Chương VII: Những Bài Kinh Tâm Từ
Tâm từ là một loại bảo bối thần diệu, có một oai lực phi thường như phép mầu nhiệm không chỉ bảo vệ thân và tâm của người có tâm từ được an toàn, an lạc một cách tự nhiên, mà còn cải hoá được người khác, cải ác tòng thiện, cải tà quy chánh trở thành một con người thiện hoặc con vật hiền lành thuần tính.
Muốn được hiệu nghiệm như vậy, hành giả phải là người có tâm từ sự phát xuất từ thiện tâm trong sạch với tâm sở vô sân có một năng lực phi thường hướng đến tất cả chúng sinh cả thảy, không ngoại trừ một chúng sinh nào cả; tâm từ hoà đồng giữa mình với tất cả chúng sinh cả thảy. Khi ấy, tâm từ có năng lực phi thường, niệm rải đến tất cả chúng sinh, thì mới thấy, mới biết sự hiệu nghiệm của tâm từ.
Sau đây trích dẫn hai bài kinh, mà Ðức Phật dạy về phương pháp niệm rải tâm từ:
– Bài kinh Mettāsutta: kinh Tâm Từ, nội dung bài kinh này đã được đề cập giải thích ở phần đầu quyển sách này.
– Bài kinh Khandhasutta: kinh rải tâm từ đến bốn dòng tộc rắn chúa và các loại chúng sinh khác, do năng lực tâm từ của mình, tất cả các loài chúng sinh đều được sống an lành, không làm hại mình được.
Bài Kinh Tâm Từ (Mettāsutta)
Tuyên cáo bài kinh Tâm Từ (Uyyojana):
1- Yass’ānubhāvato yakkhā,
Neva dassenti bhīsanaṃ.
Yañhi cev’ānuyuñjanto,
Rattindivam’atandito.
2- Sukhaṃ supati sutte ca,
Pāpaṃ kiñci na passati.
Evamādiguṇūpetaṃ,
Parittaṃ taṃ bhaṇāma he!
Mettāsutta (kinh Tâm Từ)
3- Karaṇīyam’atthakusalena,
Yanta santaṃ padaṃ abhisamecca.
Sakko ujū ca suhujū ca,
Suvaco cassa mudu anantimānī.
4- Santussako ca subharo ca,
Appakicco ca sallahukavutti.
Santindriyo ca nipako ca,
Appagabbho kulesva’nanugiddho.
Na ca khuddam’ācare kiñci,
Yena viññū pare upavadeyyuṃ.
Sukhino vā khemino hontu,
Sabbasattā bhavantu sukhitattā.
5- Ye keci pāṇabhūtatthi,
Tasā vā thāvarā va’navasesā.
Dīghā vā ye va mahantā,
Majjhimā rassakā aṇukathūlā.
6- Diṭṭhā vā ye va adiṭṭhā,
Ye va dūre vasanti avidūre.
Bhūtā va sambhavesī va,
Sabbasattā bhavantu sukhitattā.
7- Na paro paraṃ nikubbetha,
Nātimaññetha katthaci na kañci.
Byārosanā paṭighasaññā,
Nāññamaññassa dukkhamiccheyya.
8- Mātā yathā niyaṃ putta-
māyusā ekaputtamanurakkhe.
Evampi sabbabhūtesu,
Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ.
9- Mettāñca sabbalokasmi,
Mānasaṃ bhāvaye aparimāṇaṃ.
Uddhaṃ adho ca tiriyañca,
Asambādhaṃ averam’asapattaṃ.
10- Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno va,
Sayāno yāvatā’ssa vitamiddho.
Etaṃ satiṃ adhiṭṭheyya,
Brahmam’etaṃ vihāram’idha māhu.
11- Diṭṭhiñca anupagamma,
Sīlavā dassanena sampanno.
Kāmesu vineyya gedhaṃ,
Na hi jātu’ggabbhāseyya puna reti.
(Mettāsuttaṃ niṭṭhitaṃ)
Nghĩa tuyên cáo bài kinh Tâm Từ:
1- Thưa chư bậc Thiện trí,
Hành giả thường tinh tấn,
Tiến hành rải tâm từ,
Ngày đêm không ngưng nghỉ,
Theo kinh Tâm Từ này.
