Chương 8

Trên Đảo Indus

Nếu gặp được người chỉ rõ lỗi mình
Như thể chỉ lối vào kho báu
Là bậc tri thức chỉ đường ngay
Hãy kết làm tri kỷ
Bởi những bạn hiền như thế
Làm tốt cho ta, chẳng thể xấu bao giờ.
Kinh Pháp Cú – 76

Ở Sydney, một bức điện tín đang chờ đợi chúng tôi. Bức điện tín từ công ty cũ của Gerd nơi trước đó anh là kỹ sư điện của họ. Công ty mời anh hợp đồng làm việc trong hai năm ở Pakistan. Về lương bỗng, chúng tôi được trả rất hậu hĩnh. Nhưng còn công việc thì quả là gian nan. Người ta cần xây một nhà máy điện trên sông Indus, nơi hiện có một máy đập nước.

Chúng tôi quyết định chấp nhận hợp đồng một cách nhanh chóng. Công trình này nằm trong kế hoạch Colombo, một kế hoạch phát triển đã được nhiều nước phát triển ký ở Colombo, thủ đô của Sri Lanka. Các nước này cam kết sẽ thực hiện các dự án công nghiệp hóa ở các nước đang phát triển, và họ sẽ tài trợ mọi thứ, từ nhân lực đến tài nguyên. Nhà máy điện ở Indus là một trong những loại công trình này, do Canada tài trợ.

Trước khi khởi hành, chúng tôi phải trình bày sự việc với đại diện chính quyền Úc về việc họ đã tài trợ cho chuyến đi của chúng tôi đến Úc, nhưng giờ chúng tôi phải đi Pakistan trong hai năm. Các nhà đại diện tỏ ra rất hợp tác. Họ chỉ yêu cầu chúng tôi bỏ số tiền tài trợ đó vào một ngân hàng. Trong hai năm, khi chúng tôi trở lại, thì có quyền lấy số tiền đó ra.

Và mọi chuyện đã xảy đúng ra như thế. Dầu rằng phải năm năm sau, chúng tôi mới trở lại Úc, nhưng vẫn được lấy tiền ở ngân hàng trở lại. Chính quyền Úc lúc đó tỏ ra rất trọng đãi những người như chúng tôi: một kỹ sư điện, với một vợ và một con có thể khiến họ tin tưởng rằng chúng tôi khó thể bị hoàn cảnh khó khăn nhấn chìm.

Chúng tôi không phải là những người du lịch hiểu theo nghĩa bình thường. Người du lịch sẽ quay trở về nhà, sau một thời gian nào đó. Trong khi chúng tôi là những kẻ lang thang cùng khắp trái đất, những kẻ không nhà.

Chúng tôi đặt vé máy bay đi từ Úc đến Pakistan (vé do công ty của Gerd đài thọ), có ghé ngang qua Do Thái. Gerd đã từng sống một thời gian ở Do Thái, nói lưu loát tiếng Hebrew, trước là một sĩ quan trong quân đội Do Thái, lại còn có rất nhiều ba con thân quyến ở đây. Rõ ràng là có quá nhiều lý do để chúng tôi phải ở lưu lại nơi đó vài tuần.

Ở Do Thái, bao nhiêu nơi chốn trong kinh thánh lại trở thành hiện thực đối với tôi. Tôi cảm thấy như lại được tiếp xúc với truyền thống, nguồn gốc Do Thái của mình. Nói về khảo cổ học, Do Thái đúng là một kho tàng cổ báu. Mọi thứ đều gợi lên trong mắt du khách quá khứ đáng tự hào của xứ sở Do Thái.

Sau đó, chúng tôi bay đến Karachi. Pakistan chào đón chúng tôi bằng thời tiết nóng không tưởng được. Thành phố Sukkur, ở Sindh, nơi chúng tôi lái xe đến đầu tiên sau khi rời Karachi, nằm giữa sa mạc Sindhi. Lúc đó, Sukkur có khoảng trăm ngàn dân, nhưng đó không phải là một thành phố bình thường như chúng tôi tưởng; đó chỉ là một tổng hợp của những ngôi nhà xây trong một biển bụi cát. Điểm nóng nhất trên thế giới chỉ cách đây khoảng ba mươi dặm, ở sa mạc Sahara.

Từ Sukkur, chúng tôi lái xe đến nơi nhận việc của Gerd, bên dòng sông Indus. Đến nơi, chúng tôi mới biết không có chỗ cho chúng tôi ở. Chỉ có công ty của Gerd là sung sướng khi có một người như anh sẵn sàng chịu nhận làm việc ở một nơi xa xôi như thế này. Bấy giờ không có nhiều kỹ sư chấp nhận những điều kiện như thế. Vì phần đông nếu có vợ con phải lo chỗ ở, nơi học hành đàng hoàng cho con cái họ. Dầu vui mừng đón tiếp chúng tôi, nhưng công ty hình như chẳng có chuẩn bị gì cho đời sống của chúng tôi ở đây.

Một bạn đồng nghiệp tương lai của Gerd cũng vừa đến trước chúng tôi ít lâu, nhưng anh không có gia đình. Anh chỉ mướn một căn phòng nhỏ để ở. Vì thế anh cũng chẳng giúp gì được cho chúng tôi, ngoài lời khuyên chịu khó kiếm tìm.

Chúng tôi đành phải tự đi tìm, may thay gặp được một nhóm kỹ sư Anh vừa sửa chữa xong một cây cầu bắc ngang sông Indus, và chuẩn bị trở về nước. Họ có hai dãy nhà dài trên một đảo trên sông Indus, tất cả đều là phòng đơn. Chỗ ở khá xa xôi, bất tiện. Nhưng họ vui lòng để lại cho chúng tôi tất cả. Không còn lựa chọn nào, chúng tôi đành chấp nhận, và sửa sang để biến chúng thành một nơi tạm trú khả dĩ. Trong mỗi phòng, đều có giường và đồ dùng. Mọi thứ khác đều phải mua tận Sukkur.

Rồi bỗng nhiên một toán nhân viên phục vụ dành cho chúng tôi xuất hiện. Đó là do một bản hợp đồng đã ký kết giữa công ty và chính phủ Pakistan. Không ai hỏi han gì đến chúng tôi -họ tự động dọn vào nhà: một đầu bếp, một thanh niên phụ việc, một người quét nhà, một người giặt ủi, mấy người thợ máy để coi máy phát điện, và ba nhân viên bảo vệ thay nhau bảo vệ chúng tôi trong hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Tất cả các nhân viên này đều do chính phủ Pakistan trả lương. Chúng tôi phải nhận họ vào làm việc dù có muốn hay không.

Người đầu bếp thật là của báu. Anh đã từng làm đầu bếp trong các gia đình người Anh, và nấu ăn rất khéo. Cậu thanh niên phụ việc có nhiệm vụ bưng thức ăn, rửa chén. Khi làm việc, cậu bé đội trên đầu một khăn quấn màu vàng nghệ. Nhiệm vụ của người quét dọn là giữ cho khu vực của chúng tôi sạch sẻ -một cách tương đối thôi, vì nếu nhìn kỹ sẽ không thể bảo là sạch.

Nhưng tệ hại hơn cả là người lo giặt giũ quần áo. Anh ta làm quần áo chúng tôi hư hết. Ở đó người ta giặt đồ theo một cách rất đặc biệt: Quần áo được nhúng nước ướt, xong người ta đập chúng vào một tảng đá cho đến khi ‘sạch’. Dĩ nhiên không có gì có thể sạch được, thêm vào không có dây để phơi đồ. Người ta phơi đồ bằng cách trải đồ ra trên mặt đất. Mỗi lần giặt đồ là có thứ này hay thứ kia bị hư hỏng. Có mấy lần tôi định cho anh giặt đồ nghỉ việc, nhưng anh ta phủ phục dưới chân tôi, xin được ở lại vì còn ‘bảy con nhỏ’ Vậy là tôi không thể đuổi anh ta.

Nhân viên bảo vệ cho chúng tôi cũng chẳng hơn gì. Một đêm kia chúng tôi bị đánh thức dậy bởi tiếng kêu thảnh thốt “Ông ơi! Ông ơi!” , và tiếng dộng cửa phòng ngủ. Thì ra đó là người bảo vệ ban đêm của chúng tôi. Chân tay run cầm cập, anh ta đòi Gerd phải đi theo anh ta ngay. Qua cử chỉ của anh, chúng tôi cũng đoán được là có một con rắn hổ rất to nằm ngoài cửa nhà bếp. Gerd nói rằng, bổn phận của người bảo vệ phải biết làm gì chứ. Nhưng anh ta cứ kêu lên “Ông ơi! Ông ơi!” mãi. Cuối cùng Gerd phải ra cửa bếp, thấy con rắn hổ đang nằm cuộn tròn. Anh dùng đá chọi nó đi. Chúng tôi không bao giờ gặp lại con rắn đó nữa. Suốt khoảng thời gian đó, độ hơn nửa tiếng, anh chàng bảo vệ núp kín trong nhà bếp.

