PHÉP TRUYỀN GIỚI SA DI

Giới tử mặc y phục trắng, hai tay bưng y ca sa “vàng” theo ông thầy vào đứng giữa Giáo hội, trước mặt Hòa thượng, bái ngài rồi đọc:

Phạn ngữ

Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamathame bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbam sādhu sādhu anumodāmi.

Ukāsa karuññam katvā pabbajjaṃ detha me bhante.

 

Nghĩa:

Tôi xin thành kính làm lễ đại đức. Bạch hoá đại đức, cầu xin đại đức tha các tội lỗi cho tôi. Những việc lành mà tôi đã làm, xin đại đức nhận lãnh, việc lành mà đại đức đã làm xin đại đức chia sớt cho tôi và làm cho điều lợi ích được thành tựu, tôi xin hoan hỉ thọ lãnh.

Tôi xin thành kính, cầu đại đức từ bi thương xót đến tôi và phép xuất gia cho tôi.

Ngồi chồm hổm chấp tay để ngay tam tinh (giữa trán) mà đọc:

Phạn ngữ:

Ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi. Dutiyampi ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi. Tatiyampi ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi

 

Nghĩa:

Bạch hóa đại đức, xin đại đức làm phép xuất gia cho tôi. Bạch đại đức, xin đại đức làm phép xuất gia cho tôi, lần thứ nhì. Bạch đại đức, xin đại đức làm phép xuất gia cho tôi lần thứ ba.

Rồi đọc bài sau này ba lần dâng y “ca sa” cho thầy:

Sabbadukkhanissaraṃ nibbānasacchikaranatthāya, imaṃ kāsāvaṃ gahetvā pabbājetha maṃ bhante anukampaṃ upādāya. Bạch hóa đại đức, xin đại đức thâu y ca sa vàng này và thương xót mà phép xuất gia cho tôi được dứt các sự thống khổ và đến Niết-bàn.

Rồi đọc bài sau này ba lần xin y ca sa lại:

Sabbadukkhanissaraṇa nibbānasacchikaraṇatathāya, etaṃ kāsāvaṃ datvā pabbājetha mam bhante anukampaṃ upādāya. Bạch hoá đại đức, xin đại đức cho tôi y ca sa vàng ấy, và thương xót mà làm phép xuất gia cho tôi được dứt các sự thống khổ và đến Niết-bàn.

Khi giới tử đọc xong ba bận, rồi vị Hòa thượng đưa ca sa cho giới tử và dạy phép tham thiền như sau nầy:

Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco.

Taco, dantā, nakhā, lomā, kesā.

Tóc, lông, móng, răng, da.

Da, răng, móng lông, tóc.

Vị Hòa thượng phải giải sơ về cái thân trược cho giới tử nghe. Xong rồi, giới tử lui ra, để mặc y ca sa và trong khi ấy phải suy ngẫm rằng: “Ta mặc y ca sa đây, để ngừa sự nóng, lạnh, gió, nắng, muỗi, mòng, rắn, rít và tránh sự lõa thể, chẳng mặc để se sua”. Khi mặc xong, giới tử trở vào, tay cầm nhang đèn, quỳ trước mặt vị Hòa thượng, dâng cho ngài và là, lễ, rồi đứng chấp tay mà đọc:

Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumodittabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabhaṃ sādhu sādhu anumodāmi.

Ukāsa kāruññaṃ katvā tisaranena saha sīlāni detha me bhante.

Tôi xin thành kính làm lễ đại đức. Bạch hóa đại đức, cầu xin đại đức tha các tội lỗi cho tôi. Những việc lành mà tôi đã làm, xin đại đức nhận lãnh. Việc lành mà đại đức chia sớt cho tôi làm cho điều lợi ích được thành tựu, tôi xin hoan hỷ thọ lãnh.

Tôi xin thành kính cầu đại đức từ bi thương xót mà truyền tam qui và giới cho tôi.

