Luật Nghi Sa-di – Chương V: Luật Sinh Hoạt – Quán Tưởng Vật Dụng, Nhật Hành, Y Bát

CHƯƠNG V

LUẬT SINH HOẠT
(VATTIKA)

Thiện Nam tử khi đã xuất gia trong giáo pháp này, bước đầu trú trong phẩm mạo Sa-di (sāmaṇera) cần phải học tập thông thạo các luật nghi để tập sự thực hành, hầu quen lối sống phạm hạnh mai sau dễ dàng trở thành vị Sa-Môn thực thụ, tức là phạm hạnh Tỳ-Khưu (bhikkhu).

Ngoài việc thọ trì học giới (sikkhāpada), vị Sa-di phải thông hiểu các luật sinh hoạt trong đời sống tu sĩ. Luật sinh hoạt gồm có năm phần:

1. Phép quán tưởng vật dụng (paccayasan-nissita).
2. Phép quán tưởng nhật hành (abhiṇhapac-cavekkhana).
3. Phép sử dụng y bát (pattacīvaraparibhoga).

4. Phép nhập hạ (vassūpanāyika).
5. Ngày trai giới (uposatha).
V.1. PHÉP QUÁN TƯỞNG VẬT DỤNG (Pacca-yasannissita)

Vị xuất gia có bốn món vật dụng (paccaya) là:

1- Y phục (cīvarappaccaya), tức là vải đắp mặc, người cư sĩ thì có áo quần, còn vị xuất gia thì có y ca-sa; hàng Tỳ-khưu thì có tam y: y kép (saṅghāṭi), y vai trái (uttarasaṅga) và y nội (antaravāsaka); hàng Sa-di chỉ có hai y là y vai trái và y nội.2- Vật thực (pindapātappaccaya), là các thức ăn để nuôi sống như cơm, bánh … dùng trong buổi sáng.

3- Trú xứ (senāsanappaccaya), là chỗ ở, dùng để ẩn tránh mưa, nắng … như liêu cốc, tịnh thất, túc xá, thậm chí là bóng cây, hang động …; còn có nghĩa là sàng tọa tức chỗ nằm chỗ ngồi.

4- Dược phẩm (gilānappaccaya), là thuốc dùng trị bệnh dành cho người bệnh, gồm cả những thứ để dưỡng sức như đường, sữa, mật ong, dầu mè…

Vị xuất gia phải thông thuộc cách quán tưởng (paccavekkhana) khi dùng đến bốn món vật dụng, thuộc lòng cả pāli lẩn ý nghĩa.

Phép quán tưởng vật dụng có 4 cách, quán tưởng 3 thời. Ba thời là trước khi, đang khi và sau khi thọ dụng; bốn cách là quán tưởng nguyên chất (dhātuppaccavekkhana), quán tưởng uế tánh (paṭikū-lappaccavekkhana), quán tưởng hiện thời (taṃkha-nikappaccavekkhana), quán tưởng quá thời (atītappaccavekkhana).

Vị xuất gia trước khi dùng đến bốn món vật dụng phải quán tưởng 2 cách:

a. Quán tưởng nguyên chất (dhātuppaccavek-khana), là quán tưởng cho thấy rằng các món vật dụng chỉ là chất tứ đại hợp thành thôi, chỉ là nguyên tố sắc pháp vô thức thôi. Quán tưởng như sau:

Quán tưởng y phục :Yathāpaccayaṃ pavattamānaṃ dhātumatta-mevetaṃ yadidaṃ cīvaraṃ tadupabhuñjako ca pug-galo dhātumattako nissatto nijjīvo suñño” – “Y phục này hẳn chỉ là nguyên chất được tạo thành theo món vật dụng, và người sử dụng món ấy cũng chỉ là nguyên chất, không phải linh hồn, không phải sinh mạng, là tính rỗng không thôi.”Quán tưởng vật thực :