Ngoài ra, chúng tôi cũng có một tài xế. Tuy bác tài không biết lái chiếc xe jeep mà chúng tôi đã được tặng lúc đến Pakistan (xe jeep của chúng tôi vẫn còn để lại ở Úc), nhưng bác biết nói tiếng Urdu, là ngôn ngữ ở đây, và Pushdu, là ngôn ngữ được sử dụng ở Bắc Pakistan. Vì thế bác tài trở thành người phiên dịch và cũng là người bảo vệ của chúng tôi.

Đó là hoàn cảnh gia đình chúng tôi lúc đó. Tài liệu học tập của Jeff tôi yêu cầu gửi từ Úc đến.Ở đây người ta không những chỉ có những chương trình học qua đài phát thanh cho trẻ ở những nơi định cư hẻo lánh, mà còn có trường dạy chương trình hàm thụ qua bưu điện. Tôi đã được trường học đó ở Pakistan phục vụ rất chu toàn. Mỗi sáng, tôi đều kèm Jeff làm bài. Đó không phải là một việc dễ làm, vì Jeff không chịu ngồi yên để làm bài với tôi bên cạnh. Mãi sau, cậu bé mới quen dần, có lẽ chính vì cậu rất thích đọc và viết.

Sau khi sống ở đó một thời gian, tôi gửi Jeff đến một trường ở Pakistan để cậu bé có thể giao tiếp với trẻ con đồng lứa tuổi. Jeff được học tiếng Urdu ở đó, nhưng là cậu bé ngoại quốc duy nhất giữa bảy trăm đứa trẻ khác, nên Jeff cảm thấy rất khổ sở. Vì thế chẳng lâu sau, chúng tôi lại phải để Jeff học ở nhà.

Gerd có văn phòng riêng -và một cô thư ký chẳng biết tí gì về nghiệp vụ của mình. Cuối cùng tôi phải đảm trách việc của cô và trở thành nhân viên của công ty. Cũng không phải là một giải pháp tồi, vì chúng tôi có thêm tiền lương, và Gerd cần một người phụ tá đắc lực. Ngoài những việc đó ra, tôi cũng không bận rộn lắm.

Vì thế tôi tự học chuyên môn về ống dẫn dây điện. Công việc của Gerd là thiết kế hệ thống các đường dây điện, thực hiện các bước khảo sát cần thiết trên mặt đất, rồi vẽ các hoạ đồ để công nhân theo đó mà làm. Ngoài ra, nhà máy phát điện nối với các hệ thống đường dây này cũng được Gerd thiết kế chi li. Rồi anh cũng phải tính toán về nguyên vật liệu cũng như tiền chi phí. Nhà máy phát điện dự tính sẽ dùng sức nước của dòng Indus, nơi đã được khai thác thành đập nước. Vật liệu xây dựng đáng giá hàng triệu đô la được chuyên chở trên lưng các con lạc đà. Thật là một cảnh tượng khôi hài.

Đảo chúng tôi ở có cầu bắc đến cả hai bờ sông. Một đầu cầu nối đến Sukkur, đầu kia dẫn đến Rohri, là một thị trấn láng giềng.

Mỗi sáng, chúng tôi được đánh thức bởi tiếng xướng kinh vang vọng đến tận nhà chúng tôi. Đó là tiếng xướng kinh của một vị cố đạo ở trên đền cao, mỗi ngày năm lần, kêu gọi các con chiên của mình. Ngày nay trong các thành phố theo đạo Hồi giáo, người ta thường phát băng cassette qua máy phóng thanh. Nhưng trong những ngày ấy, người ta vẫn còn được nghe giọng thật, và giọng đọc kinh đó thật tuyệt vời. Tôi thường chăm chú lắng nghe, trong khi mắt tôi nhìn qua cửa sổ, sững sờ trước đàn lạc đà và lừa đủng đỉnh qua cầu, rung reng những cái chuông treo ở cổ, tạo thêm cho tất cả một vẻ hoàn toàn Á châu.

Ngoài nhiệm vụ quan trọng trong giao thông, những chiếc cầu còn mang các nhiệm vụ khác. Vì chúng là đầu nối giữa hai thành phố -Sukkur và Rohri- những người ăn xin thường tụ tập ở đó. Hàng chục người nằm, ngồi dọc theo cầu, chìa những bàn tay, bàn chân thương tật, kêu xin người qua đường bố thí. Tôi thường thấy dân địa phương bố thí cho mỗi người một đồng tiền.

Tôi hoàn toàn không biết phải phản ứng thế nào trong tình cảnh đó. Vì tôi và Gerd mỗi ngày đều hơn một lần đi qua đó, tôi cảm thấy tha thiết muốn làm gì đó cho họ, vì họ trông quá khổ sở, đau đớn, tuyệt vọng. Mặt khác, chúng tôi cũng không thể cho tiền họ mỗi ngày. Tôi bèn bàn với anh đầu bếp xem phải làm gì cho ổn thỏa.

Anh ta có một đề nghị rất thông minh, mà chúng tôi đã làm theo trong suốt thời gian chúng tôi ở đó. Anh ta bảo người giàu ở đây có thói quen hay mời cơm các thành viên trong tổ ăn xin của thành phố, mỗi tháng một lần. Anh ta bảo sẽ lo mua thức ăn, sửa soạn thức ăn cho họ.Khi tôi hỏi anh về đội ngủ ăn xin là thế nào, anh giải thích đó là một liên đoàn có chủ tịch, có các viên chức và những người ăn xin được liên đoàn chỉ định chỗ ngồi ăn xin đàng hoàng. Rồi anh chỉ cho tôi một người ăn xin có dáng vẻ tội nghiệp nhất, và bảo đó là chủ tịch của liên đoàn ăn xin, một người đàn ông khá giàu, có đến mấy căn nhà ở Sukkur.

Tôi lại lo lắng không biết làm sao để báo cho mấy người ăn xin biết chúng tôi sẽ mời họ như thế? Anh đầu bếp lại trấn an tôi là anh sẽ báo tin đó ở buổi chợ. Và mọi việc đã xảy ra đúng như thế. Vào một ngày nhất định, có khoảng năm trăm người ăn xin xuất hiện. Họ chuyện trò vui vẻ, ăn uống tận tình tất cả những món mà anh đầu bếp đã nấu dành cho họ. Anh đã phải sửa soạn, nấu nướng cả ngày hôm trước đó, cuối cùng không còn dư miếng nào. Có lẽ đó là cách tốt nhất, vì từ đó, mỗi lần chúng tôi đi qua cầu, các người ăn xin lại vẫy chào chúng tôi rất thân thiện, làm tôi cảm thấy nhẹ cả lòng.

Trong cuộc sống hằng ngày, kinh nghiệm của tôi đối với các người phục vụ trong nhà khi còn là đứa trẻ ở Bá Linh, đã giúp cho tôi rất nhiều. Tôi không thấy bỡ ngỡ, xa lạ khi bảo ban họ, như là mấy bà vợ của các kỹ sư ngoại quốc khác. Các bà vợ khác đôi khi phát bực khi phải lo cho quá nhiều người phục vụ. Thật vậy, đó không phải là một điều đơn giản. Lúc nào chúng tôi cũng phải lo cho họ mọi chuyện. Con gái của bác tài lập gia đình, tôi phải khuyên bác về việc mua sắm của hồi môn. Nếu một trong những ‘nhân viên’ của tôi bịnh, tôi phải kêu bác sĩ. Ngay cả khi họ cãi nhau, tôi cũng phải làm người đứng ra dàn xếp.

Tôi thường nhớ lại những thời gian cực khổ ở Thượng Hải, khi tôi rất nghèo. Giờ tự dưng chúng tôi dư giả, nếu không nói là giàu có. Tôi có bao nhiêu người giúp việc, và có thể mua gì tùy thích. Nhưng tôi cũng không biết phải mua gì cho mình. Một lần nữa cái cảm giác lạ lùng lại dâng trào trong tôi, cái cảm giác làm tôi nghĩ rằng phải có một cái gì đó cao hơn cái nghèo, cái giàu, cái có, cái không. Phải có cái gì hơn thế nữa thì cuộc đời mới có ý nghĩa hơn.

Rồi cuộc sống của chúng tôi cũng ổn định thành những ngày như mọi ngày. Jeff vẫn đi học, đi chơi. Gerd vẫn đến văn phòng hay lái xe đi khảo sát xem các đường dây cần được đặt ở đâu. Một lần anh trở về, kể rằng đã gặp một người nông dân rất già, ngồi bên vệ đường. Gerd xuống xe, hỏi ông lão đây có phải là đất của ông không, vì anh cần khảo sát địa hình. Người nông dân trả lời: “Không, đất đai này thuộc về thần Allah, tôi chỉ là người giữ đất”.

