Chương IV: Đề Mục Niệm Rải Tâm Từ

Theo bộ Thanh tịnh đạo (Paṭisambhidāmagga)

Theo bộ Paṭisambhidāmagga

Theo bộ Paṭisambhidāmagga, phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh phân chia có 12 nhóm, mỗi nhóm có 4 điều (averā hontu, v.v…) trong 10 phương hướng, tổng cộng gồm có tất cả 528 điều niệm rải tâm từ được trình bày như sau:

Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ theo 3 phương pháp:

– Niệm rải tâm từ đến chúng sinh cách tổng quát (anodhiso).
– Niệm rải tâm từ đến chúng sinh cách riêng biệt (odhiso).
– Niệm rải tâm từ đến chúng sinh ở các phương hướng (disā).

1- Chúng sinh cách tổng quát như thế nào?

Chúng sinh cách tổng quát có 5 hạng:

1.1- Sabbe sattā: Tất cả chúng sinh.
1.2- Sabbe paṇā: Tất cả chúng sinh có sinh mạng.
1.3- Sabbe bhūtā: Tất cả chúng sinh hiện hữu.
1.4- Sabbe puggalā: Tất cả hạng chúng sinh.
1.5- Sabbe attabhāvapariyāpannā: Tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn.

Năm hạng chúng sinh này có danh từ riêng khác nhau, song về ý nghĩa chung thì giống nhau, bởi vì đều là tất cả chúng sinh một cách tổng quát, không có riêng biệt về hạng chúng sinh nào.

2- Chúng sinh cách riêng biệt như thế nào?

Chúng sinh cách riêng biệt có 7 hạng:

2.1- Sabbā itthiyo: Tất cả nữ giới.
2.2- Sabbe purisā: Tất cả nam giới.
2.3- Sabbe ariyā: Tất cả bậc Thánh nhân.
2.4- Sabbe anariyā: Tất cả hạng phàm nhân.
2.5- Sabbe devā: Tất cả hàng chư thiên.
2.6- Sabbe manussā: Tất cả nhân loại.
2.7- Sabbe vinipātikā: Tất cả nhóm ngạ quỷ, atula.

3- Chúng sinh ở các phương hướng như thế nào?

Có 10 phương hướng:

3.1- Puratthimāya disāya: Hướng Ðông.
3.2- Pacchimāya disāya: Hướng Tây.
3.3- Dakkhiṇāya disāya: Hướng Nam.
3.4- Uttarāya disāya: Hướng Bắc.
3.5- Puratthimāya anudisāya: Hướng Ðông Nam.
3.6- Pacchimāya anudisāya: Hướng Tây Bắc.
3.7- Uttarāya anudisāya: Hướng Ðông Bắc.
3.8- Dakkhiṇāya anudisāya: Hướng Tây Nam.
3.9- Heṭṭhimāya disāya: Hướng dưới.
3.10- Uparimāya disāya: Hướng trên.

Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ

1. Tâm từ rải đến chúng sinh cách tổng quát

Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến 5 hạng chúng sinh cách tổng quát:

Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ bằng cách niệm thầm trong tâm đến 5 hạng chúng sinh ấy như sau:

1- “Sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

2- “Sabbe pāṇā averā hontu, abyāpajā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh có sinh mạng không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

3- “Sabbe bhūtā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh hiện hữu không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

4- “Sabbe puggalā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả hạng chúng sinh không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

5- “Sabbe attabhāvapariyāpannā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

Như vậy, hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh một cách tổng quát, không ngoại trừ chúng sinh hạng nào. Có 5 nhóm chúng sinh, mỗi nhóm chúng sinh có 4 điều niệm rải tâm từ, tổng cộng (5×4) 20 điều niệm rải tâm từ.