“Yathāpaccayaṃ pavattamānam dhātumatta-mevetaṃ yadidam piṇḍapāto tadupabhuñjako ca pug-galo dhātumattako nissatto nijjīvo suñño“- “Vật thực này hẳn chỉ là nguyên chất được tạo thành theo món vật dụng, và người sử dụng món ấy cũng chỉ là nguyên chất, không phải linh hồn, không phải sinh mạng, là tính rỗng không thôi”.Quán tưởng trú xứ :

Yathāpaccayaṃ pavattamānaṃ dhātumatta-mevetam yadidaṃ senāsanaṃ tadupabhuñjako ca puggalo dhātumattako nissatto nijjīvo suñño” – “Trú xứ này hẳn chỉ là nguyên chất được tạo thành theo món vật dụng, và người sử dụng món ấy cũng chỉ là nguyên chất, không phải linh hồn, không phải sinh mạng, là tính rỗng không thôi”.Quán tưởng dược phẩm :

Yathāpaccayaṃ pavattamānaṃ dhātumatta-mevetaṃ yadidaṃ gilānappaccayabhesajjaparikkhāro tadupabhuñjako ca puggalo dhātumattako nissatto nijjīvo suñño” – “Dược phẩm thuốc trị bệnh này hẳn chỉ là nguyên chất được tạo thành theo món vật dụng, và người sử dụng món ấy cũng chỉ là nguyên chất, không phải linh hồn, không phải sinh mạng, là tính rỗng không thôi”.b. Quán tưởng uế tánh (Paṭikūlappaccavek-khana), những vật dụng dùng phải quán tưởng cho thấy sự ô trược của chúng và tính bất tịnh của thân này; quán tưởng như sau:

Quán tưởng y phục :Sabbāni pan’imāni cīvarāni ajigucchanīyāni imaṃ pūṭikāyaṃ patvā ativiya jigucchanīyāni jāyan-ti.”- “Tất cả y phục này không phải là vật đáng gớm, nhưng khi chạm đến thân uế trược này rồi thì trở thành đáng gớm lắm.”Quán tưởng vật thực :

Sabbo pan’āyam piṇḍapāto ajigucchanīyo imaṃ pūtikāyaṃ patvā ativiya jigucchanīyo jāyati.” – “Tất cả vật thực này không phải là vật đáng gớm ghê, nhưng khi chạm đến thân uế trược này rồi thì trở thành đáng gớm lắm.”Quán tưởng trú xứ :

Sabbāni pan’imāni senāsanāni ajigucchanī-yāni imaṃ pūtikāyaṃ patvā ativiya jigucchanīyāni jāyanti.” – “Tất cả trú xứ này không phải là vật đáng gớm ghê, nhưng khi chạm đến thân uế trược này rồi thì trở thành đáng gớm lắm.”Quán tưởng dược phẩm :

Sabbo pan’ āyam gilānappaccayabhesajjapa-rikkhāro ajigucchanīyo imaṃ pūtikāyaṃ patvā ati-viya jigucchanīyo jāyati.” – “Tất cả dược phẩm thuốc trị bệnh này không phải là vật đáng gớm ghê, nhưng khi chạm đến thân uế trược này rồi thì trở thành đáng gớm.”c. Quán tưởng hiện thời (tamkhanikapacca-vekkhana) là ngay lúc ăn, lúc mặc y, lúc vào ngụ trong liêu phòng, lúc dùng thuốc trị bệnh, quán tưởng cho thấy nhu cầu thiết yếu của vật dụng ấy:

Quán tưởng y phục :Paṭisaṅkhā yoniso cīvaraṃ paṭisevāmi yāva-deva sītassa paṭighātāya uṇhassa paṭighātāya daṃsa-makasavātātapasiriṃsapasamphassānaṃ paṭighātā-ya yāvadeva hirikopīnappaṭicchādanatthaṃ” – “Khéo quán tưởng rằng: ta thọ dụng y phục chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi muỗi gió nắng và các loài bò sát, cũng chỉ để che đậy sự lõa lồ.”Quán tưởng vật thực :