Rồi ngồi chồm hổm chấp tay đọc:

Ahaṃ bhante saranasīlaṃ yācāmi. Dutiyampi ahaṃ bhante saranasīlaṃ yācāmi. Tatiyampi ahaṃ bhante saranasīlaṃ yācāmi. Bạch đại đức, xin đại đức truyền tam qui và giới cho tôi. Bạch đại đức, xin đại đức truyền tam qui và giới cho tôi, lần thứ nhì. Bạch đại đức, xin đại đức truyền tam qui và giới cho tôi, lần thứ ba.

Hòa thượng đọc:

Yam ahaṃ vadāmitaṃ vadehi. Ta đọc lời nào, ngươi đọc theo lời nấy.

Giới tử đọc:

Āma bhante. Dạ (tôi xin đọc theo).

Rồi giới tử đọc theo Hòa thượng:

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhassa. (đọc ba lần) Tôi đem hết lòng thành kính làm lễ Ðức Phá-gá-qua ấy. Ngài là bậc Á-rá-hăn cao thượng, được chứng quả Chánh Biến Tri, do ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy[8].
Buddhaṃ saranaṃ gacchāmi.

Dhammaṃ saranaṃ gacchāmi.

Saṅghaṃ saranaṃ gacchāmi.

Dutiyampi buddhaṃ saranaṃ gacchāmi.

Dutiyampi dhammaṃ saranaṃ gacchāmi.

Dutiyampi saṅgham saranaṃ gacchāmi.

Tatiyampi buddhaṃ saranaṃ gacchāmi.

Tatiyampi dhammaṃ saranaṃ gacchāmi.

Tatiyampi saṅghaṃ saranaṃ gacchāmi.

 

Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Phật.

Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Pháp.

Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Tăng.

Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Phật, lần thứ nhì. Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Pháp, lần thứ nhì. Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Phật, lần thứ ba. Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Pháp, lần thứ ba. Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Tăng, lần thứ ba.

Buddhaṃ saranaṃ gacchāmi.

Dhammaṃ saranaṃ gacchāmi.

Saṅghaṃ saranaṃ gacchāmi.

Dutiyampi buddhaṃ saranaṃ gacchāmi.

Dutiyampi dhammaṃ saranaṃ gacchāmi.

Dutiyampi saṅgham saranaṃ gacchāmi.

Tatiyampi buddhaṃ saranaṃ gacchāmi.

Tatiyampi dhammaṃ saranaṃ gacchāmi.

Tatiyampi saṅghaṃ saranaṃ gacchāmi.

 

Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Phật.

Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Pháp.

Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Tăng.

Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Phật, lần thứ nhì. Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Pháp, lần thứ nhì. Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Tăng, lần thứ nhì.

Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Phật, lần thứ ba. Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Pháp, lần thứ ba. Tôi hết lòng thành kính, xin quy y Tăng, lần thứ ba.

Hòa thượng đọc:

Tisaranaggahanam paripuṇṇaṃ. Các thọ phép tam quy đều đủ rồi.

Giới tử đọc:

Āma bhante. Dạ. (và lạy)

Hòa thượng đọc rồi giới tử đọc theo:

1. Pānātipātā veramaṇi sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

2. Adinnādānā veramaṇi sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

3. Abrahmacariyā veramaṇi sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

4. Musāvādā veramaṇi sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

5. Surāmeraya majjapamādatthānā veramaṇi sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

6. Vikālabhojanā veramaṇi sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

7. Naccagita vāditavisūkadassanā veramaṇi sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

8.  Mālāgandha vilepanadhāraṇa maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramaṇi sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

9. Uccāsayanamahāsayanā veramaṇi sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

10. Jātaru parajaṭapatiggahaṇā veramaṇi sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

1. Tôi xin vâng giữ điều học, là cố ý tránh xa sự giết thác loài sanh mạng.

2. Tôi xin vâng giữ điều học, là cố ý tránh xa sự trộm cắp.

3. Tôi xin vâng giữ điều học, là cố ý tránh xa sự thông dâm.

4. Tôi xin vâng giữ điều học, là cố ý tránh xa sự nói dối.

5. Tôi xin vâng giữ điều học, là cố ý tránh xa sự dể duôi uống rượu.

6. Tôi xin vâng giữ điều học, là cố ý tránh xa sự ăn sái giờ (từ đúng ngọ cho đến mặt trời mọc chẳng được phép ăn vật chi cả).