2. Tâm từ rải đến chúng sinh cách riêng biệt

Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến 7 hạng chúng sinh cách riêng biệt:

Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ bằng cách niệm thầm trong tâm đến 7 hạng chúng sinh ấy như sau:

1- “Sabbā itthiyo averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả nữ giới không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

2- “Sabbe purisā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả nam giới không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

3- “Sabbe ariyā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả bậc Thánh nhân không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

4- “Sabbe anariyā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả hạng phàm nhân không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

5- “Sabbe devā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả hàng chư thiên không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

6- “Sabbe manussā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả nhân loại không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

7-“Sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả nhóm ngạ quỷ, atula không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

Như vậy hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh cách riêng biệt từng mỗi nhóm chúng sinh, mà không phân biệt chúng sinh thuộc hạng nào. Có 7 nhóm chúng sinh, mỗi nhóm chúng sinh có 4 điều niệm rải tâm từ, tổng cộng (7×4) 28 điều niệm rải tâm từ.

3. Tâm từ rải đến chúng sinh ở các phương hướng

Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh ở các phương hướng:

Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ bằng cách niệm thầm trong tâm đến chúng sinh ở trong 10 phương hướng như sau:

1- “Puratthimāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh ở trong hướng Ðông không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

Tương tự như trên:

“Puratthimāya disāya, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Ðông không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

2- “Pacchimāya disāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Tây không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

3- “Dakkhiṇāya disāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Nam không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

4- “Uttarāya disāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Bắc không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

5- “Puratthimāya anudisāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Ðông Nam không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

6- “Pacchimāya anudisāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Tây Bắc không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

7- “Uttarāya anudisāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Ðông Bắc không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

8- “Dakkhiṇāya anudisāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng Tây Nam không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

9- “Heṭṭhimāya disāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng dưới không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

10- “Uparimāya disāya, sabbe sattā…, sabbe pāṇā…, sabbe bhūtā…, sabbe puggalā…, sabbe attabhāvapariyāpannā…, sabbā itthiyo…, sabbe purisā…, sabbe ariyā…, sabbe anariyā…, sabbe devā…, sabbe manussā…, sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sanh mạng…, tất cả chúng sinh hiện hữu…, tất cả các hạng chúng sinh…, tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn…, tất cả nữ giới…, tất cả nam giới…, tất cả bậc Thánh nhân…, tất cả hạng phàm nhân…, tất cả hạng chư thiên…, tất cả nhân loại…, tất cả nhóm ngạ quỷ, atula ở trong hướng trên không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

Như vậy hành giả tiến hành niệm rải tâm từ đến 12 nhóm chúng sinh ở trong 10 phương hướng, mỗi nhóm chúng sinh có 4 điều niệm rải tâm từ, tổng cộng (10×48) 480 điều niệm rải tâm từ.

Phương pháp tiến hành niệm rải tâm từ theo bộ Paṭisambhidāmagga:

– Niệm rải tâm từ đến 5 nhóm chúng sinh cách tổng quát gồm có 20 điều.

– Niệm rải tâm từ đến 7 nhóm chúng sinh cách riêng biệt gồm có 28 điều.

– Niệm rải tâm từ đến 12 nhóm chúng sinh ở trong 10 phương hướng gồm có 480 điều. Tổng cộng (20+28+480) thành 528 điều niệm rải tâm từ.

Niệm rải tâm từ gồm có 528 điều được phát sanh lên đối với hành giả đã tiến hành niệm rải tâm từ đến 12 nhóm chúng sinh ở trong 10 phương hướng. Như vậy, hành giả tiến hành rải tâm từ đến mỗi nhóm chúng sinh có 4 điều (averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu).