Đối với tôi, đó là một câu trả lời đầy ý nhị. Sống trên đảo, ngoài chúng tôi còn có một nhà truyền đạo Muslim, có nhiệm vụ giống như một linh mục. Ông sống một mình trong một ngôi đền nhỏ. Thỉnh thoảng chúng tôi đến thăm ông mang theo bánh, trái cây. Vì chúng tôi không nói tiếng Urdu, chúng tôi phải mang theo anh tài xế làm người thông dịch. Tôi cảm thấy từ người truyền giáo này toát lên sự bình an. Ông có thể trao đổi với chúng tôi rất nhiều điều nếu như chúng tôi có thể trao đổi trực tiếp, còn bác tài của chúng tôi thì có lẽ chẳng hiểu gì về những điều chúng tôi muốn biết. Thật là uổng phí, vì không dễ gì gặp được những vị cao đạo mà bạn cảm thấy muốn gửi gắm những điều quan trọng.

Gerd bỗng ngã bịnh sốt rét. Tôi chở anh trong tình trạng nguy kịch, đến một bịnh viện của các bác sĩ quân đội người Hà Lan. Họ chữa khỏi cho anh, nhưng cũng phải mất mấy tuần trước khi Gerd có thể về nhà. Suốt thời gian trong bịnh viện, tôi cũng kiếm việc phục vụ để không cảm thấy mình vô tích sự. Nhưng phải thú thật là tôi đã cố gắng lắm để không gớm ghiếc, nôn mửa. Có lẽ tôi không thích hợp làm những công việc trong bịnh viện, nhất là trong những điều kiện như thế này. Những gì tôi mắt thấy, tai nghe ở nơi đây chỉ làm tôi thêm buồn lòng. Cách quản lý thì tồi tệ, dụng cụ y khoa thì thô sơ, không đảm bảo vệ sinh. Các bác sĩ đã làm tất cả trong khả năng của mình, nhưng lúc nào hình như cũng có quá nhiều bịnh nhân, quá nhiều căn bịnh.

Chúng tôi càng thêm thất vọng. Vì chúng tôi nhận làm công việc này không chỉ vì đồng lương, mà vì chúng tôi nghĩ có thể giúp cho cuộc sống của những người dân nghèo khổ ở đây được khá hơn, bằng cách đem đến cho họ ánh sáng của nguồn điện. Nhưng cuối cùng đó chỉ là một giấc mộng hảo huyền. Thực tế là chỉ có những điền chủ giàu có mới được hưởng sự ích lợi đó, còn người nghèo khổ thì chả được hưởng gì. Sau khi nhà máy phát điện đã được hoàn thành, họ vẫn nghèo khổ như tự bao giờ.

Ở địa vị của Gerd, anh còn phải có bổn phận trong các công việc giao tiếp xã giao. Chúng tôi phải giao tiếp với các đồng nghiệp trong ngành điện ở Pakistan, với các kỹ sư cùng làm trong công trình, các nhà ngoại giao và nhân viên ở lãnh sự quán. Chúng tôi thường phải tham dự các hội hè ở Lahore và Karachi. Những lúc đó chúng tôi phải nghỉ tại các khách sạn sang trọng, đắt tiền.

Những loại công tác này không thích hợp với cá tính của chúng tôi. Cả Gerd và tôi đều cảm thấy đó không phải là cách sống của chúng tôi. Người ta tụ họp lại, xã giao ba tấc lưỡi, rồi ăn nhậu -đó là phần quan trọng nhất. Ngoài ra, chúng tôi ăn chay, mà trong các bữa tiệc này luôn thừa mứa các món ăn làm từ bao nhiêu là thịt cừu, thịt dê. Và các câu chuyện xã giao chúng tôi cũng chẳng thấy thú vị gì. Vì thế, chúng tôi quyết định là sau hai năm, chúng tôi sẽ không gia hạn hợp đồng làm việc.

Nhưng ở Pakistan, điều làm tôi bức xúc nhất là vấn đề nữ quyền. So với nam giới, họ chẳng có chút quyền hạn nhỏ nhoi nào, ít nhất là ở thời điểm chúng tôi có mặt ở đó. Có lẽ qua thời gian đã có nhiều thay đổi chăng, tôi sợ là không được nhiều lắm. Nhất là ở vùng thôn quê, nơi chúng tôi sống, tất cả phụ nữ Pakistan phải mặc burka. Burka là loại áo trùm phủ người đàn bà từ đầu đến chân. Chỉ chừa ra đôi mắt, để họ đi không bị vấp ngã thôi. Chỉ có ở Karachi, thỉnh thoảng tôi còn thấy các phụ nữ trẻ không che mặt.

Ban đầu tôi quen ra phố với trang phục bình thường, nhưng đám thiếu niên, hay ngay cả đàn ông lớn tuổi thường chọi đá vào tôi. Phụ nữ mà để mặt ra đường, anh đầu bếp cho tôi biết, bị người ta coi là gái điếm. Dầu tôi là người ngoại quốc, họ cũng chẳng cần quan tâm. Vì thế để khỏi bị lâm vào tình cảnh trên, cuối cùng tôi cũng phải nhờ thợ may may cho một bộ burka. Mặc loại áo đó thật là khốn khổ. Khó chịu nhất là bên trong rất nóng, tôi lại không thể thấy gì nhiều. Vì thế tôi cũng ít mặc nó ra đường.

Trong kinh thánh Koran tôi được đọc, phụ nữ chỉ có thể để lộ thân thể với chồng mình. Điều đó có nghĩa là, ngay cả với các bác sĩ, họ cũng không được phép cởi bỏ quần áo. Chỉ khi người chồng có mặt, thì các bác sĩ mới được quyền khám dưới lớp áo burka.

Phụ nữ chỉ được xuất hiện nơi đám đông khi thật cần thiết. Khi Gerd và tôi lái xe đi xuyên qua các vùng quê, chúng tôi thường được các điền chủ, hay các ông chủ nhà máy dệt, ở dọc theo lộ trình mời đến nhà. Không bao giờ trong các cuộc đón tiếp có mặt người phụ nữ. Chỉ khi nào tôi yêu cầu, thì mới được phép đến chỗ ở của họ. Những lúc như thế, tôi thường nghe phụ nữ than thở về sự bất hạnh của họ. Tóm lại, họ không được quyền làm gì cả ngoài việc sinh con và ăn uống. Khi còn trẻ, họ đẹp, nhưng vì không được đi đâu sau khi lập gia đình, họ thường trở nên béo phì. Cuối cùng, niềm lạc thú duy nhất của họ có lẽ chỉ là ăn uống.

Trong những gia đình chúng tôi thăm viếng, tôi được gặp một phụ nữ trẻ, con nhà gia giáo, có học, biết nói tiếng Anh. Cha cô từng là nhà ngoại giao của Pakistan ở Mỹ. Cô là dâu trong gia đình chúng tôi đến thăm viếng. Cuộc hôn nhân của cô rất đặc biệt -đó là một cuộc hôn nhân dựa trên tình yêu. Dầu vậy cô cũng rất khổ đau với những gì xã hội áp đặt lên cô. Cô đã thành lập một trường học cho các em bé gái, xem ra đó là ngôi trường duy nhất dành cho bé gái. Cô đã mời tôi đến thăm và dạy học ở đó. Nhưng việc không thành vì đám trẻ không nói được tiếng Anh, và tôi cũng không thể dạy chúng trong một thời gian quá ngắn. Rồi những ngày tháng sống ở Pakistan của chúng tôi cũng dần hết hạn.

Trước khi ra đi, tôi có đến viếng thăm cô bạn trẻ này đôi lần ở trường, và thấy cô rất hạnh phúc trong công việc của mình. Công việc này đã mang đến cho cô niềm tự tin mà các chị em bạn dâu khác của cô không thể nào có được. Họ chỉ biết ta thán về một cuộc sống buồn chán, tù túng. Chỉ có bà mẹ chồng là cảm thấy mọi việc không có gì đáng phàn nàn. Nhưng không biết khi còn trẻ, thì bà có suy nghĩ như thế không?

Có lần tôi mời họ đến nhà chơi. Họ đến trong những chiếc burka lụa đen, mà khi vừa bước vào đến bên trong, họ vội vàng cởi ra ngay. Đến khi thấy cậu bé giúp việc mang cà-phê, bánh vào, họ thét lên chạy túa ra khỏi phòng. Thì ra theo luật, cậu không được phép nhìn thấy mặt họ! Tôi phải thề sống, thề chết với họ là cả tôi cũng như cậu bé giúp việc sẽ chẳng ai dám hở chuyện đó ra với ai. Cũng phải một lúc sau, họ mới hoàn hồn để thưởng thức những chiếc bánh tôi đã đặc biệt dặn làm cho họ. Khi họ ra về, tất cả đều hết sạch.