Paṭisaṅkhā yoniso piṇḍapātaṃ paṭisevāmi ne-va davāya na madāya na maṇḍanāya na vibhūsanā-ya yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsuparatiyā brahmacariyā’nuggahāya iti purāṇañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi navañca vedanaṃ na uppā-dessāmi yātrā ca me bhavissati anavajjatā ca phāsu-vihāro cā’ti.” – “Khéo quán tưởng rằng: ta dùng thực phẩm không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để lợi dưỡng, không phải để giồi nhan sắc, mà chỉ để duy trì thân này cho sống còn tránh khỏi tổn hại, cũng để hỗ trợ phạm hạnh vì rằng ta diệt trừ được cảm thọ cũ và không sanh cảm thọ mới, sinh hoạt của ta sẽ không lỗi lầm và lạc trú.”Quán tưởng trú xứ :

Paṭisaṅkhā yoniso senāsanaṃ paṭisevāmi yāvadeva sītassa paṭighātāya uṇhassa paṭighātāya daṃsamakasavātātapasiriṃsapasamphassānaṃ paṭi-ghātāya yāvadeva utuparissayavinodanaṃ paṭisallā-nārāmatthaṃ.” – “Khéo quán tưởng rằng: ta sử dụng trú xứ chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi muỗi gió nắng và loài bò sát, cũng chỉ để giải trừ bực bội do thời tiết, mục đích vui thiền tịnh.”Quán tưởng Dược phẩm :

Paṭisaṅkhā yoniso gilānappaccayabhesajja-parikkhāraṃ paṭisevāmi yāvadeva uppannānaṃ vey-yābādhikānaṃ vedanānaṃ paṭighātāya abyāpajjha-paramatāyā’ti” – “Khéo quán tưởng rằng: ta thọ dụng dược liệu trị bệnh này, chỉ để ngăn chận các cảm thọ thống khổ đã phát sanh cho đặng sự thoải mái hoàn toàn.”d. Cách quán tưởng quá thời (atītappaccavek-khana) Vị xuất gia trong ngày và đêm, sau khi đã thọ dụng y phục, vật thực, trú xứ, thuốc trị bệnh, nếu chưa được quán tưởng thì phải quán tưởng lại bốn món vật dụng ấy, trước khi mặt trời mọc ngày hôm sau.

Quán tưởng y phục :Ajja mayā appaccavekkhitvā yaṃ cīvaraṃ paribhuttaṃ taṃ yāvadeva sītassa paṭighātāya uṇhassa paṭighātāya daṃsamakasavātātapasiriṃsa-pasamphassānaṃ paṭighātāya yāvadeva hirikopinap-paṭicchādanatthaṃ.” – “Y phục nào ta đã sử dụng trong ngày nay mà chưa quán tưởng, y phục ấy chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi muỗi gió nắng và loài bò sát, cũng chỉ với mục đích che đậy sự lõa lồ thôi.”Quán tưởng vật thực :

Ajja mayā appaccavekkhitvā yo piṇḍapāto paribhutto so neva davāya na madāya na maṇḍanāya navibhūsanāya yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya vihiṃsuparatiyā brahmacariyā’ nuggahāya iti purānañca vedanaṃ paṭihaṅkhāmi navañca veda-naṃ na uppādessāmi yātrā ca me bhavissati anavaj-jatā ca phāsuvihāro cā’ti” – “Vật thực nào mà ta đã dùng trong ngày nay mà chưa quán tưởng, vật thực ấy dùng không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để lợi dưỡng, không phải để giồi nhan sắc, mà chỉ để duy trì thân này cho sống còn tránh khỏi tổn hại, cũng để hỗ trợ phạm hạnh vì rằng ta diệt trừ cảm thọ cũ và không cho sanh cảm thọ khổ mới, sinh hoạt của ta sẽ không lỗi lầm và lạc trú.”Quán tưởng trú xứ :

Ajja mayā appaccavekkhitvā yaṃ senāsanaṃ paribhuttaṃ taṃ yāvadeva sītassa paṭighātāya uṇhassa paṭighātāya daṃsamakasavātātapasiriṃsa-pasamphassānaṃ paṭighātāya yāvadeva utuparissa-yavinodanaṃ paṭisallānārāmatthaṃ.” – “Trú xứ nào ta đã sử dụng trong ngày nay mà chưa quán tưởng, trú xứ ấy dùng chỉ để ngăn ngừa sự lạnh, ngăn ngừa sự nóng, ngăn ngừa sự xúc chạm của ruồi muỗi, gió nắng và loài bò sát, cũng chỉ để giải trừ bực bội của thời tiết, mục đích vui thiền định.”Quán tưởng dược phẩm :