Tâm từ rải đặc biệt

Tâm từ rải đến từng cá nhân hoặc đến một tập thể chỉ định hoặc đến tổng hợp đủ các loại chúng sinh:

– Tâm từ rải đến thân mẫu của mình còn sống:

“Mama mātā averā hotu, abyāpajjā hotu, anīghā hotu, sukhī attānaṃ pariharatu”.
(Cầu mong thân mẫu của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

– Tâm từ rải đến thân phụ của mình còn sống:

“Mama pitā avero hotu, abyāpajjo hotu, anīgho hotu, sukhī attānaṃ pariharatu”.
(Cầu mong thân phụ của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

– Tâm từ rải đến phụ mẫu của mình còn sống:

“Mama mātā-pitaro averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong thân mẫu, thân phụ của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

– Tâm từ rải đến vị thầy của mình còn sống (số ít):

“Mama ācariyo avero hotu, abyāpajjo hotu, anīgho hotu, sukhī attānaṃ pariharatu”.
(Cầu mong vị thầy của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

– Tâm từ rải đến các vị thầy của mình còn sống (số nhiều):

“Mama ācariyā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong các vị thầy của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

– Tâm từ rải đến toàn thể dân tộc Việt Nam:

“Mama sabbe Vietnamraṭṭhikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.
(Cầu mong tất cả dân tộc Việt Nam thân yêu của tôi không oan trái với ai, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

– Tâm từ rải đến tổng hợp đủ tất cả các loại chúng sinh trong 10 phương hướng:

“Puratthimāya disāya, Pacchimāya disāya,
Dakkhiṇāya disāya, Uttarāya disāya,
Puratthimāya anudisāya, Pacchimāya anudisāya, Uttarāya anudisāya, Dakkhiṇāya anudisāya, Heṭṭhimāya disāya, uparimāya disāya,
sabbe sattā, sabbe pāṇā,
sabbe bhūtā, sabbe puggalā,
sabbe attabhāvapariyāpannā,
sabbā itthiyo, sabbe purisā,
sabbe ariyā, sabbe anariyā,
sabbe devā, sabbe manussā,
sabbe vinipātikā,
Averā hontu, abyāpajjā hontu,
Anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu”.

(Cầu mong tất cả chúng sinh, tất cả chúng sinh có sanh mạng, tất cả chúng sinh hiện hữu,
tất cả các hạng chúng sinh,
tất cả chúng sinh có sắc thân ngũ uẩn,
tất cả nữ giới, tất cả nam giới,
tất cả bậc Thánh nhân, tất cả hạng phàm nhân,
tất cả hạng chư thiên, tất cả nhân loại,
tất cả nhóm ngạ quỷ, atula,
ở trong hướng Ðông, ở trong hướng Tây,
ở trong hướng Nam, ở trong hướng Bắc,
ở trong hướng Ðông Nam, ở trong hướng Tây Bắc,
ở trong hướng Ðông Bắc, ở trong hướng Tây Nam,
ở trong hướng dưới, ở trong hướng trên,
Không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm,
Không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

Tâm từ rải đến cá nhân nào, cá nhân ấy phải là ân nhân [5] mà mình thương yêu kính mến nhất như: cha, mẹ, thầy tổ, v.v… Như vậy, hành giả nên xác định phương hướng, nơi chốn, chỗ ở của người mà mình rải tâm từ.

Tâm từ rải đến tập thể chung mọi người, thì không nên phân biệt hạng người trong tập thể ấy như: dân tộc Việt Nam, v.v…

Tâm từ rải đến tất cả mọi chúng sinh trong các hướng, trước tiên, hành giả nên xác định phương hướng. Ví dụ: trước mặt hành giả là hướng Ðông, thì sau lưng là hướng Tây, bên tay phải là hướng Nam, bên tay trái là hướng Bắc, v.v… Khi hành giả rải tâm từ đến tất cả chúng sinh ở hướng nào, thì thiện tâm hướng đến hướng ấy, và rải tâm từ đến tất cả chúng sinh ở các hướng khác cũng vậy.