Tôi hỏi họ có nghĩ đến việc thay đổi cách sống không? Tôi đề nghị một vài thay đổi mà tôi đã có suy nghĩ qua. Họ ừ hử, rồi hỏi tôi bằng cách nào? Hình như họ không xem những điều tôi nói là nghiêm chỉnh, cũng như không thực sự nghĩ rằng họ có thể thực hiện được. Rõ ràng là họ chỉ muốn được tâm sự dù chỉ một lần những bất hạnh của mình với một người mà họ biết chẳng bao giờ đem nói đi, nói lại. Nhưng ngoài việc thở than, họ chẳng muốn làm gì để thay đổi số phận cả. Tôi sợ rằng cho đến bây giờ những người phụ nữ Pakistan cũng vẫn phải chịu áp bức như ba mươi lăm năm trước, khi tôi sống ở đó.

Tôi còn nhớ rõ một cảnh tượng đã xảy ra ở Sukkur. Có rất nhiều rạp chiếu bóng ở đó, và một ngày kia, người ta quảng cáo một phim của cô đào Marilyn Monroe. Một tấm biển đồ sộ chưng hình cô đào mặc áo tắm được dựng lên! Chúng tôi tình cờ đi ngang qua, chứng kiến hằng trăm người đàn ông đứng trước tấm poster, trố mắt, há mồm ngắm nhìn thân thể của cô đào hát. Thật là quái gở. Trong khi đàn bà của họ, đi qua đi lại trong những tấm vải đen bịt bùng.

Gerd rất thích chụp ảnh. Trước cảnh tượng đó, anh đưa máy lên chụp. Hành động đó khiến anh xuýt bị no đòn, nếu như anh đã không nhanh chân chạy thục mạng. Nhẹ lắm thì chắc cũng bị họ đập nát máy ảnh. Có lẽ Gerd cũng không nên chụp hình lúc đó, nhưng cảnh tượng đó rõ ràng phản ảnh sự méo mó trong cuộc sống khi giới tính này đàn áp giới tính kia.

Sau hai năm, hợp đồng của chúng tôi chấm dứt, nhưng nhà máy điện vẫn chưa xây xong. Dự án tiến triển quá chậm. Các bản vẽ được thiết kế, thâu nhận, ký tên rồi chờ đợi. Mấy chú lạc đà đã tốn công chở hằng triệu đô la Canada tiền vật liệu trên lưng. Lạc đà đúng là một phương tiện chuyên chở tốt trên sa mạc cát, nhưng chúng cũng rất cứng đầu, cục tính. Nhiều con phải bị niềng quai hàm, nếu không nó sẽ cắn cả chủ. Và khi chúng không muốn di chuyển, chúng cứ nằm dài ra đường. Người ta nói nếu bắt lạc đà chở quá sức, chúng sẽ không đứng dậy. Sự lỳ lợm của chúng làm tôi phải ngạc nhiên.

Chúng tôi sống gần ở những nơi mà năm ngàn năm trước đây nền văn minh của thung lũng Indus đã rộ nở. Nhưng cho đến bây giờ, người ta cũng không giải thích được về sự lụn bại của nó. Thí dụ như Mohenjodara, cách nơi chúng tôi chừng bốn mươi kilomét. Người dân nơi đây từ thời xa xưa đó đã có nhà tắm xây trong nhà, cũng như rất nhiều nhà tắm công cộng. Họ đã có đường tráng nhựa, và hệ thống xử lý rác. Quanh Mohenjodara là những cánh đồng họ đã từng canh tác. Có giả thuyết cho rằng lý do thành phố này bị bỏ hoang là vì những cánh đồng này dần dần không cho hoa mầu, vì thế dân chúng cứ phải di dân dần ra xa, khỏi xứ.

Chúng tôi thường đến thăm viếng những nơi hoang tàn đó, vì chúng rất nhiều trong vùng chúng tôi ở. Chúng tôi tìm thấy những hộp đất sét, nữ trang và rất nhiều lu hũ trang trí thẩm mỹ. Có lần chúng tôi khám phá ra một khu đồ đá, đào được khá nhiều đồ, nằm gần như lộ thiên: cung, nỏ, búa, dao. Chúng tôi lấy một ít và báo cho chính quyền ở Karachi về sự khám phá đó. Bảo tàng viện ở Karachi chở một đàn lừa đến chở đồ trong những chiếc túi vải về thành phố. Những món đồ này có đến hơn năm trăm năm, và có hình dáng giống như những đồ đá tìm thấy được ở Au châu.

Jeff thích đi lang thang khắp nơi trên đảo Indus. Cậu bé tìm được rất nhiều thứ: các loại ốc, cây kiếng và lu hũ. Chúng tôi thường nhờ bảo tàng viện ở Karachi định ngày tháng của những cổ vật. Một lần Jeff tìm được những miếng gạch bằng ceramic đẹp tuyệt vời. Có lẽ từ một ngôi đền xây trên đảo từ thế kỷ thứ bảy. Chúng tôi mang một ít gạch ngói này về Úc.

Lần khác, Jeff về nhà, giấu hai tay sau lưng và nói: “Mẹ, đoán xem con đã tìm được thứ gì?” Tôi không thể đoán được. Đó là một con ngựa nhỏ bằng đất sét, dài khoảng mười centimét, cao năm centimét. Sau này chúng tôi mới biết con ngựa đó đã một ngàn năm tuổi!

Jeff vẫn còn giữ con ngựa nhỏ đó ở nhà, trong một chiếc hộp lồng kính. Đó là vật duy nhất khiến Jeff nhớ về Pakistan. Ngoài ra không còn nhớ gì nữa cả -những con lạc đà, dòng Indus, các người giúp việc, những buổi sáng tôi dạy con học, tiếng xướng kinh của người giữ đền vào những buổi mờ sáng. Tất cả đã chìm vào lãng quên.

Khi thời hạn sống trên đảo đã hết, chúng tôi đóng tất cả đồ đạc vào các thùng và gửi về Úc, nhờ người ta giữ dùm. Gerd dự định sẽ bay qua Luân Đôn, mua một chiếc xe van hiệu Land Rover để lái xuyên suốt Au châu, Á châu, Kashmir, Ấn Độ, cho đến tận Singapore. Rồi từ đó chúng tôi sẽ lấy tàu trở về Úc. Dĩ nhiên đó chỉ là dự tính của Gerd, chứ không phải của tôi. Tuy nhiên, cũng như mọi lần, tôi luôn làm theo ý anh.

Những gì tôi muốn tìm kiếm, tôi cũng chưa khám phá ra. Có thể tôi sẽ tìm được chúng ở một nơi nào đó, một ngày nào đó.

-ooOoo-

Chương 9

Cuộc Sống Tự Do

Đêm rất dài đối với người thức trắng
Đường rất xa với kẻ lữ hành
Dài thăm thẳm kiếp luân hồi tiếp nối
Của kẻ ngu si, chẳng biết Chánh Pháp.
Kinh Pháp Cú – 60

Chúng tôi đến Luân Đôn với rất ít hành lý. Nhân viên của công ty Rover đón chúng tôi tại phi trường, trao tận tay Gerd chìa khóa của chiếc xe van Land Rover, và nói: “Thượng lộ bình an”, rồi biến mất. Gerd chưa quen với chiếc xe mới, và cũng chưa quen lái bên trái đường.Bạn có thể hình dung ngày đầu tiên của cuộc hành trình của chúng tôi như thế nào! Gerd cứ tìm và bật tín hiệu quẹo mặt, trong khi tôi ngồi kế bên hét lên: “Trái! Trái!” vì anh cứ theo thói quen làm ngược lại.

Jeffrey ngồi ở phía sau, hoàn toàn không động đậy. Tôi không nhớ, dù chỉ một lần, trong suốt các cuộc hành trình dài dẳng, cậu bé khóc lóc, cằn nhằn hay la lối. Lúc nào cậu cũng ngồi đằng sau xe, ngó ra cửa sổ. Có lần chúng tôi hỏi có gì hay ở ngoài cửa sổ mà con cứ ngó hoài. Cậu bé trả lời: “Giống như một cuốn phim vậy, mọi thứ diễn ra bên ngoài cửa sổ, và con chỉ việc xem”.

Chúng tôi nhận được thư của mẹ và dì. Họ trách tôi cứ mang đứa trẻ đi khắp địa cầu, không để cho nó có cuộc sống bình thường với bạn bè, gia đình. Mọi đứa trẻ đều cần có một mái nhà ổn định, họ nói. Không thể phủ nhận điều ấy. Đó là cách suy nghĩ của nhiều người. Nhưng con trai tôi, Jeff có vẻ thích thú lắm với cuộc sống rày đây mai đó.

