Luật Nghi Sa-di – Chương Iv: Luật Trục Xuất – Điều Luật Phạm Tội Trục Xuất & Xử Trục Xuất

CHƯƠNG IV

LUẬT TRỤC XUẤT
(NĀSANAṄGA)

IV.1. ÐIỀU LUẬT PHẠM TỘI TRỤC XUẤT

Tội trục xuất là điều luật mà vị Sa-di sai phạm sẽ bị truất khỏi phẩm mạo Sa-di, buộc hoàn tục thành người thế tục.

Ðức Thế-Tôn đã chế định điều luật này như sau:

Anujānāmi bhikkhave dasahaṅgehi samannā-gataṃ sāmaṇeraṃ nāsetuṃ pāṇātipātī hoti adin-nādāyī hoti abrahmacārī hoti musāvādī hoti majja-pāyī hoti buddhassa avaṇṇaṃ bhāsati dhammassa avaṇṇam bhāsati saṅghassa avannaṃ bhāsati mic-chādiṭṭhiko hoti bhikkhuṇīdūsako hoti. Anujānāmi bhikkhave imehi dasahaṅgehi samanāgataṃ sāmaṇe-raṃ nāsetun’ ti.Này chư Tỳ-Khưu, ta chuẩn hành luật trục xuất vị Sa-di vi phạm theo mười điều là:

1. Sa-di sát sanh.
2. Sa-di trộm cắp.
3. Sa-di hành dâm.
4. Sa-di nói dối.
5. Sa-di uống chất say.
6. Sa-di phỉ báng Phật.
7. Sa-di phỉ báng Pháp.
8. Sa-di phỉ báng Tăng.
9. Sa-di tà kiến.
10. Sa-di hãm hiếp Tỳ-khưu ni.
Này chư Tỳ Khưu, ta chuẩn hành trục xuất vị Sa-di vi phạm theo mười điều này.

Ðiều luật tội trục xuất của Sa-di có mười điều.

Vị Sa-di phạm một trong mười điều trên đây sẽ làm mất phẩm mạo, không còn qui giới, không có Thầy Hòa Thượng nữa, mọi quyền thừa hưởng lợi lộc của tăng cũng dứt.

IV.2. VIỆC XỬ TRỤC XUẤT SA-DI SAI PHẠM

Việc xử trục xuất Sa-di sai phạm, phân ra có bốn trường hợp, mỗi trường hợp có cách xử lý khác nhau; Bốn trường hợp như sau:

a. Sa-di phạm điều học (sikkhāpada) trọng tội, như sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu.
b. Sa-di phỉ báng tam bảo (avaṇṇaṃ)
c. Sa-di có tà kiến (micchādiṭṭhi)
d. Sa-di hãm hiếp Tỳ-khưu ni (dūsako)
* Sa-di phạm một trong năm điều học: sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống chất say.

Sa-di phạm trong năm điều giới này lập tức phá hỏng qui giới, không còn là phẩm hạnh Sa-di nữa, dù còn mặc giáo phục cũng không có giá trị nữa.

Thầy Hòa Thượng hay giáo thọ sư phải buộc vị ấy hoàn tục. Nếu Sa-di ấy cứng đầu không tuân lời, phải bố cáo đến tăng để trục xuất bằng tăng lệnh.

Nếu vị ấy ăn năn hối lỗi, còn muốn xuất gia nữa, thì Thầy Hòa Thượng có thể cho tu lại, truyền qui giới và cho phép làm lễ bái sư như buổi đầu.

Ðối với Sa-di sai phạm giới luật nhưng tâm lý tu tập, tâm lý xuất gia chưa dứt thì không cần truất bỏ giáo phục, chỉ phải cho phát lộ tội lỗi rồi thọ qui giới lại, cũng gọi là thanh tịnh; tuy vậy cũng phải làm lễ bái sư, vì ngay từ khi phạm giới đã bị mất Thầy Hòa Thượng rồi .

Lễ thọ tam qui (tisaraṇagamana) đối với Sa-di rất quan trọng, thành tựu tam qui lúc nào thì giới cũng thành tựu lúc ấy, tương tợ như khi thành tựu tứ tác bạch tuyên ngôn (ñatticatutthakammavācā) thì đã thành tựu cụ túc giới (upasampadā) vậy. Do đó phải trọng tâm, sáng suốt và đọc pāli chính xác lúc truyền và thọ tam quy trong lễ tu Sa-di.

* Sa-di phỉ báng Tam Bảo: xuyên tạc Ðức Phật, xuyên tạc Giáo pháp, xuyên tạc Tăng chúng.