Ví dụ:

Một người cầm cây đèn pin rọi đến hướng nào, ánh sáng toả rộng khoảng không gian hướng ấy, rồi quay cái đèn pin qua hướng khác, ánh sáng lại toả rộng khoảng không gian qua hướng khác. Ánh sáng của cây đèn pin toả rộng khoảng không gian gần hoặc xa, nhỏ hẹp hoặc rộng lớn tuỳ theo năng lượng của viên pin. Cũng như vậy, hành giả niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh ở các phương hướng gần hoặc xa, nhỏ hẹp hoặc rộng lớn và chúng sinh tiếp nhận được sự an lạc, mát mẻ ít hoặc nhiều hoàn toàn tuỳ thuộc vào năng lực tâm từ của hành giả.

Ðề mục niệm rải tâm từ này có khả năng chứng đắc các bậc thiền sắc giới, nên có đủ 3 đối tượng (nimitta)với đủ 3 cách tiến hành (bhāvanā).

Ba đối tượng với 3 cách tiến hành

3 đối tượng là:

Parikammanimitta: Ðối tượng tiến hành ban đầu.
Uggahanimitta: Ðối tượng thô ảnh tương tự.
Paṭibhāganimitta: Ðối tượng quang ảnh trong sáng.

3 cách tiến hành là:

Parikammabhāvanā: Giai đoạn tiến hành ban đầu.
Upacārabhāvanā: Giai đoạn giữa tiến hành đạt đến cận định.
Appanābhāvanā: Giai đoạn cuối tiến hành đạt đến an định, chứng đắc các bậc thiền sắc giới.

Ðối với đề mục rải tâm từ theo tuần tự trải qua ba giai đoạn:

1- Giai đoạn tiến hành ban đầu:

a) Ðối tượng (nimitta):

Hành giả bắt đầu tiến hành niệm rải tâm từ cho chính mình (ahaṃ [6]) và tiếp tục tiến hành niệm rải tâm từ theo tuần tự từ hạng người thương yêu (piyapuggala), hạng người thương yêu nhiều (atippiyapuggala),hạng người không thương, không ghét (majjhattapuggala), và cuối cùng đến hạng người thù địch (verīpuggala), những đối tượng này gọi là parikammanimitta: đối tượng tiến hành ban đầu.

b) Phương pháp tiến hành (bhāvanā):

– Hành giả tiến hành niệm rải tâm từ bằng cách niệm thầm trong tâm rải tâm từ cho chính mình rằng:

“Ahaṃ avero homi, abyāpajjo homi, anīgho homi, sukhī attānaṃ pariharāmi,…”.
(Tôi nguyện không oan trái với mọi chúng sinh; mong tâm không có khổ não, không có thù hận; mong thân tâm không có khổ não; giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

– Niệm rải tâm từ đến từng hạng người số ít rằng:

“… avero hotu, abyāpajjo hotu, anīgho hotu, sukhī attānaṃ pariharatu,…”.
(Cầu mong người ấy không oan trái với mọi chúng sinh; tâm không có khổ não, không có thù hận; thân tâm không có khổ não; giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

– Niệm rải tâm từ đến từng hạng người số nhiều rằng:

“… averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu,…”.
(Cầu mong những người ấy không oan trái với mọi chúng sinh; tâm không có khổ não, không có thù hận; thân tâm không có khổ não; giữ gìn thân tâm thường được an lạc).

Phương pháp tiến hành rải tâm từ niệm thầm trong tâm như vậy gọi là parikammabhāvanā: giai đoạn tiến hành ban đầu. Ðiều quan trọng là hành giả cần phải hiểu rõ từng chữ, từng nghĩa trong câu niệm rải tâm từ; giống như nói những điều mình hiểu và hiểu những điều mình nói, thì tâm từ an trú trong đối tượng được.

2- Giai đoạn giữa tiến hành đạt đến cận định:

a) Ðối tượng (nimitta):

Ðề mục niệm rải tâm từ là một đề mục thiền định mà khi hành giả tiến hành chỉ biết do nương nhờ ý môn,không nương nhờ nhãn môn để nhìn thấy đối tượng, cũng không nương nhờ thân môn để xúc giác biết đối tượng; vì vậy cho nên, uggahanimitta: đối tượng thô ảnh tương tự và paṭibhāganimitta: đối tượng quang ảnh trong sáng không phải trực tiếp, mà chỉ là gián tiếp mà thôi.