Ở Luân Đôn, chúng tôi mướn được một khoảng đất trống trong khu đậu xe kiểu nhà lưu động, và bắt đầu trang trí bên trong chiếc Land Rover thành một chỗ ở ấm cúng, thoải mái. (LND: Ở các nước phương Tây, có loại nhà có thể di dời gọi là mobile home. Các ngôi nhà này không có đất cố định mà phải mướn đất để ‘đậu’). Các băng xe có thể xếp lại thành giường đôi. Có bàn, có bếp, có các tủ chứa đồ và một chỗ làm bếp. Trần xe có thể đẩy cao lên để có thể đứng thẳng trong xe. Phía gần trần xe, có thêm hai giường ngủ. Jeff ngủ ở đó. Khi xe chạy ta có cảm giác như đang nằm trên võng, nên Jeff rất thích.

Chúng tôi có rất nhiều thì giờ rổi rãi. Nếu thích, chúng tôi có thể lái xe qua những ngôi làng nhỏ, dễ thương ở Anh, đến Dover, rồi từ đó đi xuyên qua Pháp xuống bãi biển Côte D’Azur. Chúng tôi không cần có một lịch trình nhất định, vì không có ai chờ đón chúng tôi ở nơi nào cả. Tôi nhớ rất rõ cảm giác tự do, thoải mái được trôi theo thời gian. Cả tôi và Gerd đều có học tiếng Pháp ở trường, nhưng thứ tiếng Pháp đó không giúp chúng tôi giao tiếp được với ai.Cách phát âm của chúng tôi quá tệ, khiến không ai hiểu được. Ngược lại, người Pháp cũng chẳng muốn hay chẳng thể nói tiếng Anh.

Ở Monte Carlo, tôi muốn đi thăm sòng bạc để biết nó ra làm sao, coi như làm phong phú thêm kinh nghiệm sống của mình. Jeff không đi, ở ‘nhà’ ngủ sớm. Tôi cho người bảo vệ ít tiền, nhờ anh trông chừng dùm cháu và xe. Nhưng Jeff như thường lệ, ngủ một mạch đến sáng.

Ở các sòng bạc, tôi quá ngạc nhiên bởi vẻ lịch sự của các tay đánh bạc, và mọi thứ ở đây đều phục vụ miễn phí, khỏi trả tiền -nước uống, bánh mì sandwich, thuốc lá, xi-gà. Nhưng có lẽ thú vị hơn cả là được xem người ta đánh bạc. Bạn có thể nhìn thấy trên mặt họ tràn đây lòng tham, mà trong cuộc sống thường ngày đã được giấu kỹ. Ở đây không ai phải làm màu với ai. Lòng tham được bộc bạch một cách trắng trợn khiến tôi không thể không nghĩ đến hai chữ “Địa Ngục” ngay tức thì. Trong tiếng Đức, danh từ chỉ nơi đánh bạc là Spielholle, hay là “địa ngục bạc bài”.

Điều này làm tôi nhớ đến một kỷ niệm khác. Khi tôi bắt đầu tu thiền, ngay ngày thứ hai là tôi đã có ‘kinh nghiệm về địa ngục”. Tôi có cảm giác tôi bị những sinh vật mỏng manh, dị hình, như những cành cây, nhún tôi lên xuống trong những thùng dầu nóng đỏ. Vừa làm như thế, chúng vừa nói bằng cái giọng the thé: “Đây là con đường đi đến giải thoát. Đường đến giải thoát”. Tôi chỉ có thể vùng thoát khỏi chúng sau khi xả thiền. Sau này tôi khám phá ra Đức Phật đã dạy, ai cũng phải một lần trải qua kinh nghiệm khổ đau cùng cực như trong địa ngục này để có thể bắt đầu bảo vệ mình khỏi những hiểm họa của ác nghiệp.

Ở Monte Carlo, tôi đặt hai đồng tiền xuống bàn roulette. Người quay vòng hô lên: “Không ai đặt nữa”, rồi thả trái banh cho quay. Dĩ nhiên là tôi thua -may mà chỉ ít tiền.

Sau đó chúng tôi lái xe đến Tây Ban Nha, rồi từ đó qua Ý, rồi qua Ao. Lý do duy nhất để giải thích sự đi lòng vòng này là vì Gerd không muốn phải ghé qua Đức. Anh bảo là anh không có can đảm đến đó. Đối với tôi, tôi đã xả bỏ, nhưng anh thì chưa làm được. Dầu anh vẫn nói tiếng Đức, nhưng anh không muốn trở về xứ sở nơi cha mẹ anh đã bị giết. Mãi sau này, khoảng hai năm trước đây, may mắn thay anh đã thay đổi, vì lòng hận thù, ghét bỏ chỉ đem lại khổ đau -cho chính chúng ta và cho cả nhân loại.

Chúng tôi đã viếng thành phố Vienna, đã nhìn tận mắt bánh xe khổng lồ Ferris ở thành phố Prater. Đã ghé qua Nam Tư, viếng Dubrovnik, thành phố biển đẹp tuyệt vời (ít nhất là đẹp ở thời điểm đó). Buổi tối, các đoàn vũ công với những lễ phục truyền thống đầy màu sắc nhảy múa trên mái lầu. Tất cả dân địa phương và khách ngoại quốc đều ngồi trên những bực thềm của các con đường dốc nhỏ hẹp, vừa chuyện trò, vừa thưởng thức âm nhạc và các vũ điệu. Kỷ niệm đó bây giờ nhớ lại chỉ gợi niềm đau vì cả thành phố giờ gần như đã bị tiêu hủy hoàn toàn.

Sau đó là Hy Lạp và Acropolis. Có lần chúng tôi đi dự một buổi trình diễn ngoài trời: một vỡ kịch cổ điển Hy Lạp, trình diễn bằng tiếng Hy Lạp. Chúng tôi không hiểu một lời nào, nhưng điều đó không quan trọng. Quan trọng là cảm giác được ngồi trên những viên đá hai ngàn năm tuổi, ngắm nhìn các diễn viên trong những trang phục màu trắng, nghe họ nói như hát. Cảm giác giống như một giấc mơ tuyệt vời.

Sau đó chúng tôi lái xe qua Bức Màn Sắt đến Bulgari. Mang hộ chiếu Anh và Mỹ, chúng tôi không gặp khó khăn gì khi nhập cảnh vào đây. Nhưng hóa ra chúng tôi không thể mua gì ăn ở đây. Chẳng có gì cả! Cả cái siêu thị to lớn trống trơn, trong khi chúng tôi phải mua thức ăn Mỗi ngày, vì không có tủ lạnh để trữ đồ ăn. Khắp nơi, chúng tôi thấy những tấm biển to lớn được dựng lên để thông báo người này, kẻ kia đã là nhân viên lao động xuất sắc trong tháng, và đã được huân chương. Nhưng chúng tôi không tìm được cả đến một mẫu bánh mì.

Gerd tăng tốc độ xe để chúng tôi có thể ra khỏi đây qua Thổ Nhĩ Kỳ càng sớm càng tốt. Chúng tôi lái xe dọc theo bờ Biển Đen, một bãi biển trải dài tuyệt đẹp, và chính ở đây, chứ không phải ở nơi nào khác, chúng tôi gặp tai nạn, lần đầu tiên trong suốt cuộc hành trình.

Dừng xe van ở một chỗ đẹp nhất, giữa thiên nhiên, như thường làm. Chúng tôi đang dùng bữa tối, thì thình lình một người đàn ông xuất hiện, tay cầm một con dao lớn. Hắn ta ra lệnh gì đó, mà chúng tôi không hiểu. Chắc là hắn muốn đồ ăn, tôi nghĩ, nên đưa đồ ăn cho hắn. Nhưng hắn không cần đồ ăn, mà ngó quanh quất, rồi leo lên xe, lục tung đồ đạc, rồi trèo xuống. Lúc nào cũng chỉa mũi dao về phía chúng tôi. Đang lúc chúng tôi nghĩ nếu cứ như thế này thì nguy mất, thì bỗng nhiên hắn bỏ đi.

Dĩ nhiên, sau đó chúng tôi cũng lẹ làng chạy đi nơi khác, không dám ở thêm một phút. Gerd lái mãi, lái mãi cho đến khi chúng tôi đến một đồn điền hoa quả. Ở đó có một người bảo vệ già, ông cho chúng tôi lái xe qua cổng, rồi đóng lại. Ông nói chút ít tiếng Đức. Ông cho phép chúng tôi ở lại qua đêm và muốn ăn bao nhiêu trái cây tùy thích. Nhờ vậy, chúng tôi mới qua được một phen sợ điếng hồn.

Từ đó trở đi, suốt thời gian ở Thổ Nhĩ Kỳ, mỗi đêm chúng tôi đậu xe trước cửa đồn cảnh sát để ngủ. Ai lại dám đùa với số mệnh bao giờ.