2- Ngủ nghỉ được an lạc,
Không thấy mọi ác mộng,
Thức dậy được an lạc,
Có rất nhiều quả báu,
Trong bài kinh Tâm Từ,
Chúng tôi tụng niệm đây:
Nghĩa bài kinh Tâm Từ:
3- Bậc Thiện trí sáng suốt,
Biết cầu sự lợi ích,
Niết Bàn an tịnh lạc,
Tâm từ làm nền tảng,
Thực hành giới-định-tuệ.
Bước đầu nên thực hành,
Hành giả có đức tính:
– Có năng lực đức tin.
– Tính ngay thẳng chân thật.
– Có tính tình trung thực.
– Người dễ dạy, dễ khuyên.
– Tính nhu mì hiền lành.
– Không ngã mạn, khiêm nhường.
– Biết tri túc hài lòng.
– Người dễ nuôi, dễ sống.
– Người ít việc, ít công.
– Có đời sống nhẹ nhàng.
– Biết thu thúc lục căn.
– Có trí tuệ thông suốt.
– Thân, khẩu, ý thuần đức.
– Không quyến luyến gia đình.
– Không làm mọi điều ác.
Mười lăm pháp nền tảng,
Của pháp hành tâm từ.
4- Khi hành giả tiến hành,
Niệm rải tâm từ rằng:
Cầu mong mọi chúng sinh,
Thân thường được an lạc,
Sống bình an vô sự,
Tâm an lạc trầm tĩnh.
5- Tất cả chúng sinh nào,
Phân chia thành hai nhóm:
Còn sợ và không sợ,
Thấy được và không thấy,
Ở gần và ở xa,
Ðã sanh và còn sanh,
Cả thảy chúng sinh ấy,
Cầu mong thân và tâm,
Thường được hưởng an lạc.
6- Tất cả chúng sinh nào,
Phân chia thành ba nhóm,
Có thân hình khác nhau:
Dài, ngắn và trung bình,
To, nhỏ và trung bình,
Mập, ốm và trung bình,
Cả thảy chúng sinh ấy,
Cầu mong thân và tâm,
Thường được hưởng an lạc.
7- Hành giả rải tâm từ,
Cầu mong mọi chúng sinh,
Không làm khổ lẫn nhau,
Niệm rải tâm từ rằng:
Xin cầu mong người này,
Không lừa đảo người kia.
Xin cầu mong người này,
Không khinh thường người kia.
Cầu mong mọi chúng sinh,
Không làm khổ lẫn nhau.
8- Tâm từ, tình thương yêu,
Với tất cả chúng sinh,
Như một người từ mẫu,
Thương yêu đứa con một,
Bảo vệ đứa con mình,
Bằng sanh mạng thế nào,
Hành giả rải tâm từ,
Vô lượng đến chúng sinh,
Cũng như thế ấy vậy.
9- Hành giả rải tâm từ,
Ðến tam giới chúng sinh,
Hướng trên: cõi vô sắc,
Gồm bốn cõi phạm thiên.
Hướng dưới: cõi dục giới,
Gồm có mười một cõi,
Trời, người và ác giới.
Hướng giữa: cõi sắc giới,
Gồm có mười sáu cõi.
Với tâm từ vô lượng,
Không oan trái hận thù.
10- Hành giả đang tiến hành,
Rải tâm từ vô lượng,
Ðứng, đi hoặc ngồi, nằm,
Tinh tấn không buồn ngủ,
Tâm an trú trong thiền,
Có tâm từ vô lượng,
Ðức Phật dạy bảo rằng:
“Hành giả sống cao thượng”.
11- Thiền tâm từ nền tảng,
Tiếp tiến hành thiền tuệ,
Diệt tà kiến ngũ uẩn,
Thành bậc Thánh Nhập Lưu,
Giới trong sạch thanh tịnh,
Chứng đắc bậc Bất Lai.
Diệt tham ái ngũ trần,
Chứng đắc A-ra-hán,
Khi tịch diệt Niết Bàn,
Chấm dứt khổ tái sanh.
(Xong bài kinh Tâm Từ)
-ooOoo-