Ajja mayā appaccavekkhitvā yo gilānappacca-yabhesajjaparikkhāro paribhutto so yāvadeva uppan-nānaṃ veyyābādhikānaṃ vedanānaṃ paṭighātāya abyāpajjhaparamatāyā’ti.” – “Dược phẩm thuốc trị bệnh nào ta đã dùng trong ngày nay mà chưa quán tưởng, thuốc ấy dùng chỉ để ngăn chận các cảm thọ thống khổ đã phát sanh, cho đặng sự thoải mái hoàn toàn.” 

DỨT PHÉP QUÁN TƯỞNG VẬT DỤNG.

V.2. PHÉP QUÁN TƯỞNG NHẬT HÀNH (abhiṇhapaccavekkhana).

Bậc xuất gia có hai phận sự (dhura) tu tập: là pháp học (ganthadhura) và pháp hành (vipassanā-dhura).

Về pháp học, phải học hỏi thông thuộc giáo lý trong tam Tạng (tipiṭaka) để có thể hiểu chánh pháp và truyền bá chánh pháp.

Về pháp hành, phải thọ trì giới luật thanh tịnh, thực hành thiền định, phát triển trí tuệ. Cho dù trong thời gian đang thọ trì pháp học cũng phải thực hành rèn luyện tâm và tuệ cho kiên cố niềm tin, tinh tấn, và hướng mục đích phạm hạnh. Bằng cách quán sát, tâm niệm thường hàng ngày (abhiṇhapaccavek-khana), nhờ đó vị xuất gia mới sống đời phạm hạnh có ý nghĩa và gắn bó với lý tưởng tu tập được.

Về phép quán tưởng nhật hành sơ khởi của bậc xuất gia gồm hai phần:

a. Quán tưởng qui luật tự nhiên.
b. Quán tưởng tâm lý phạm hạnh.
AQUÁN TƯỞNG QUI LUẬT TỰ NHIÊN.

Ðể tâm ta nhớ biết thực chất của đời sống mà chuẩn bị tư tưởng đối phó nghịch cảnh dễ dàng. Tức là quán tưởng 5 điều như sau:

1. “Jarādhammo’mhi jaraṃ anatīto” – “ta phải già, không thoát khỏi già.”
2. “Byādhidhammo’mhi byādhiṃ anatīto” -“ta phải bệnh, không thoát khỏi bệnh.”
3. “Maraṇadhammo’mhi maraṇaṃ anatīto” – “ta phải chết, không thoát khỏi chết.”
4. “Sabbehi me piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhāvo” – “đối với ta phải ly tán phải mất mát mọi vật thương yêu thân ái.”
5. “Kammassako’mhi kammadāyādo kammayo-ni kammabandhu kammappaṭisaraṇo yaṃ kammaṃ karissāmi kalyānaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi” – “ta là sở hữu chủ nghiệp, thừa tự nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, bất cứ nghiệp thiện hay ác nào ta làm, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy.”
B. QUÁN TƯỞNG TÂM LÝ PHẠM HẠNH.

Ðể ôn nhắc mục đích tu tập, tự sách tấn tu tập, và cảnh giác trong sinh hoạt hàng ngày. Ðức Phật phải dạy bậc xuất gia phải hằng tâm niệm mười điều như sau:

1. Vevaṇṇayamhi ajjhūpagato, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: “ta có tướng mạo khác hơn kẻ thế.”2. Parappaṭibaddhā me jīvikā, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: “sự nuôi mạng của ta bị lệ thuộc nơi kẻ khác.”

3. Añño me ākappo karaṇīyo, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: “Hành vi của ta cần phải khác biệt.”

4. Kacci nu kho me attā sīlato na upavadati, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: “Chính ta không khiển trách về giới hạnh của mình chứ?”