Tính từ nửa thế kỷ trở lại đây, có lẽ chúng tôi là những người cuối cùng có thể du lịch một cách thong dong như thế này. Không có gì hối thúc chúng tôi, không phải chạy theo chương trình du lịch nào như những người du lịch ngày nay. Đó là một cuộc hành trình rất dài, nhìn lại tôi thấy giống như một tấm thảm đủ màu sắc.

Ở Thổ Nhĩ Kỳ, chúng tôi đi thăm Troy, một thành phố cổ đã được Schliemann khám phá ra. Lúc đó ở Iraq đang có biến loạn, nên chúng tôi nhanh chóng qua Iran. Ở Teheran, chúng tôi bị chìm vào trong biển xe cộ hỗn loạn. Tôi nghĩ chắc không có đâu mà tình trạng giao thông lại tệ hại đến vậy. Tôi có cảm tưởng như các bịnh nhân tâm thần đã trốn khỏi viện, ra đường lái xe, nhưng hình như không có ai quan tâm sửa đổi. Vậy mà khi Gerd vừa phạm lỗi quẹo vào con đường một chiều, lập tức một người cảnh sát xuất hiện. Anh ta tỏ ra rất nghiêm khắc, và xem đây là một trọng tội. Chúng tôi làm anh ta phát bực khi cứ tiếp tục nói tiếng Tây Ban Nha. Anh ta không hiểu được một chữ. Sau khoảng nữa tiếng, anh ta ra lệnh bằng tiếng Anh, bảo chúng tôi lái xe đến một trụ sở cảnh sát gần đó nhất. Rồi anh ta bỏ đi. Dĩ nhiên là chúng tôi chẳng lái đến trạm cánh sát nào cả.

Điều gây ấn tượng cho tôi nhất ở Teheran là các chợ. Ở đâu cũng đầy mùi gia vị, dầu, và đầy các tấm thảm tuyệt đẹp. Chúng tôi phải tự kiềm chế lắm để khỏi tiêu xài quá đáng, vì chúng tôi muốn để dành tiền mua một nông trại ở Úc khi trở về đó.

Ở Afghanistan lại có chiến tranh. Không ai được phép đến đó. Vì thế chúng tôi qua Pakistan, nơi những thùng đồ của chúng tôi đã được gửi đến. Vừa đến Pakistan không lâu, thì Gerd lại bị sốt rét. Chúng tôi phải đợi mất vài tuần trước khi anh hồi sức. Do đó, tôi được có thì giờ đi thăm bạn bè, thăm viếng công trình Indus, một công trình phát triển quá chậm chạp -cũng không lạ gì nếu như bạn biết người ta đào các hầm hố để làm nền như thế nào; bằng cách mướn các bà mặc áo dài lượm thượm, đội trên đầu các giỏ nhỏ đựng cát đất.

Sau đó đến Ấn Độ. Ở đó chúng tôi có hai chuyến đi rất thú vị, một là đến Kashmir, hai là Hunza.

Để đến được Kashmir, chúng tôi phải đi qua dãy Hy Mã Lạp Sơn bằng những con đường qua núi. Trong suốt cuộc hành trình, chúng tôi được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của núi Everest trong ánh sáng ban mai. Trên những con đường dốc đó, tuyết phủ đầy. Có lần, bỗng nhiên, từ đâu xuất hiện một chiếc xe chở quân đội Ấn Độ ở bên đường ngược chiều. Gerd không thế thắng được vì tuyết. Hai chiếc xe đụng nhau. Phía trước đầu xe của chúng tôi bị móp khá nặng, nhưng đầu máy không hề gì, xe vẫn chạy được. Tôi thì bị bầm một mắt, vì mặt tôi đập vào kính cửa khi hai xe đụng nhau. Cả xâu chuỗi đeo cổ bằng ngà của tôi cũng bị văng mất. Ngoài ra, không có gì hệ trọng nữa.

Khi đến được Kashmir, chúng tôi bỏ xe sửa. Người Kashmir rất khéo trong các nghề thủ công. Họ làm ra những chiếc khăn, những đồ thêu thùa, dệt, vẽ trang trí tuyệt vời. Không thể tưởng tượng được sau khi xe sửa xong, chúng tôi không thể tìm thấy được vết trầy nào trên xe.

Khi chiếc Rover nằm ở garage sửa xe, chúng tôi mướn một chiếc ‘nhà thuyền’ đi chơi. Tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Cả thuyền được trải đầy các tấm thảm. Có thảm để ngồi, thảm để bàn, thảm treo tường, thảm trên giường ngủ. Rồi trên thảm chất đầy những chiếc gối êm ái. Nhìn vào thật tuyệt. Và một tuần lễ trên đó giúp chúng tôi hồi phục sức khỏe nhanh chóng. Thật vậy dầu đi du lịch tự do, nhưng ở trong chiếc Rover với đứa trẻ, lại phải chăm lo dạy học cho nó, cũng làm chúng tôi rất mệt.

Ở Kashmir, chúng tôi rất tò mò về ngôi mộ của Chúa Jesus ở không xa thành phố Srinagar lắm. Chúng tôi đã đến đó thăm viếng, nhưng không thể tin vào sự trung thực của nó. Có rất nhiều giả thuyết -và cả những chứng cớ- rằng Chúa đã đến nơi này, nơi kia, sau khi mất ở Jerusalem (mà theo những người này chỉ là một cái chết giả), sau đó ngài trở về Kashmir.

Sau đó chúng tôi lại đến vùng núi đá ở phía Bắc Kashmir: đó là vùng Hunza. Ở đó trong một diện tích khoảng tám ngàn thước vuông, có khoảng mười ngàn người sống, mà vì cách sống của họ, đã có thể thọ đến -một trăm hai mươi tuổi hay hơn thế nữa. Một dân tộc hạnh phúc với ngôn ngữ và văn hoá riêng của mình.

Để đến được nơi đó, trước hết chúng tôi phải lái tận đến Gilgit, một thành phố nằm trên những con đường dẫn qua Trung Hoa. Từ Gilgit trở đi, không có gì chắc chắn cả. Chỉ có một con đường duy nhất dẫn vào Hunza -chữ ‘đường’ ở đây hình như hơi phóng đại quá. Đúng hơn phải gọi đó là ‘những dấu chân thần chết”.

Nhưng muốn gọi là gì, những con đường này cũng chỉ dành cho người Hunza. Không ai khác được phép sử dụng chúng.

May mà chúng tôi gặp được một chiếc xe Jeep nhà binh đang chạy tới, còn ba chỗ trống trên xe. Bác tài, Jeff, đến tôi, rồi Gerd, tất cả chèn vào băng ghế trước. Phía sau chấp đầy những bao ngũ cốc, và sáu người Hunza ngồi trên đó. Con đường rộng vừa đúng một chiếc xe, và rất dốc. Xe đi dọc theo đèo. Nên phía bên mặt là vách đá, bên trái thăm thẳm sâu là con sông Hunza. Có những chỗ ngoặt quá gắt đến nỗi tài xế phải bám xe sát vào thành núi mới có thể vượt qua. Chiếc xe cũng không phải tốt lắm. Có vẻ như nó được lắp ráp từ rất nhiều phần của các xe jeep khác nhau, mà có lẽ người ta đã bỏ lại từ các cuộc hành trình.

Trước khi khởi hành, bác tài ngừng xe lại ở một đền thờ, cầu nguyện vài phút, rồi bỏ một đồng tiền vào cái tô. Bác nói rằng, bác làm vậy để cầu cho chúng tôi không bị lật xe, ngã xuống sông. Có lẽ vì tôi nhìn bác với vẻ không tin, nên bác lại thêm rằng, tai nạn xảy ra thường ngày như cơm bữa. Gần đây, một chiếc xe buýt nhỏ đã rớt xuống đèo, ba mươi hành khách trên chuyến xe đều chết hết. Nghe tới đó, tôi lẹ làng móc thêm một đồng tiền nữa bỏ vào tô.

Phải thú nhận rằng ở thời điểm đó, tôi chưa nghĩ đến cái chết bao giờ, tôi vẫn còn tha thiết muốn sống lắm. Ngày nay thì đã khác, nhưng lúc đó, ý tưởng phải biến mất khỏi mặt đất là điều tôi khó chấp nhận. Ngoài ra, tôi không muốn mất Jeffrey và Irene, tôi vẫn còn muốn gặp lại hai con tôi.

Nói gì thì nói, chúng tôi vẫn lên đường, và trái với dự đoán, mọi việc đều an lành. Có lần chúng tôi đến một con đường đã bị phá hủy. Một số người Hunza đang sửa chữa. Chúng tôi phải đợi họ sửa xong, mới có thể tiếp tục lên đường.