Sa-di loạn ngôn phỉ báng Ðức Phật, phỉ báng Giáo pháp, phỉ báng Tăng chúng, Thầy Hòa Thượng, Thầy Giáo Thọ của Sa-di ấy phải khuyên nhắc đôi ba lần như sau: “Này Sa-di, ngươi không nên phỉ báng Phật Pháp Tăng ngươi làm như vậy là phạm tội lỗi nặng nề, sự phỉ báng Phật Pháp Tăng sẽ khiến cho ngươi bất hạnh đau khổ lâu dài; ngươi hãy chừa bỏ, đừng nói như thế nữa.” Khi được nhắc nhở như thế nếu Sa-di ấy biết lỗi, bỏ hành động quấy thì tốt, nhưng cũng phải hành phạt (daṇḍakamma) Sa-di ấy, và phải làm cho sám hối tội lỗi giữa Tăng, như sau:

Accayo maṃ bhante accagamā yathābālaṃ yathamūlhaṃ yathā akusalaṃ yo’ haṃ bhante evaṃ abhāsiṃ tassa me accayaṃ accayato paṭiggaṇhātha āyatiṃ saṃvareyyāmi.Nghĩa: Bạch quí Ngài, vì con ngu si, lầm lạc, bất thiện, con đã vi phạm một tội lỗi. Con đã phát ngôn như vậy, xin quí Ngài hãy chấp nhận lỗi lầm của con như một tội lỗi để con ngăn ngừa trong tương lai.

Khi Sa-di sám hối xong, phải cho thọ tam qui và giới lại vì đã phạm điều trục xuất.

Trường hợp Sa-di phạm tội phỉ báng tam Bảo, đã được khuyên nhắc ba lần mà không biết nhận lỗi thì phải hợp Tăng để bố cáo trục xuất (nissāranā-palokanakamma), như sau:

Saṅghaṃ bhante pucchāmi ayaṃ itthannāmo sāmaṇero buddhassa dhammassa saṅghassa avaṇṇa-vādī yaṃ aññe sāmaṇerā labhanti dvirattatirattaṃ bhikkhūhi saddhiṃ sahaseyyaṃ tassā alābhāya nissāraṇā ruccati saṅghassa,Dutiyampi bhante saṅghaṃ … như trên .
Tatiyampi bhante saṅghaṃ … như trên … ruccati saṅghassa. Cara pi re vinassa.

Nghĩa: Bạch Chư Tăng, tôi xin bố cáo đến Tăng rằng Sa-di tên này là kẻ phỉ báng Ðức Phật, phỉ báng Pháp, phỉ báng Tăng. Quyền lợi mà các Sa-di khác có như được đồng cư với chư Tỳ Khưu hai ba đêm, thì đối với sa di này Tăng có bằng lòng tước mất quyền lợi ấy không?

Lần thứ nhì … Như trên …

Lần thứ ba … Như trên … này kẻ tội lỗi hãy đi khỏi! Hãy bỏ phẩm mạo!.

Vị Sa-di ấy bị Tăng trục xuất rồi, về sau nếu thấy lỗi lầm, xóa bỏ điều quấy, muốn tu trở lại, thì phải họp Tăng lại để biểu quyết ý kiến, nên cho đương sự sám hối Tăng như vầy:

Ahaṃ bhante bālatāya aññānatāya alakkhika-tāya evaṃ akāsiṃ svāhaṃ saṅghaṃ khamāpemi.Nghĩa: Bạch quí ngài, con vì ngu si thiếu trí, bất hảo nên đã sai phạm như vậy, con cúi xin Tăng tha thứ cho.

Tiếp đến phải bố cáo Tăng để thu nhận (osa-raṇāpalokanakamma), như sau :

Saṅghaṃ bhante pucchāmi ayaṃ itthannāmo sāmaṇero buddhassa dhammassa saṅghassa avaṇṇa-vādī. Yaṃ aññe sāmaṇerā labhanti dvirattatirattaṃ bhikkhūhi saddhiṃ sahaseyyaṃ tassā alābhāya nis-sārito svāyaṃ idāni sorato virato nivātavutti lajji-dhammaṃ okkanto hiri-ottappe patiṭṭhito katadaṇḍa-kammo accayaṃ deseti imassa sāmaṇerassa yathā pure kāyasambhogasāmaggīdānaṃ ruccati saṅghassa.Dutiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi … pe …
Tatiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi … pe …

Nghĩa: Bạch chư Tăng, tôi xin bố cáo đến Tăng rằng Sa-di tên này là kẻ phỉ báng Phật Pháp Tăng, y đã bị tước mất quyền lợi mà các Sa-di khác có như được đồng cư với chư Tỳ Khưu hai ba đêm; Nay người này đã hiền thiện, đã khắc phục, đã nhu thuận, đã biết hổ thẹn, đã trú trong tàm quý, đã chịu hành phạt, và phát lộ lầm lỗi, thì đối với Sa-di này Tăng có vui lòng cho hòa hợp nhập chúng như trước chăng?

