13 Điều Học Tăng Tàn – Luật Xuất Gia Tóm Tắt – Tỳ Khưu Hộ Tông

BIỆT BIỆT GIẢI THOÁT THU THÚC GIỚI (PĀṬIMOKKHA SAṂVARASĪLA) – Tiếp theo

II. Mười ba điều học tăng tàn (saṅghādisesa)

Tăng tàn là tăng nhờ tăng hợp lại phạt cấm phòng sửa lỗi cho giáo hội giao thiệp (vuttānagamini).

1. Di tinh (sukkavisatthi)

Tỳ khưu cố ý làm tinh di khỏi chỗ, phạm tăng tàn.

Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Kỳ Viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sāvatthī) do tỳ khưu Seyyasaka làm cho tinh di.

Chú giải: Tỳ khưu muốn tinh di cho khỏi bịnh, cho được vui thích… rồi ráng sức dùng tay hoặc dạy kẻ khác làm, hoặc rờ rẫm ngọc hành bằng tay, hoặc nằm sắp đè ngọc hành, hoặc kẹp trong bắp vế … rồi làm cho tinh di, dầu chỉ vừa cho con ruồi nhỏ nuốt được, dầu tinh chưa ra, là chưa xuất ra ngoài cũng phạm tội tăng tàn. Cố ý muốn cho tinh di, cầm da ngọc hành để tiểu tiện, tinh di phạm tăng tàn, tinh không di phạm trọng tội. Cố ý nắm ngọc hành của sa di đang ngủ, tinh di phạm tác ác. Xem chỗ kín của phụ nữ, tinh di phạm tác ác.  

Thể thức không phạm tội: Lúc nằm mộng không cố ý và tỳ khưu điên đều không phạm tội. Không cố ý cho tinh di và không cố ý vui thích cũng không phạm tội.

Ðiều học này không phạm tội vì dạy người khác (anāṇattika) có 3 chi: tác ý muốn làm cho tinh di (cetanā); ráng sức làm (upakkamo); tinh đã di (mocanaṃ). Ðều đủ cả 3 chi ấy mới phạm tăng tàn.

Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) cũng như trong điều học Bất cộng trụ thứ nhất (pathama pārājika samuṭṭhāna).

2. Đụng chạm vào mình phụ nữ (kāyasaṃsagga)

Tỳ khưu cố ý đụng cọ nhằm mình phụ nữ, phạm tăng tàn.

Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Udāyi rờ rẫm phụ nữ.

Chú giải: tỳ khưu rờ rẫm mình phụ nữ, dầu mới sanh trong vòng 1 ngày cũng phạm tội tăng tàn. Bộ nấp, nữ, ngạ quỉ, tinh, đều là vật Trọng tội; thú cái, thú đực, người nam đều là vật của tội tác ác. Phụ nữ, tỳ khưu biết là phụ nữ rồi chạm nhằm, vì lòng vui thích cho đến sự đụng chạm lông với lông. Phụ nữ đụng mà tỳ khưu có lòng vui thích sự đụng chạm ấy, tỳ khưu phạm tăng tàn. Phụ nữ, tỳ khưu nghi là phụ nữ, hoặc không phải là phụ nữ, hoặc tưởng là bộ nấp, là người nam, là thú rồi đụng nhằm vật dính với thân mình hoặc chạm nhằm vật dính với thân phụ nữ, như cọ nhằm y phục của phụ nữ, hoặc bộ nấp, tỳ khưu phạm trọng tội. Tỳ khưu đụng vật dính với thân phụ nữ, do vật dính với thân mình, hoặc phụ nữ liệng đồ tỳ khưu lãnh, liệng qua lại hoặc chạm nhằm bộ nấp, tỳ khưu nghi hoặc tưởng là phụ nữ, là người nam hoặc người nam mà tỳ khưu tưởng là phụ nữ, là bộ nấp, là thú, hoặc nghi rồi mà có lòng vui thích, rồi đụng nhằm mình hoặc cọ nhằm vật dính với thân liệng vật ấy qua lại… như thế đều phạm tội tác ác, phạm nhiều hay ít tùy theo vật và mỗi lần đụng. Tỳ khưu rờ hình phụ nữ, hoặc nắm chặt, rờ bằng 1 ngón tay hoặc trọn bàn tay, rờ từ đầu tới chân không rời chỉ phạm 1 tội. Nếu vật khác nhau rồi rờ bằng 5 ngón tay thì phạm đến 5 tội.