5. Kacci nu kho maṃ anuvicca viññū sabrahmacārī sīlato na upavadati, Bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: “Các vị đồng phạm hạnh trí thức khi xét đến ta không có khiển trách về giới hạnh chứ?”

6. Sabbehi me piyehi manāpehi nānābhāvo vinābhāvo, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: “đối với ta phải ly tán phải mất mát mọi vật thương yêu thân ái.”

7. Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kammabandhu kammappaṭisaraṇo yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi, Bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: “ta là sở hữu chủ nghiệp, thừa tự nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, bất cứ nghiệp thiện hay ác nào ta làm, ta sẽ thừa tự nghiệp ấy.”

8. Kathambhūtassa me rattindivā vītivattanti, Bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: “Ngày đêm trôi qua ta đã thế nào rồi?”

9. Kacci nu kho’haṃ suññāgāre abhiramāmi, Bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: “Ta có vui thích chỗ thanh vắng chăng?”

10. Atthi nu kho me uttarimanussadhammā-lamariyaññāṇadassanaviseso adhigato so’haṃ pacchi-me kāle sabrahmacārīhi puṭṭho na maṅku bhavis-sāmi, bậc xuất gia nên thường quán tưởng rằng: “Ta có được pháp thượng nhân không? Tri kiến thù thắng tương ứng bậc thánh ta đạt được chưa? để đến phút cuối, các vị đồng phạm hạnh hỏi đến, ta sẽ không hổ thẹn.”

Trên đây là hai phép quán tưởng nhật hành mà bậc xuất gia nên thường tư duy hàng ngày, điều đó sẽ giúp tâm lý tu tập dũng mãnh và liên trì. Ðức Thế Tôn đã dạy như thế.

DỨT PHÉP QUÁN TƯỞNG NHẬT HÀNH

V.3. PHÉP SỬ DỤNG Y VÀ BÁT (Pattacīva-raparibhoga).

Luật dạy rằng: bậc xuất gia, nhất là Tỳ-Khưu, khi được phát sanh y và bát mới phải làm dấu hoại sắc (dubbaṇṇakaraṇa) và chú nguyện thành tên vật dụng, mới được phép dùng xài.

Dù là bậc Sa-di cũng nên tập thực hành luật ấy để tâm không dể duôi cẩu thả, cho quen cách sinh hoạt luật nghi hầu sau tu lên bậc trên không ngỡ ngàng.

Phép sử dụng y bát có ba phần:

a. Làm dấu (bindukappa)
b. Chú nguyện tên (adhiṭṭhāna)
c. Xả tên (paccuddhara)
A- Làm dấu, chỉ đối với các thứ y phục thôi, còn như bình bát thì khỏi cần làm dấu. Làm dấu là dùng viết mực xanh, đen hoặc xám rồi điểm vòng tròn nhỏ trên bốn góc chiếc y, vòng nhỏ cỡ bằng mút đũa hoặc mắt gà, không nên vẽ nhỏ quá hay lớn quá hay không thành dấu tròn …

Khi làm dấu, phải tác ý và nói ra lời như sau:

Imaṃ bindukappaṃ karomi” (Ta làm dấu y này).B- Chú nguyện tên. Y (cīvara) là nói chung các thứ dùng xài bằng vải sợi, mỗi thứ đều có tên gọi riêng, như: y kép (saṅghāti), y vai trái (uttara-saṅga), y nội (antaravāsaka), y tắm mưa (vassika-sāṭika), ngọa cụ (paccattharaṇā), tọa cụ (nisīdana), vải băng ghẻ (kaṇḍuppaṭicchādi), khăn lau mặt (mu-khapuñchanacoḷa), y phụ tùng (parikkhāracoḷa) tức là giây lưng (kāyabandhana), túi dèm (thavika), áo lót (aṃsaka) … đó là các thứ y khi sử dụng phải nguyện đặt tên.