Khi hành giả tiếp tục tiến hành niệm rải tâm từ đến từng hạng người (thương yêu; thương yêu nhiều; không thương, không ghét; thù nghịch) nhưng chưa đạt đến sīmasambheda: phá tan được ranh giới của tâm từ đối với các hạng người. Những đối tượng ấy, gọi là uggahanimitta: đối tượng thô ảnh tương tự, tức là tâm từ an trú trong đối tượng riêng rẽ từng mỗi chúng sinh. Và đến khi hành giả đã đạt đến sīmisambheda để cho tâm từ đồng đều đối với các hạng người, gọi là samacittatā: có tâm từ đồng đều, thì những đối tượng ấy gọi là paṭibhāganimitta: đối tượng quang ảnh trong sáng, tâm từ an trú khắng khít trong đối tượng, không còn phân biệt các đối tượng hạng người.

b) Phương pháp tiến hành (bhāvanā):

Hành giả tiếp tục hành niệm rải tâm từ đến đối tượng các hạng người giai đoạn giữa sau khi đối tượng thô ảnh tương tự (uggahanimitta) đã phát sanh, cho đến khi phát sanh đối tượng quang ảnh trong sáng(paṭibhāganimitta). Phương pháp hành giả đang tiến hành ở khoảng giữa của hai đối tượng ấy là đạt đến upacārabhāvanā: giai đoạn tiến hành đạt đến cận định của bậc thiền sắc giới.

3- Giai đoạn cuối tiến hành đạt đến an định:

a) Ðối tượng (nimitta):

Hành giả tiếp tục tiến hành niệm rải tâm từ đến các hạng người đã phát sanh đối tượng quang ảnh trong sáng, tâm từ khắng khít trong đối tượng.

b) Phương pháp tiến hành (bhāvanā):

Hành giả tiếp tục tiến hành niệm rải tâm từ đến các hạng người có đối tượng quang ảnh trong sáng, tâm từ khắng khít trong đối tượng, chứng đắc các bậc thiền sắc giới. Những bậc thiền sắc giới này gọi là appanābhāvanā: tiến hành đạt đến an định của bậc thiền sắc giới ấy.

Bốn bậc thiền sắc giới

Ðề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới đến đệ tứ thiền sắc giới.

Thiền sắc giới có 5 chi thiền, là những pháp có khả năng đè nén, chế ngự được 5 pháp chướng ngại.

Năm chi thiền của thiền sắc giới (jhānaṅga):

1- Vitakka: Tâm sở hướng tâm, làm phận sự chi thiền hướng tâm đến đề mục thiền định duy nhất làm đối tượng.

2- Vicāra: Tâm sở quan sát, làm phận sự chi thiền quan sát đối tượng thiền định.

3- Pīti: Tâm sở hỉ, làm phận sự chi thiền phát sanh tâm hoan hỉ do an trú trong đối tượng thiền định ấy.

4- Sukha: Tâm sở thọ lạc, làm phận sự chi thiền phát sanh an lạc do an trú trong đối tượng thiền định ấy.

5- Ekaggatā: Tâm sở nhất tâm, làm phận sự chi thiền an trú vững chắc trong đối tượng ấy.

Ðó là 5 chi thiền của thiền sắc giới.

Năm pháp chướng ngại (nivāraṇa):

Hành giả tiến hành thiền định sở dĩ không thể chứng đắc được các bậc thiền sắc giới, là vì 5 pháp chướng ngại của pháp hành thiền định.

1- Kāmachanda: Tham dục, là tâm sở tham say mê trong ngũ dục: sắc đẹp, tiếng hay, hương thơm, vị ngon, xúc giác êm ấm.

2- Byāpada: Sân hận, là tâm sở sân thường thù hận, bực bội khó chịu, nóng nảy trong tâm do đối tượng không hài lòng.