Thể thức không phạm tội: Phụ nữ đụng nhằm tỳ khưu, tỳ khưu không vui thích vì không cố ý muốn đụng, dầu biết sự đụng chạm ấy hoặc muốn cho khỏi rồi xô ra hoặc chạm nhằm vì vô ý, không biết, quên vì không lòng vui thích, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

Ðiều học này không phạm vì dạy người khác (anāṇattika) có 5 chi: người phụ nữ (manussitthī); tưởng là phụ nữ (itthīsaññitā); ráng sức đụng chạm vừa theo sự vui thích (tenarāgena vāyāmo); vui thích vì sự chạm nhằm mình phụ nữ (kāyasaṃsaggarāgo); đụng chạm với nhau, nhất là nắm tay (hatthagāhādi samapajjānaṃ). Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm tăng tàn.

Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học Bất cộng trụ thứ nhất (pathama pārājika sikkhāpada).

3. Nói lời hoa tình (dutthullavācā)

Tỳ khưu nói lời thấp hèn, nói ngay sản môn, nói với phụ nữ, như thế phạm tăng tàn.

Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthi do tỳ khưu Udāyi nói lời đê hèn thô tục với phụ nữ.

Chú giải: Tỳ khưu cố ý vui thích rồi trêu ghẹo phụ nữ như trai trêu ghẹo gái, phụ nữ biết được trong khi ấy, phạm tăng tàn. Người phụ nữ biết lời tốt hoặc xấu về sự hành dâm là vật phát sanh tăng tàn. Vật làm cho sanh trọng tội và tác ác như trong điều học trước. Lời nói về sản môn và giang môn về sự dâm dục với phụ nữ đều gọi là đê hèn, thuộc về chỗ phát sanh tăng tàn. Trong thân phụ nữ từ ngực xắp xuống, từ đầu gối trở lên là vật cho sanh Trọng tội, tứ chi ngoài ra là vật cho sanh Tác ác. Tỳ khưu nói: Này phụ nữ nào hầu hạ bằng nhục dục, đến người có giới luật, có đạo đức hành pháp phạm hạnh (hạnh thanh cao) như ta, sự hầu hạ ấy là cao thượng hơn các sự hầu hạ khác, nếu phụ nữ hiểu được trong khi ấy, tỳ khưu phạm tăng tàn.

Ðiều học này có 5 chi: người nữ (manussitthī); tưởng là người nữ (itthīsaññitā); vui thích trong chỗ nói lời hoa tình (dutthullavācāsarāgo); khen sự vui thích ấy (tenarāgena); phụ nữ nghe hiểu được trong khi ấy (tamkhanaṃ vajānanaṃ).

Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trước, chỉ khác nhau chỗ nói, khen sự hầu hạ bằng nhục dục.

4. Hầu hạ mình bằng nhục dục (attakāma paricariya)

Tỳ khưu có tình dục nói ướm cho phụ nữ hầu hạ mình bằng nhục dục, phạm tăng tàn.

Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Udāyi bảo phụ nữ hầu hạ mình bằng nhục dục.

Chú giải: Tỳ khưu nói: Này em gái, phụ nữ nào hầu hạ người có giới, có đạo đức, hành pháp phạm hạnh như ta, bằng nhục dục, sự hầu hạ ấy cao thượng hơn các sự hầu hạ khác. Nếu phụ nữ hiểu được trong khi ấy, tỳ khưu phạm tăng tàn.

Ðiều học này có 5 chi: người (manussitthī); tưởng là người nữ (itthīsaññitā); vui thích trong sự hầu hạ mình bằng nhục dục (attakāma pāricāriyāyarāgo); khen sự vui thích (tenaraganavannabhananaṃ); phụ nữ hiểu biết trong khi ấy (taṃkhanaṃvacānanaṃ).

Chỗ sanh tội như trong điều học trước, chỉ khác nhau chỗ nói khen bằng sự nhục dục.

5. Làm mai dong (sañcaritta)

Tỳ khưu làm mai dong cho trai và gái làm vợ chồng nhau phạm tăng tàn.

Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Jetavana gần thành Sāvatthī do tỳ khưu Udāyi làm mai dong.

Chú giải: Người nam, người nữ (không phải là ngạ quỉ, tinh) là kẻ thế hoặc là người xuất gia chưa được làm chồng vợ, hoặc đã làm chồng vợ mà từ bỏ hẳn nhau rồi, dầu là cha mẹ của tỳ khưu, đều là vật cho sanh tăng tàn.

Sự đem mai mối có 3 chi: 1) nam hoặc nữ, hoặc cha mẹ của người nữ, hoặc của người nam, cầu tỳ khưu nói đến người nữ, hoặc người nam cầu tỳ khưu nói đến cha mẹ của người nữ hoặc tỳ khưu hứa lời của người (patigganhāti); 2) họ cầu đi nói người nào, tỳ khưu nói với người ấy rằng: “ngươi hãy làm chồng, làm vợ với nhau, hoặc trai gái cùng nhau (vimamseti)”; 3) người nào cầu đi nói, tỳ khưu trở về nói lại với người ấy (paccāharati). Làm mai dong cho người, được hoặc không được không quan trọng, nếu có đủ 3 chi ấy, phạm tội tăng tàn. Nếu chỉ có 2 chi, là chịu đi nói hoặc đã nói rồi, trở lại cho hay (1 trong 2 chi nào) thì phạm trọng tội. Nếu chỉ có 1 chi là chịu đi nói hoặc trở về nói lại (trong 1 chi nào) thì phạm tội tác ác.

Nếu trai cầu tỳ khưu đi nói với gái có mẹ gìn giữ, tỳ khưu đi nói với gái ở với cha, như thế sai lời cầu, không phạm tăng tàn. Tỳ khưu làm mai dong cho bộ nấp phạm trọng tội.

Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu đem tin của tăng, tin của tỳ khưu bịnh và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

Ðiều học này phạm tội vì dạy kẻ khác (sānattika) tỳ khưu đã chịu lời người, dạy kẻ khác nói đến trai, hoặc gái đã nói rồi, dạy kẻ khác trở về nói cho người cầu ấy hay, cũng phạm tăng tàn, có 5 chi: đem lời cho người nào, người ấy là người thiệt (không phải phi nhơn) (yesaṃ sañcariṭṭaṃ samāpajjati tesaṃ manussajātikatā); họ không phải là vợ chồng với nhau từ trước hoặc là đã có làm chồng vợ rồi, song đã từ bỏ nhau hẳn rồi (nanālaṃvacaniyatā); chịu lời cầu (paṭigganhānaṃ); nói theo lời người cầu (vimamsanaṃ); trở lại cho người cầu hay biết (paccāharanāni). Ðều đủ cả 5 chi ấy mới phạm tăng tàn.

Có 6 chỗ sanh (sāmutthāna) là: Tỳ khưu không biết luật cấm, hoặc không biết họ đã từ bỏ hẳn nhau rồi, chịu lời đi nói, hoặc ra dấu hiệu trở lại cho hay bằng cách ra dấu hiệu, như thế là tội phát sanh do thân.

Tỳ khưu ngồi, trai đến cầu gởi rằng: “gái ấy sẽ lại tìm ông, xin ông biết bụng người” rồi tỳ khưu chịu lời rằng “Ờ, phải rồi”. Khi gái đến, tỳ khưu nói lại, khi trai trở lại thì tỳ khưu cho hay như thế, là tội phát sanh do khẩu, vì tỳ khưu không có ra dấu hiệu.

Lại nữa, tỳ khưu nhận lời của trai bằng khẩu, rồi đi đến nhà gái, vì nguyên nhân nào khác, gặp gái ấy rồi nói, rồi vì nguyên nhân nào khác trở lại gặp nói lại với trai ấy, như thế, gọi là chỉ phát sanh do khẩu.

Tỳ khưu không biết luật cấm, dầu bậc A-la-hán cha dạy đi, ngài cũng đi nói với mẹ (đây nói về cha mẹ đã từ bỏ nhau rồi), rằng: người hãy trở về hầu hạ cha đi, rồi tỳ khưu trở về cho cha hay biết, như thế gọi tội phát sanh do thân, khẩu (3 cách) như thế gọi là “chỗ sanh tội vì vô ý” (acittaka samuṭṭhāna) nghĩa là: tỳ khưu biết, hoặc là không biết cũng phạm tội.

