiệp trong đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm cho quả tái-sinh lên tầng trời sắc-giới phạm-thiên Quảng-quả-thiên tột đỉnh. Bậc Thánh Bất-lai chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên Quảng-quả-thiên tột đỉnh ấy.

 Bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai chứng đắc bậc thiền

Nếu bậc Thánh Nhập-lưu nào, bậc Thánh Nhất-lai nào đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới thiện-tâm hoặc chứng đắc đến các bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, thì sau khi bậc Thánh Nhập-lưu ấy, bậc Thánh Nhất-lai ấy chết, chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy gọi là paṭisandhicitta: sắc-giới tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời tương xứng với bậc thiền sắc-giới thiện-tâm bậc cao ấy, hưởng an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên ấy.

Hoặc vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc cao có quyền ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp sau trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) có bậc thiền vô-sắc-giới quả-tâm bậc cao ấy gọi là paṭisandhicitta: vô-sắc-giới tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời tương xứng với bậc thiền vô-sắc-giới thiện-tâm bậc cao ấy, hưởng an-lạc cho đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên ấy.

Chư vị phạm-thiên Thánh-nhân (bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai) trong tầng trời sắc-giới phạm-thiên nào, trong tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên nào đều thực-hành pháp-hành thiền-định chắc chắn chứng đắc bậc thiền thiện-tâm bậc cao hơn bậc thiền thiện-tâm cũ, cho nên mỗi vị phạm-thiên thánh-nhân ấy không còn tái-sinh kiếp sau xuống tầng trời bậc thấp hơn tầng trời cũ và cũng không tái-sinh kiếp sau trở lại trong tầng trời cũ, mà chỉ tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời bậc cao hơn tầng trời cũ mà thôi.

Cho nên, mỗi vị phạm-thiên Thánh-nhân nào đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời cũ ấy, sau khi vị phạm-thiên Thánh-nhân ấy chết, chắc chắn sắc-giới thiện-nghiệp hoặc vô-sắc-giới thiện-nghiệp trong bậc thiền thiện-tâm bậc cao ấy cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau (paṭisandhi-kāla) có bậc thiền quả-tâm bậc cao ấy gọi là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm làm phận sự tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên lên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên hoặc tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên tương xứng với bậc thiền quả-tâm bậc cao ấy, hưởng an-lạc cho đến hết tuổi thọ tại tầng trời ấy.

Tuy nhiên chư vị phạm-thiên Thánh-nhân (bậc Thánh Nhập-lưu, bậc Thánh Nhất-lai, bậc Thánh Bất-lai) tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên đến 3 tầng trời tột đỉnh là tầng trời sắc-giới phạm-thiên Vehapphalābhūmi: Quảng-quả-thiên hoặc tầng trời sắc-giới phạm-thiên Akaniṭṭhābhūmi: Sắc-cứu-cánh-thiên hoặc tầng trời vô-sắc-giới phạm-thiên Nevasaññānāsaññā-yatanabhūmi: Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-thiên chắc chắn đều trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Đối với chư vị phạm-thiên Thánh Bất-lai trong 5 tầng trời Suddhavāsābhūmi: Tịnh-cư-thiên, đến khi hết tuổi thọ tại tầng trời sắc-giới phạm-thiên bậc thấp, chắc chắn tái-sinh kiếp sau hóa-sinh làm vị phạm-thiên trên tầng trời sắc-giới phạm-thiên bậc cao, cho đến tầng trời sắc-giới phạm-thiên bậc tột đỉnh Akaniṭṭhābhūmi: Sắc-cứu-cánh-thiên, vị phạm-thiên Thánh Bất-lai ấy chắc chắn sẽ trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Có cuti không có paṭisandhi

Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, chư Phật Độc-Giác, chư vị Thánh A-ra-hán thanh-văn-giác đã diệt tận được mọi vô-minh (avijjā) và mọi tham-ái (taṇhā) không còn dư sót, nên không tạo nghiệp mới nào nữa, còn tất cả mọi nghiệp cũ gồm có thiện-nghiệp và ác-nghiệp đã được lưu trữ từ vô thủy cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, nếu nghiệp nào có cơ hội thì nghiệp ấy cho quả cho đến trước khi quý Ngài tịch diệt Niết-bàn.

Khi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, chư Phật Độc-Giác, chư vị Thánh A-ra-hán thanh-văn-giác đến lúc lâm chung có maraṇāsanna-vīthicitta: cận-tử lộ-trình-tâm mà không có đối-tượng kamma, kammanimitta, gatinimitta nào, chỉ có đối-tượng khác tuỳ theo mỗi Ngài, các tâm sinh rồi diệt liên tục đến cuti đó là tử-tâm (cuticitta) là đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận-sự tử kết thúc kiếp hiện-tại của quý Ngài, không có paṭisandhi đó là tái-sinh-tâm (paṭi-sandhicitta) sinh tiếp theo, gọi là ngũ-uẩn Niết-bàn (khandhaparinibbāna) nghĩa là diệt ngũ-uẩn rồi, không có ngũ-uẩn nào sinh nữa, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới.

Sau khi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, chư Phật Độc-Giác, chư vị Thánh A-ra-hán thanh-văn-giác tịch diệt Niết-bàn, thì tất cả mọi thiện-nghiệp, mọi ác-nghiệp đã lưu trữ từ vô thủy trải qua vô số kiếp quá-khứ cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán, tất cả mọi nghiệp ấy đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) không có cơ hội cho quả được nữa.

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app