3- Thīna-middha: Buồn chán-buồn ngủ, là 2 tâm sở làm cho tâm thoái chí, buông bỏ đối tượng, không muốn tiến hành thiền định, chỉ muốn ngủ.

4- Uddhacca-kukkucca: Phóng tâm-hối hận, là 2 tâm sở làm cho tâm không an trú trong đối tượng thiền định:

Phóng tâm: nghĩ hết chuyện này sang chuyện khác không ngớt.
Hối hận: ân hận, hối tiếc không hành việc thiện, mà làm việc ác, nên tâm cảm thấy ăn năn khó chịu

5- Vicikicchā: Hoài nghi, là tâm sở hoài nghi, không có đức tin nơi Tam bảo, không tin nghiệp và quả của nghiệp, và nhất là hoài nghi trong pháp hành thiền định.

Năm chi thiền chế ngự 5 pháp chướng ngại:

Hành giả tiến hành thiền định có khả năng chứng đắc đến đệ nhất thiền sắc giới, thì có khả năng chế ngự, đè nén được 5 pháp chướng ngại bằng 5 chi thiền đồng sanh trong đệ nhất thiền sắc giới như sau:

1- Vitakka: Chi thiền tâm sở hướng tâm, có khả năng chế ngự, đè nén được thīna-middha: tâm sở buồn chán-buồn ngủ.
2- Vicāra: Chi thiền tâm sở quan sát, có khả năng chế ngự, đè nén được vicikicchā: tâm sở hoài nghi.
3- Pīti: Chi thiền tâm sở hỉ, có khả năng chế ngự, đè nén được byāpada: tâm sở sân hận.
4- Sukha: Chi thiền tâm sở thọ lạc, có khả năng chế ngự, đè nén được uddhacca-kukkucca: tâm sở phóng tâm-hối hận.
5- Ekaggatā: Chi thiền tâm sở nhất tâm, có khả năng chế ngự, đè nén được kāmachanda: tâm sở tham dục.

Bậc thiền sắc giới của đề mục niệm rải tâm từ:

Ðề mục niệm rải tâm từ có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới cho đến đệ tứ thiền sắc giới, cùng giống nhau ở đối tượng niệm rải tâm từ đến tất cả mọi hạng chúng sinh không ngoại trừ một chúng sinh nào; nhưng chắc chắn các bậc thiền khác nhau về chi thiền như sau:

1- Ðệ nhất thiền sắc giới có 5 chi thiền: vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā do chế ngự, đè nén được 5 pháp chướng ngại.

2- Ðệ nhị thiền sắc giới có 4 chi thiền, do diệt được chi thiền thô vitakka, nên còn lại 4 chi thiền vi tế:vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.

3- Ðệ tam thiền sắc giới có 3 chi thiền, do diệt được chi thiền thô vicāra, nên còn lại 3 chi thiền vi tế: pīti, sukha, ekaggatā.

4- Ðệ tứ thiền sắc giới có 2 chi thiền: do diệt được chi thiền thô pīti, nên còn lại 2 chi thiền vi tế: sukha, ekaggatā.

Ðề mục niệm rải tâm từ chỉ có khả năng chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới cho đến đệ tứ thiền sắc giới là cao nhất, không thể chứng đắc đến đệ ngũ thiền sắc giới, bởi vì đề mục niệm rải tâm từ này còn tuỳ thuộc vào chi thiền thọ lạc (sukha).

Nếu muốn chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới, thì hành giả cần phải thay đổi sang đề mục thiền định niệm rải tâm xả, để tiếp tục tiến hành đến sự chứng đắc đệ ngũ thiền sắc giới, có 2 chi thiền do diệt được chi thiền thô thọ lạc (sukha) thay bằng chi thiền thọ xả (upekkā).

Như vậy, đệ ngũ thiền sắc giới có 2 chi thiền upekkā ekaggatā.