Tỳ khưu biết luật cấm, hoặc biết rằng: họ đã từ bỏ hẳn rồi, còn đem mai mối cả 3 cách ấy, 3 chỗ sanh ấy gọi là “chỗ sanh điều học làm mai dong” vì ý biết luật cấm và biết rõ họ đã bỏ hẳn nhau rồi gọi là: có 6 chỗ sanh như thế.

Phạm vì làm (kiriyā), không khỏi phạm vì tưởng (nosaññāvimokkha), không cố ý cũng phạm (acittaka), tội vì Phật cấm (paṇṇatiitvajja) thân nghiệp (kāyakamma), khẩu nghiệp (vacikamma), có 3 tâm (ticittaṃ), có 3 thọ (tissovedanā), thọ vui, thọ khổ và thọ vô ký.

6. Tạo thất (saññācika)

Tỳ khưu tạo thất tô bằng vôi với đất sét không có người đứng làm chủ cất cho mình ở, phải làm cho đúng mực thước, là: bề dài 12 gang, bề ngang 7 gang (1 gang của đức Phật, bằng 3 gang người bực trung), khi cất phải cho tăng chỉ chỗ trước rồi mới nên cất, nếu không do tăng (saṅgha) chỉ chỗ hoặc cất cho quá mực, phạm tăng tàn. (Điều học này gọi kūtikāra cũng được)

Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Trúc Lâm tịnh xá (Veluvanā) gần thành Vương Xá (Rājagaha) do chư sư A-la-vi dạy người cất thất cho mình quá mực định.

Chú giải: Tỳ khưu chủ thất không cho tăng chỉ chỗ cho cất, hoặc cất lớn quá thước tấc, trong mỗi khi làm phạm tội tác ác, còn dư vôi 2 cục nữa thì cất xong, còn dư 1 cục đầu phạm trọng tội, làm xong phạm tăng tàn.

Ðiều học này có 7 chi: mô tả phía trong và phía ngoà; phía dưới không đúng thước; không có tăng chỉ chỗ cho; cất lớn quá thước; cất cho mình ở; cất làm để ở; tô cả nóc và vách

Chỗ sanh tội như trong điều học làm mai dong (sañcarita).

7. Tạo thất lớn (mahallaka)

Tỳ khưu tạo thất lớn, nếu thất ấy có thí chủ, làm chủ cất, làm lớn quá mực thước được, song phải trình cho tăng chỉ chỗ trước mới nên làm. Nếu tỳ khưu không cho tăng chỉ chỗ, cất phạm tăng tàn.

Ðiều học này đức Phật cấm chế tại tịnh xá của trưởng giả (ghosita) gần thành Kosambi do tỳ khưu Channa tạo thất lớn quá mực thước.

Chú giải: điều học này như điều học trước, chỉ khác nhau đây là không định “thất lớn, nhỏ”.

8. Vô cớ cáo gian (amūlaka)

Tỳ khưu giận rồi cố ý cáo vị khác phạm tội bất cộng trụ, do không có cớ, phạm tăng tàn.

Ðiều học này, đức Phật cấm chế tại Trúc Lâm tịnh xá (Veluvana), gần thành Vương Xá (Rājagaha) do tỳ khưu Mettiya và Kummajaka cáo gian đại đức Dabbamallaputta, sa di 7 tuổi đắc A-la-hán quả.

Chú giải: tỳ khưu vô cớ cáo gian dầu sau có ai hỏi, hoặc không có ai hỏi, rồi tự mình khai rằng “Tôi đã nói dối”, như thế ấy cũng phạm tăng tàn. Trong khi tố cáo ấy, mắt không thấy, tai không nghe, không nghi rằng: “Tỳ khưu ấy phạm 1 trong 4 tội bất cộng trụ”, không nghe ai nói, như thế gọi là vô cớ cáo gian. Cáo gian có 4 cách, cáo rằng: ông hành dâm (chỉ vật); ông phạm tội vì hành dâm (chỉ tội); hành lễ phát lộ (uposatha), là lễ tự tứ (pavāraṇā[36]), hành tăng sự với ông không được; ông không phải là Sa-môn (cấm ngăn sự tôn kính). Cáo gian đều đủ đến điều thứ tư, mới phạm tội.