Cách nguyện tên y là chú ý đến chiếc y đang giữ trong tầm tay hoặc để ngoài tầm tay rồi chú nguyện thành tên của chiếc y đó như vầy:

Imaṃ uttarasaṅgaṃ adhiṭṭhāmi” (Ta nguyện y này là y vai trái). Nếu chiếc y để ngoài tầm tay thì chú nguyện rằng:Etaṃ uttarasaṅgaṃ adhiṭṭhāmi” (Ta nguyện y đó là y vai trái).

Trong lời chú nguyện hãy đổi tên cho đúng tùy theo thứ y đang muốn sử dụng. Khi đã nguyện y thành tên rồi, sử dụng không phạm tội.

C- Xả tên y, tức là khi muốn bỏ y cũ để sử dụng y mới, trước khi chú nguyện y mới ấy phải xả y cũ.

Xả y cũ cũng chú ý đến y trong tầm tay hoặc ngoài tầm tay, rồi nghĩ tưởng như sau:

Imaṃ uttarasaṅgaṃ paccuddharāmi” (Ta xả bỏ y vai trái này), hoặc: “Etaṃ uttarasaṅgaṃ pac-cuddharāmi” (Ta xả bỏ y vai trái đó).Về cách sử dụng y thì trước tiên phải xả bỏ y cũ (paccuddhara), kế đến là làm dấu y mới (bindu-kappa), sau cùng là nguyện thành tên cho y mới (adhiṭ-ṭhāna).

Về cách sử dụng bình bát (patta), luật dạy rằng bình bát không cần làm dấu, chỉ chú nguyện là được; lại nữa bình bát đã cũ muốn đổi xài bát mới, phải xả bỏ, mới được phép chú nguyện bát mới.

Cách chú nguyện bình bát như sau:

Imaṃ pattaṃ adhiṭṭhāmi” (Ta chú nguyện đây là bình bát), hoặc “Etaṃ pattaṃ adhiṭṭhāmi” (Ta chú nguyện đó là bình bát).Cách xả bình bát như sau:

Imaṃ pattaṃ paccuddharāmi” (Ta xả bỏ bình bát này), hay “Etaṃ pattaṃ paccuddharāmi” (Ta xả bỏ bình bát đó).Trên đây là cách sử dụng y và bát, Sa-di cũng có y bát (chỉ ngoại trừ y tăng-già-lê saṅghāṭi) nên vì thế cũng phải thông thuộc cách thức nguyện và xả y bát, để tập sống theo luật nghi cho tốt đẹp.

V.4. PHÉP NHẬP HẠ (Vassūpanāyika).

Luật dạy, chư Tỳ-Khưu đến mùa mưa, kể từ ngày 16/ 6 âl đến ngày 15/ 9 âl, phải dừng chân du hóa để an cư kiết hạ 3 tháng bắt đầu từ 16/ 9 âl cho đến 15/ 9 âl, hoặc từ 16/ 7 âl đến 15/ 10 âl.

Các Sa-di thường du hành theo chân các vị Tỳ-khưu, nên khi vào thời chư tăng nhập hạ cũng phải tùng nhập hạ.

Ngày chuẩn bị nhập hạ, Sa-di phải đến đảnh lễ Thầy Hòa Thượng hay thầy giáo thọ để xin chỉ định trú xứ nhập hạ; phải nghe lời chỉ bảo của chư Tỳ-khưu quét dọn sạch sẽ trú xứ, dự trữ nước xài cho đầy đủ …

Sau đó, phát nguyện nhập hạ theo chư Tỳ-khưu như sau:

Imasmiṃ ārāme imaṃ temāsaṃ vassaṃ upemi” (Con xin an cư mùa mưa ba tháng này trong chùa đây).Trong thời gian nhập hạ, nếu hữu sự cần phải đi khỏi chùa vài ngày, Sa-di phải đến bày tỏ xin phép thầy hoặc chư Tỳ-khưu mình nương nhờ, để nguyện hạ ra đi. Các Thầy Tỳ-khưu suy xét thấy việc chính đáng mới cho phép Sa-di đi khỏi chùa. Nhưng vị Sa-di ấy cũng phải nguyện hạ mới nên đi.