Cuối cùng, chúng tôi cũng đặt chân đến được một làng đầu tiên của người Hunza. Bác tài xế có rất nhiều bà con quyến thuộc, bạn bè ở đây, họ mững rỡ đón tiếp bác. Họ mời bác ta uống rượu. Khi tôi hỏi loại rượu gì, bác nói đó là Hunzapani. Pani có nghĩa là nước, nhưng Hunzapani lại không phải là nước, mà là rượu, và bác tài của chúng tôi uống thả dàn.

Vài người khách bắt đầu trèo xuống xe, khiêng theo các bao tải. Rồi thêm vài người nữa, cho đến lúc chỉ còn có chúng tôi và bác tài. Rõ ràng là bác tài đang rất yêu đời, bác vừa lái, vừa ca hát ỏm tỏi. Nhưng con đường không đổi tốt hơn. Vẫn dốc và quanh co như trước đó. Tôi càng lúc càng thấy lo thêm.

Cũng may mà chúng tôi đến Baltit an toàn. Thủ đô Baltit nằm ở độ cao ba ngàn năm trăm thước. Chúng tôi mướn phòng ở một quán trọ nhỏ. Không có đầy đủ tiện nghi, nhưng là một nơi có cảnh trí đẹp tuyệt vời. Khó thể tưởng tượng được một nơi đẹp như thế. Trước mắt chúng tôi là khung cảnh của cả dãy Hy Mã Lạp Sơn. Ở đây buổi sáng lúc mặt trời lên là một cảnh tượng thiên nhiên khó thể diễn tả nổi.

Vừa đến nơi không lâu, thì chúng tôi đã có người nhà của ngài Mir đến thăm. Ngài Mir của Hunza, chính là vị vua của đất nước này. Theo sự phân chia chính trị, thì Hunza thuộc về Pakistan, nhưng thực tế nó được tự quản. Chúng tôi được báo là nhà vua mời dùng cơm ngày mai. Đúng là tin hay. Vì chúng tôi vừa đến, hãy còn xa lạ với mọi thứ, vậy mà đã được nhà vua mời dùng cơm. Chúng tôi hồ hởi chuẩn bị.

Nhà vua sống trong một biệt thự bằng gỗ nhỏ, rất đẹp, chứ không ở trong lâu đài. Đúng hơn, chúng tôi có thể gọi đó là một ngôi nhà bằng gỗ tuyệt đẹp, với nhiều chạm trổ tinh vi bên ngoài. Khi chúng tôi bước vào đã thấy nhà vua và hoàng hậu ngồi chờ. Hoàng hậu có nước da trắng và đẹp như một bức tranh. Nhà vua lập tức báo cho chúng tôi biết là Ngài có bảy người con với Hoàng hậu. Tôi đoán có lẽ ông khoảng năm mươi, cái tuổi mà ở Hunza, ông vẫn còn là một người đàn ông trẻ.

Việc đầu tiên nhà vua hỏi chúng tôi là đã đến đây bằng cách nào. Bằng xe Jeep, chúng tôi trả lời. Nhưng ý nhà vua không phải hỏi thế. Mà vì người ta cấm nhập cảnh vào đất nước này. Đã từ lâu, không có du khách nào đến đây cả. Lý do nhà vua hỏi điều đó là vì, Hunza nằm dọc theo biên giới Tây Tạng, và lúc đó Trung Hoa đã chiếm Tây Tạng. Mọi cửa biên giới ra vào ở những xứ này đều đã bị đóng. Không ai được vào hay ra.

Thật ra lúc còn ở Karachi, chúng tôi đã nhận được giấy phép. Nhưng theo nhà vua, đó là do một sự lầm lẫn nào đó. Dầu gì, nhà vua rất vui mừng đón tiếp chúng tôi. Đã từ lâu ông mới được gặp những người ông có thể chuyện trò. Ong nói tiếng Anh rất lưu loát, thường du lịch qua Au châu, đến Côte D’Azur. Ong là bạn của Thái tử Rainier của Monaco, nên rất mong được gặp những người bạn tâm đầu.

Phần còn lại của buổi nói chuyện xoay quanh một đề tài khá cụ thể là chúng tôi có biết sử dụng tủ lạnh xài dầu không. Gerd nói: “Vâng, chúng tôi cũng có biết chút ít về loại tủ lạnh đó”. Thật vậy, lúc còn ở trên đảo ở Pakistan, chúng tôi đã có được sử dụng. Nhà vua bảo rằng ngài vừa mua một cái mới tinh, được mấy người Hunza khiêng trên lưng từ Baltit đến đây, nhưng không ai biết làm sao cho nó chạy.

Nghe như thế, Gerd liền đi vào nhà bếp, và làm như chúng tôi vẫn thường làm hồi đó khi chiếc máy lạnh đình công, không chịu chạy. Anh lật úp nó lại. Phải để như thế qua đêm, Gerd dặn dò. Đến hôm sau khi chúng tôi trở lại, có thể nó sẽ hoạt động trở lại.

Sáng hôm sau chúng tôi trở lại, Gerd lật tủ lạnh trở lại, và đúng là nó đã chịu hoạt động. Dĩ nhiên là từ đó, chúng tôi càng được nhà vua trọng đãi hơn. Ong mời Gerd ở lại để lo về điện lực cho nước này. Tuy nhiên, điều đó nằm ngoài dự tính của chúng tôi. Chúng tôi phải giải thích vì sau chúng tôi phải từ chối lời yêu cầu của ông, nhưng không từ chối lời mời dùng bữa trưa.

Ngồi ở bàn ăn là nhà vua, hoàng hậu, hai người con gái của họ và chúng tôi. Trước mặt mỗi người có một tô đá nhỏ, trong có những cánh hoa hồng. Jeffrey chăm chú nhìn cái tô trước mặt mình, rồi bưng lên, nốc cạn. Tôi nói nhỏ với cậu bé: “Đó là nước rửa tay, không phải nước uống”. Ra chính ở Hunza, cậu bé mới được học bài học về phong cách ẩm thực.

Tôi ngắm nghía những chiếc muỗng, nĩa, dao bằng bạc, chạm trổ vương miện và có khắc tên. Tôi hỏi đó có phải là những đồ dùng lưu truyền từ nhiều đời. Nhà vua cho biết ông vừa cho làm gần đây thôi. Vì trước đây không lâu, mọi người còn ăn bằng tay.

Tôi nhớ rất rõ mọi chi tiết trong bữa ăn đó. Có tất cả mười bốn món. Trước hết là món sườn, rồi cá, gà, ngỗng, rồi bao nhiêu thứ nữa mà tôi không thế biết là gì. Món nào cũng rất ngon miệng, và đằng sau mỗi ghế ngồi có một kẻ phục vụ chỉ riêng cho một người. Tôi hỏi nhà vua làm thế nào có tất cả những món ngon vật lạ ở một nơi xa xôi heo lánh này. Ong bảo là từ những người dân Hunza. Thay vì trả thuế, họ mang đến cho ông những gì họ có trong vườn hay trong nông trại của họ. Ngoài ra nhà vua còn lãnh tiền lương từ chính phủ Pakistan. Đổi lại, nhiệm vụ của ông là phải trữ đủ lúa mì, ngũ cốc cho mùa trồng trọt sang năm hay trong trường hợp có thiên tai.

Nhà vua của Hunza là kẻ truyền thừa của Aga Khan, một nhà lãnh đạo tôn giáo của đạo Muslim. Nhà vua là đại diện của Aga Khan về mọi lãnh vực tôn giáo.

Nhưng lý do thực sự thúc đẩy chúng tôi đặt chân đến Hunza là để tìm hiểu về sự trường thọ của người dân ở đây. Chúng tôi muốn biết họ sống như thế nào mà có thể thọ đến như thế mà vẫn còn đầy đủ sức khỏe. Nhất là về vấn đề dinh dưỡng của họ. Đó là đề tài chúng tôi nghiên cứu từ khi còn sống ở trang trại bên Mễ.

Thì ra có hai việc liên quan đến sự trường thọ và sức khỏe của người dân ở đây. Thứ nhất là vì họ sống ở độ cao khoảng ba ngàn năm trăm thước, không khí rất loãng, nên bất cứ lúc nào họ cũng phải thở thật sâu, nhất là khi họ phải đi bộ trên những con đường dốc đá. Toàn lãnh thổ Hunza chỉ dành cho người đi bộ, trừ mỗi tuần có một chiếc xe Jeep chở hàng lên. Lý do thứ hai là ở đây có trồng loại trái mận (apricot) rất ngon và rất trù phú. Người dân phơi khô các trái này, và để ăn dần suốt năm. Hột của trái lại được họ ép làm dầu nấu ăn, thoa tóc hay trét lên bánh mì như một loại bơ.

Ngoài điều đó ra, dinh dưỡng của họ cũng khá tồi. Họ không có điều kiện để ăn thịt. Họ chỉ ăn lúa mạch, gạo và một ít rau cải. Nếu không có trái apricot, chắc chắn là họ sẽ thiếu vitamin, và chất khoáng trong thành phần dinh dưỡng của họ. Có lẽ khó khăn nhất ở Hunza là vấn đề nước uống. Tôi sẽ kể một kinh nghiệm của chúng tôi về vấn đề nước.