Tỳ khưu cáo gian đến người trong sạch (vô tội) hoặc không trong sạch, cáo vì tội bất cộng trụ nào, người ấy không phạm tội bất cộng trụ ấy, muốn làm cho tỳ khưu ấy xa khỏi phạm hạnh (brahmacariya), không cho tỳ khưu biết trước bằng lời này “Ngài hãy cho phép tôi, tôi muốn nói với ngài (karotume āyasmā okāsaṃ ahantaṃ)”, nếu không nói như thế trước, rồi tố cáo sau, mà tỳ khưu ấy biết trong khi ấy rằng “Họ cáo mình như thế”, tỳ khưu tiên cáo phạm tội tăng tàn và tội tác ác trong mỗi lời cáo gian, khi tiên cáo cho tỳ khưu bị cáo biết trước rồi sẽ cáo sau, chỉ có phạm 1 tội tăng tàn, dầu là tỳ khưu cáo bằng lời nói hoặc ra dấu hiệu trước mặt, cũng vậy. (Cáo “sau lưng”, lúc vắng mặt không kể).

Tỳ khưu dạy kẻ khác cáo, người cáo, do theo lời dạy cáo gian, thì chỉ có người dạy phạm tội, như đoạn trên đã có giải rõ. Nếu người chịu lời đi cáo nói “ta cũng được thấy, được nghe vậy”, thì phạm tội tăng tàn cả 2 người. Tỳ khưu không cho người biết trước rồi chửi mắng phạm tội ưng đối trị và tội tác ác. Nếu cho biết trước rồi cảnh cáo sau, chỉ phạm 1 tội ưng đối trị.

Thể thức không phạm tội: Tỳ khưu tưởng là người không trong sạch là người trong sạch, là người trong sạch trong người không trong sạch đi cáo, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

Ðiều học này phạm tội vì dạy người (sānattika), có 5 chi: tự mình cáo hoặc dạy người cáo người đã tu lên bực trên (upasampannoti saṃkhayaṃ gamaṇaṃ); tưởng người ấy là người trong sạch (tasmiṃ suddhasaññitā); cáo vì tội bất cộng trụ, không có cớ (amūlakatā); tự mình cáo hoặc dạy người cáo trước mặt, cho xa khỏi phạm hạnh (cāvanādhippāyenasammukhācodanāvācodāpadāvā); người bị cáo biết trong khi ấy (tassataṃ khanaṃ vijānanaṃ). Ðều đủ 5 chi ấy mới phạm tăng tàn.

Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) cũng như trong điều học trộm cắp (adinnādāna samuṭṭhāna) chỉ khác nhau điều học này thuộc về thọ khổ.

9. Nhơn cớ khác cáo gian (annabhāgiya)

Tỳ khưu giận hờn vị khác rồi cố tìm cớ, nhất là tìm dòng, phái đem cáo người vì tội bất cộng trụ, phạm tăng tàn.

Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Veluvana gần thành Rājagaha do tỳ khưu Mettiyavākummajaka nhơn cớ khác mà cáo gian vị A-la-hán Dabhamallaputta.

Chú giải: tỳ khưu nhơn cớ khác, nhất là dòng vua, đem cáo vị khác phạm một tội bất cộng trụ nào, rồi dùng dòng ấy làm cớ để cho tỳ khưu cũng thuộc dòng vua như nhau rằng “người là dòng vua, hành dâm phạm tội bất cộng trụ” vì ta được thấy, được nghe, hoặc nghi như thế; phạm tội tăng tàn trong khi ấy, dầu sau có khai thiệt cũng không khỏi phạm tội.

10. Chia rẽ tăng (saṅghabheba)

Tỳ khưu ráng sức chia rẽ tăng (saṅgha[37]) cho xa nhau, tăng đã tụng lời khuyên can, ngăn cấm cho bỏ sự ấy, nếu không bỏ, phạm tăng tàn.

Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Veluvana gần thành Rājagaha do tỳ khưu Đề bà đạt đa (Devadatta) chia rẽ tăng.