Nguyện hạ là tự giới hạn thời gian vắng mặt ở chùa, luật Ðức Phật chỉ cho phép thời gian vắng mặt trong lúc nhập hạ là tối đa khoảng bảy ngày tức sáu đêm, vào ngày thứ bảy kể từ khi ra đi, phải có mặt ở chùa trước lúc mặt trời mọc, trễ hạn ấy gọi là đứt hạ.

Cách nguyện hạ như sau: trước khi ra khỏi ranh chùa phải phát nguyện, hoặc tuyên bố với một vị khác, hoặc đối diện kim thân, bảo tháp thờ, cũng được. Nguyện rằng:

Sace me antarāyo natthi sattāhabbhantare ahaṃ puna nivattissāmi” (Nếu không có sự tai hại đến ta, ta sẽ trở về trong khoảng bảy ngày).Vị Sa-di nếu đã nhập hạ tròn đủ, không bị đứt hạ, thì vẫn được hưởng lợi lộc phát sanh trong mùa dâng y Kaṭhina như chư Tỳ-khưu, tuy nhiên chư tăng phải được thông qua bằng cách bố cáo chia lợi lộc đến Sa-di, gọi là Lābhavibhajanāpalokanakamma. Nếu như có thí chủ làm phước cúng dường y và vật dụng đến tăng mà thỉnh nguyện rằng chúng con xin dâng đến các vị trong chùa cả Tỳ-khưu lẩn Sa-di; như thế tăng hãy chia đến Sa-di mà không cần họp tăng để bố cáo.

Riêng về vị Sa-di mới tu trong hạ, hoặc nhập hạ kỳ sau (từ 16/ 7 đến 15/ 10 âl), hoặc bị đứt hạ, đều không được hưởng lợi lộc chi cả; nếu cá nhân thầy Tỳ-khưu cho lợi lộc đến Sa-di vì lòng thương xót cũng được.

V.5. NGÀY TRAI GIỚI (uposatha).

Ngày trai giới thường gọi là ngày bố tát, do âm từ phạn ngữ uposatha, nghĩa là ngày thanh tịnh tăng. Luật qui định một tháng có hai ngày bố-tát là ngày rằm và ngày cuối tháng (30 âl hoặc 29 âl, tùy tháng đủ thiếu).

Ðức Phật chuẩn hành luật cho chư Tỳ-khưu phải tụng giới (pāṭimokkhuddesa) trong ngày uposa-tha; nếu nơi chỉ có hội họp hai, ba vị Tỳ-khưu thì vào ngày bố tát không tụng giới cũng phải phát-lồ thanh tịnh; nếu ở một mình cũng phải phát lồ nguyện bố tát …

Về phần Sa-di thì luật không qui định nghi thức, nhưng sau này các bậc A-xà-lê để chế định việc hành cho các Sa-di trong ngày bố tát để Sa-di chúng sinh hoạt khuôn khổ; điều này cũng tạo sự thanh tịnh cho Sa-di, nên mặc nhiên được tăng chúng chấp nhận.

Các Sa-di vào ngày trai giới bố-tát phải thọ pháp hành phạt (daṇḍakamma) nơi Tỳ-khưu tăng để răn sửa lỗi lầm, tác tịnh tâm lý dù rằng không phạm lỗi, như thế cũng tốt; cách thọ pháp hành phạt xin xem lại Chương III, Luật hành phạt, Mục 2.

Sau việc thọ hành phạt hãy xin thọ qui giới lại nơi tăng, trước khi chư Tỳ-khưu hành tăng sự bố-tát tụng giới bổn. Tăng cử vị Tỳ-khưu nào đó truyền dạy qui giới cho Sa-di rồi mới hành lễ bố-tát, cũng như thuở xưa lúc Tỳ-khưu ni chúng còn, chư Tỳ-khưu tăng phải cử vị đi giáo giới Tỳ-khưu ni (bhikkhunovāda) trong ngày bố-tát trước khi làm lễ phát lồ tụng giới vậy.

DỨT CHƯƠNG LUẬT SINH HOẠT

-ooOoo-

 

 

 

Dhamma Paññā

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app