7. Tôi xin vâng giữ điều học, là cố ý tránh xa sự hát múa, đờn kèn và xem hát múa, nghe đờn kèn.

8. Tôi xin vâng giữ điều học, là cố ý tránh xa sự trang điểm, đeo tràng bông, thoa vật thơm và dồi phấn.

9. Tôi xin vâng giữ điều học, là cố ý tránh xa chỗ nằm và ngồi quá cao và xinh đẹp.

10. Tôi xin vâng giữ điều học, là cố ý tránh xa sự thọ lãnh, cất giữ, hoặc bảo kẻ khác thọ lãnh, cất giữ vàng bạc châu báu, hoặc cảm xúc đến các vật ấy.

Ngài Hòa thượng đọc tiếp:

Imāni dassa sikkhāpadāni samādiyāmi. Tôi xin thọ trì cả 10 điều học ấy.

Sa-di đọc theo ba bận, rồi lạy, xong đứng chấp tay đọc: Vandāmi bhante … (như trước).

Xong rồi, sa di phải xin nissaya, cầm nhang đèn dâng cho vị Hòa thượng, rồi đứng chấp tay đọc: Vandāmi bhante … (như trước).

Sa-di đọc tiếp:

Ukāsa kāruññaṃ katvā nissayaṃ detha me bhante. Tôi xin thành kính, cầu đại đức thương xót mà cho tôi nương dựa theo.

Xong rồi sa di ngồi chồm hổm đọc:

Ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi.

Dutiyampi ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi.

Tatiyampi ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi.

Upajjāyo me bhante hohi.

Bạch đại đức, xin đại đức cho tôi nương dựa theo. Bạch đại đức, xin đại đức cho tôi nương dựa theo lần thứ nhì. Bạch đại đức, xin đại đức cho tôi nương dựa theo lần thứ ba. (1 lạy)

Bạch ngài, ngài là thầy tế độ của tôi.

Trong mấy tiếng sau này, Hòa thượng nói 1 tiếng nào cũng được (giới tử khỏi đọc theo):

Sādhu Ngươi làm như thế này, là việc thành tựu điều lợi ích trong Phật pháp rồi.
Lābu Ngươi làm như thế là sự nhẹ nhàng, là việc nuôi sống dễ dàng trong Phật pháp rồi.
Pāṭirūpaṃ Ngươi xin đức Hòa thượng như thế là vừa đến sự tôn kỉnh theo pháp xưa rồi.
Opāyikaṃ Ngươi làm như thế là đúng theo phương pháp đem mình ra khỏi luân hồi khổ não rồi.
Pāsādikena sampādehi. Ngươi hãy làm cho phép tam học là: giới, định, tuệ được thành tựu tốt đẹp vì đức tin đi.

Xong rồi giới tử đọc:

Ukāsa sampaṭicchāmi, sampaṭicchāmi, sampaṭicchāmi.

 

Ajjataggedāni thero mayhaṃ bhāro, Ahaṃpi therassa bhāro.

 

Bạch đại đức, tôi xin thành kính hết lòng vâng chịu. Tôi xin hết lòng vâng chịu. Tôi xin hết lòng vâng chịu.

Kể từ nay tôi phải gánh vác công việc của đại đức, là phải tôn kính làm các việc mà tôi phải làm, về phần đại đức, đại đức cũng hoan hỉ gánh vác, là nên nhắc nhở, và dạy bảo tôi luôn khi.

‒ Dứt phép truyền sa di giới ‒

Sa di phải mang bát đứng dậy đi vào, đến giữa tăng, ngay trước mặt Hòa thượng, rồi vị Kiết ma đặt tên tạm cho sa di là Nāgo nāma, xong rồi hỏi sa di (đây là khi nào giới tử thọ giới sa di rồi xin thọ luôn giới tỳ khưu).

 

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app