Ðặc biệt, đề mục thiền định niệm rải tâm xả này, hành giả không thể sử dụng làm đề mục thiền định tiến hành đầu tiên, mà chỉ có thể làm đề mục thiền định tiến hành cuối cùng; nghĩa là sau khi hành giả đã tiến hành đề mục thiền định niệm rải tâm từ hoặc niệm rải tâm bi hoặc niệm rải tâm hỉ, đã đẫn đến sự chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc giới cho đến đệ tứ thiền sắc giới là bậc thiền cao nhất của 3 đề mục thiền định ấy xong rồi, muốn chứng đắc được đệ ngũ thiền sắc giới, hành giả chỉ có thể chuyển sang đề mục thiền định tiến hành niệm rải tâm xả mà thôi, không thể chuyển sang các đề mục thiền định khác.

Những pháp nên biết về đề mục niệm rải tâm từ:

Ðề mục niệm rải tâm từ có 8 tính chất riêng biệt như sau:

1- Lakkhaṇa: Trạng thái. Tâm từ có trạng thái biểu hiện thân, khẩu, ý bằng hành động, lời nói, ý nghĩ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc đến cho tất cả chúng sinh.

2- Rasa: Phận sự. Tâm từ có phận sự làm cho tất cả chúng sinh được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc thật sự.

3- Paccuppaṭṭhāna: Sự hiện hữu. Sự hiện hữu của tâm từ làm tiêu diệt tâm sân hận.

4- Padaṭṭhāna: Nguyên nhân gần của tâm từ. Xét thấy những điều tốt, những thiện pháp của tất cả chúng sinh thật đáng hài lòng; hoàn toàn không quan tâm đến những điều xấu, những ác pháp của chúng sinh, đó là nguyên nhân gần để phát sanh tâm từ.

5- Sampatti: Sự thành tựu. Sự thành tựu của tâm từ là làm cho tâm sân hận không thể phát sanh.

6- Vippatti: Sự thất bại. Sự thất bại của tâm từ là làm cho tâm tham ái dễ phát sanh.

7- Āsannapaccatthika: Thù nghịch gần của tâm từ là tâm tham dục.

8- Dūrapaccatthika: Thù nghịch xa của tâm từ đó là tâm sân hận.

Hành giả thường ngày tiến hành đề mục niệm rải tâm từ, dù chưa chứng đắc bậc thiền nào, thiện tâm vẫn được an lạc, tâm sân hận không phát sanh, được phần đông chúng sinh thương yêu, quý mến, và chúng sinh nào được thân cận gần gũi với hành giả cũng cảm thấy mát lành dễ chịu.

Nếu hành giả chứng đắc được bậc thiền nào, thì được sự an lạc vô cùng, làm cho tất cả chúng sinh gần xa cũng được sự an lành bởi do năng lực tâm từ của hành giả.

-ooOoo-

[1] Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Mallikāsutta.

[2] Bộ Visuddhimagga, phần Brahmadattamavihāraniddesa, Mettābhāvanākathā.

[3] Năm quả báu của đức tính nhẫn nại:

– Người có pháp hạnh nhẫn nại là người được phần đông yêu mến, hài lòng.
– Là người không gây oan trái với người khác.
– Là người không tạo nên tội ác, tạo phước thiện.
– Là người không mê muội, có tâm sáng suốt minh mẫn lúc lâm chung.
– Sau khi chết, do thiện nghiệp cho quả tái sanh cõi thiện giới, cõi trời….

[4] Aṅguttaranikāya, phần Ekadasakanipāta, kinh Mettāsutta, hoặc xem phần sau của quyển sách này.

[5] Chú ý: Không nên rải tâm từ đến người yêu khác phái, vì tâm từ không thể phát sanh, chỉ có tâm tham ái phát sanh mà thôi.

[6] Ahaṃ: Ta ở đây có nghĩa cả thân lẫn tâm, không phải nghĩa ta tà kiến.

-ooOoo-

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app