Hằng tháng, nhà vua sẽ ra ngồi ở một tiền sản, bốn phía đều để trống, phía trên có mái vòm tuyệt đẹp, nằm trên những cây cột được chạm khắc công phu. Tại nơi đó ông sẽ định luật. Ai có gì cần khiếu nại, đề đạt sẽ đến đó, và nhà vua sẽ giải quyết tất cả mọi tranh chấp. Những lời phán đoán của nhà vua là luật, và phải được tuân hành một cách tuyệt đối, không được thắc mắc. Có lần chúng tôi có mặt ở một phiên tòa như thế. Cách thức có lẽ giống như hàng trăm năm về trước.

Nhà vua bảo với chúng tôi là phần lớn tranh chấp nằm trong việc khơi nguồn nước ở những vùng đất nhỏ xíu nằm trên các dốc núi. Nưóc đá tuyết được dẫn vào các con kênh nhỏ, và mỗi người nông dân luân phiên nhau cho nước chảy vào ruộng vườn của mình. Vì thế lúc nào cũng có người khiếu nại rằng người khác đã để nước chảy vào ruộng của họ lâu hơn thời gian cho phép.

Chúng tôi đã có thói quen dùng bữa ở chỗ nhà vua, vì Gerd phải chăm sóc chiếc tủ lạnh và vì Jeff muốn chơi với hai đứa con gái nhỏ của nhà vua. Một ngày kia Jeff bị bịnh. Lần này khá nghiêm trọng. Rõ ràng là cậu bé không chịu được nguồn nước lấy từ trên núi, rất nhiều chất khoáng, nhưng khi xuống đến được các ống, nước đã trở nên đục lờ. Dân ở đây gọi đó là ‘sữa đá lạnh’.

Jeff sốt rất cao, không thể ăn uống gì. Tình thế rất nghiêm trọng. Chúng tôi phải đem cậu bé xuống núi đi bác sĩ càng sớm càng tốt. Ở trên đây, không có bác sĩ nào. Khi chúng tôi chào từ giã nhà vua, và gia đình ông, nhà vua trao cho chúng tôi chiếc đồng hồ Rolex bằng vàng. Ong nói, mỗi ngày, nó chạy chậm đi nữa phút, và nhờ chúng tôi gửi đến công ty ở Thụy Sĩ để sửa, rồi gửi cho Ngài Aga Khan ở Gstaad. Ngài Aga Khan sẽ đưa lại cho nhà vua khi thuận tiện.

Chúng tôi không thể từ chối, đành phải mang theo món đồ đắt tiền đó, và giấu nó trong thùng đồ nghề. Không có cách gì khác hơn.

Sau đó chúng tôi gửi chiếc Rolex đến Thụy Sĩ cùng với một lá thư bảo đảm. Vậy mà nó cũng tới nơi. Rồi trở về với nhà vua, bằng cách nào tôi cũng chẳng biết. Tôi cũng chẳng biết nhà vua có còn sống không. Nếu ông cũng thọ như những người Hunza khác, thì có lẽ ông vẫn còn sống.

Nhà vua đã cho tài xế, cùng chiếc xe Jeep của ông đưa chúng tôi trở về Gilgit, như một món quà tiễn bạn. Dĩ nhiên là tài xế của nhà vua lái rất giỏi, và cũng không có đèo thêm người Hunza, hay bao tải nào. Ong cũng không uống giọt Hunzapani nào, nên con đường không thành vấn đề với ông. Thành ra con đường về dễ chịu hơn đoạn đường lên đến Baltit nhiều. Chỉ có điều là tôi quá lo âu cho tình trạng của Jeff. Cậu bé nằm im lìm suốt chặng đường đi.

Xuống đến Gilgit, chúng tôi bay qua Lahore. Chúng tôi đã gửi điện tín cho người kỹ sư điện cùng làm với Gerd trong công trình Indus. Chúng tôi nhờ ông kiếm ngay dùm một căn hộ, và một vị bác sĩ. Nhờ thế, khi chúng tôi đến nơi, cả hai việc chúng tôi nhờ đều đã được lo chu toàn. Bác sĩ chẩn đoán là Jeff bị nhiễm trùng gan. Vài ngày sau, Gerd lại lên cơn sốt rét. Hình như chỉ khi nào đến Pakistan là bịnh anh lại tái phát, chứ không ở một nơi nào khác.

Tôi phải để hai người nằm hai phòng riêng để khỏi lây nhau, và lo chăm sóc họ. Sau gần hai tuần, hai người mới khỏe lại.

Còn tôi, hình như chẳng bao giờ bịnh trong suốt cả chuyến đi. Không có thì giờ để bịnh. Tôi quá bận rộn lo lắng sao cho cả ba người luôn được an toàn.

Chiếc van Rover đang chờ đợi chúng tôi ở Lahore. Đây là một thành phố nằm ở biên giới giữa Pakistan và Ấn Độ. Chúng tôi phải vượt qua biên giới đó.

Điều chúng tôi nhìn thấy trước tiên ở Ấn Độ là ngôi đền bằng vàng vĩ đại của người Sikh ở Amritsar. Ngôi đền nằm giữa hồ, tạo thành một cảnh tượng tuyệt vời, khiến người ta quên rằng đang có nhiều biến động trong khu vực này. Chúng tôi viếng thăm ngôi đền, lắng nghe những lời cầu kinh. Tín đồ người Sikh thuộc Ấn Độ giáo, nói chung là hiền lành. Vì thế việc có hai người Sikh giết con gái của Ngài Nehru là điều tôi không thể hiểu được.

Chúng tôi lái xe đến New Delhi, rồi Jaipur và Ahmedabad, nơi có rất nhiều hang với các bức họa về Phật giáo, có lẽ đã hàng ngàn năm rồi. Sau đó chúng tôi đến Bombay, và nơi chúng tôi dùng chân trước tiên là khách sạn Hilton để được hưởng chút gió mát. Là người ngoại quốc, người ta có thể vào bất cứ khách sạn nào, ngồi trong các tiền sản máy lạnh, thư giãn trong không khí mát mẻ.

Ở Bangalore, chúng tôi được một quan tòa mời đến thăm nhà. Tôi tỏ ý muốn được đi tắm. Ong dẫn tôi đến nhà tắm, nơi có một thùng nước nóng khổng lồ. Tôi bước vào, và xém bị phỏng. Thì ra tôi đã làm không đúng cách. Trước tiên là phải thoa xà-phòng vào mình, rồi dùng một cái gáo to, múc nước từ thùng mà xối vô mình. Giống như tắm vòi sen vậy.

Từ miền Nam Ấn Độ, chúng tôi qua Tiruvannamalai ở gần Madras. Đây là một nơi rất nổi tiếng, vì có một trong những vị thánh giác ngộ nhất đã sống, một rishi tên là Ramana Maharshi. Ong mất vào năm 1950, nên chúng tôi không được gặp ông, nhưng chúng tôi đã đến đền thờ ông, và được biết về ông, về những giáo lý của ông qua một người Anh, tên là Arthur Osborne, người đã sống với ông gần hai mươi lăm năm. Ngôi đền là nơi những ai muốn được học hỏi về giáo lý của bất cứ vị thầy nào, đến sống, ăn ở, học chung với nhau.

Ngài Ramana Maharshi đã luôn nhấn mạnh là điều kiện để đạt được giác ngộ là từ bỏ ảo tưởng về cái ngã. Người ta cần phải tự soi lại mình bằng câu hỏi: “Tôi là ai?” Những điều này để lại ấn tượng khá mạnh cho Gerd. Đến ngày nay, hằng năm, anh vẫn trở về ngôi đền này. Đối với tôi, thì khác. Ở thời điểm đó, tôi không ở vị trí để tự hỏi Tôi là ai. Tôi không biết phải làm sao để có thể thực hiện được điều đó. Và ngài Ramana Maharshi đã không có lời dạy cho việc đó.

Chúng tôi sống ở trong đền, và ăn uống luôn tại đó. Người ta dùng các tàu lá chuối to làm dĩa, và ăn bằng tay. Jeff rất thích cung cách đó. Tôi tự nhủ thầm, ngài Ramana Maharshi chắc chắn phải là một nhà thông thái, một người rất vĩ đại, vì mọi thứ ở đây đều rất tuyệt vời. Nhưng tôi không biết làm sao để áp dụng những trí tuệ của ông cho bản thân tôi. Tôi mong ước có những lời giáo huấn cụ thể, một chương trình hành động rõ ràng. Rồi bỗng nhiên, tôi có cảm tưởng là tôi đang tiến rất gần đến mục tiêu của những điều mình ao ước, bắt đầu con đường đạo của tôi.

-ooOoo-

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app