Lần thứ nhì … như trên …

Lần thứ ba … như trên …

Sau khi bố cáo như vậy rồi mới cho vị ấy thọ qui giới tu lại.

* Sa-di có tà kiến.

Sa-di không phải vì nhầm lẫn mới hiểu sai, mà vì ngoan cố chấp thủ tri kiến sai lệch với chánh pháp ấy gọi là tà kiến.

Sa-di có tà kiến đáng tội trục xuất, tuy nhiên Thầy Hòa Thượng hay giáo thọ sư của Sa-di ấy phải giãi bàykhuyên nhắc cho thấy tội lỗi và dứt bỏ tà kiến. Nếu Sa-di được khuyên dạy, Sa-di ấy biết lỗi lầm và xóa bỏ tà kiến thì chỉ cho hành phạt (daṇḍakamma) rồi cho sám hối giữa Tăng như sau:

Accayo maṃ bhante accagamā yathābālaṃ ya-thāmulhaṃ yathā akusalam yo’ haṃ bhante evaṃ diṭṭhiko ahosiṃ tassa me accayaṃ accayato patig-ganhātha āyatiṃ samvareyyāmi.Nghĩa: Bạch quí Ngài, con đã vi phạm một tội lỗi, vì ngu si lầm lạc bất thiện nên con đã có tà kiến như vậy, xin quí Ngài hãy chấp nhận cho con một lỗi lầm đã sai phạm, để con ngăn ngừa trong tương lai.

Sa-di chịu hành phạt và sám hối như thế rồi chỉ cần truyền qui giới lại cho thanh tịnh là đủ, khỏi phải buộc hoàn tục ra.

Trường hợp Sa-di có tà kiến, đã được nhắc nhở nhiều lần cũng không dứt bỏ tri kiến sai lầm, thì phải họp Tăng để bố cáo trục xuất (nissāranāpalo-kanakamma); lời bố cáo trục xuất trong trường hợp này, văn tự cũng giống như vụ Sa-di phỉ báng tam bảo vậy, chỉ đổi tên tội:

Saṅghaṃ bhante pucchāmi, ayaṃ itthannāmo sāmaṇero micchādiṭṭhiko. Yaṃ aññe … pe …Dutiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi … pe …
Tatiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi … pe .

Về sau, đương sự hối cải sửa chữa lỗi lầm xin được tu lại, thì trước phải cho sám hối giữa Tăng như sau:

Ahaṃ bhante bālatāya aññāṇatāya alakkhi-katāya evaṃ akāsiṃ svāhaṃ saṅghaṃ khamāpemi. (nghĩa như trước).Sau đó, cần được bố cáo đến Tăng để thu nhận (osāraṇāpalokanakamma), nội dung tương tợ osāraṇāpalokana trong vụ Sa-di phỉ báng tam bảo chỉ thay đổi tội danh:

Saṅgham bhante pucchāmi ayaṃ itthannāmo sāmaṇero micchādiṭṭhiko. Yaṃ aññe … pe …Dutiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi … pe …
Tatiyampi bhante saṅghaṃ pucchāmi … pe … .

Khi bố cáo xong, được phép cho người ấy tu lại.

* Sa-di hãm hiếp Tỳ-Khưu Ni.

Sa-di có hành động quấy nhiễu tình dục đối với Tỳ-Khưu Ni (bhikkhunī) thì cần phải xử trục xuất tức khắc.

Tội này nặng nề hơn tội thông dâm bình thường, nghĩa là tội hành dâm bị xử trục xuất rồi sau đó còn có thể tu lại được nếu muốn.

Còn về điều trục xuất thứ mười này thì Sa-di bị trục xuất sẽ mất gốc như người bị đứt lìa đầu, sẽ không được phép cho xuất gia lại trong bất cứ trường hợp nào. Ðức Thế-Tôn đã chế định ngăn đứt điều đó.

DỨT CHƯƠNG LUẬT TRỤC XUẤT

-ooOoo-

 

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app