Chú giải: tỳ khưu khuyên “ngài chẳng nên làm như thế, ngài hãy thuận hoà với tăng, vì Tăng hoà hảo như thế mới được an vui”, nếu tỳ khưu không nghe lời khuyên can thì phạm tội tác ác. Tỳ khưu được nghe, được thấy mà không ngăn cấm cũng phạm tội tác ác. Tỳ khưu không thể khuyên can được nữa, nên cho các tỳ khưu khác hay biết để gọi tỳ khưu ấy vào giữa tăng, cho tăng tụng samanubhāsana[38], nếu chịu bỏ thì tốt, bằng không thuận, phạm tác ác. Tăng tụng Samanubhāsana xong 1 bận, tỳ khưu phạm 1 tội tác ác; tụng xong 2 bận, tỳ khưu không bỏ, phạm trọng tội; tụng xong 3 bận, phạm tăng tàn.

Thể thức không phạm tội: Tăng chưa tụng samanubhāsana mà tỳ khưu chịu bỏ, và tỳ khưu điên đều không phạm tội.

Ðiều học này có 4 chi: ráng sức chia rẽ tăng (bhedāyaparakkamanaṃ); tăng hành tăng sự theo pháp (dhammakammena samanubhāsanaṃ); tụng dứt thời khuyên can lần thứ ba (dhammavācā pariyosānaṃ); không chịu bỏ tà kiến (appatinissajanaṃ).

Chỗ sanh tội: thuộc về tụng lời khuyên răn (samanubhāsana samuṭṭhāna), phạm vì không làm (akiriyā) không phạm vì tưởng (saññāvimokkha), cố ý (sacittaka), tội vì đời (lokavajja), thân nghiệp (kāyakamma), khẩu nghiệp (vacīkamma), ác tâm (akusalacitta), thọ khổ (dukkhavedanā).

11. Hành theo tỳ khưu chia rẽ tăng (bhedānuvattaka)

Tỳ khưu hành theo tỳ khưu chia rẽ tăng, các vị khác khuyên can không nghe, tăng tụng samanubhāsana ngăn cấm cho dứt bỏ sự hành vi ấy, nếu không tuân theo phạm tăng tàn.

Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) cũng như trong điều học trước.

Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Veluvana gần thành Vương Xá (Rājagaha) do tỳ khưu Kajamo, Rakatissa, Khanda, Deviputta và Samuddadatta hành theo tỳ khưu chia rẽ tăng.

12. Tỳ khưu cứng cỏi (dubbaccayātika)

Tỳ khưu có tánh khó dạy, vị khác khuyên dạy cũng không nghe, tăng đã tụng samanubhāsana ngăn cấm cho bỏ chừa nghiệp ấy, nếu không tuân theo phạm tăng tàn.

Ðiều học này đức Phật cấm chế tại Ghositārāma gần thành Kosambi do tỳ khưu Channa cứng cỏi.

Chú giải: tỳ khưu không cho vị khác thức tỉnh, nói rằng “các ngài đừng nói lời chi tốt, hoặc lời chi xấu đến tôi, tôi cũng chẳng nói lời lành hoặc dữ đến với các ngài, vậy các ngài hãy nín thinh, đừng nhắc nhở tôi như thế”. Khi các vị khác đã khuyên lơn mà không nghe, nên đem tỳ khưu ấy đến giữa tăng để tụng samanubhāsana. Khi tụng đến 3 bận mà không chừa bỏ tánh cũ, không tuân theo lời khuyên nhủ của tăng thì phạm tội tăng tàn.

13. Tỳ khưu nịnh hót (kuladūsaka)

Tỳ khưu bợ đỡ kẻ thế, tăng đã xử, đuổi ra khỏi chùa, rồi còn trở lại hủy báng tăng. Tăng đã tụng samanubhāsana ngăn cấm, nếu không tuân theo, phạm tội tăng tàn.

Ðiều học này cấm chế tại Kỳ Viên tịnh xá (Jetavana) gần thành Xá Vệ (Sāvatthī) do tỳ khưu Assagi, Punabhasuka nịnh hót.

Chú giải: tỳ khưu ngụ nơi làng, xóm, nịnh hót, cho trái cây, bông cây… đến kẻ thế cho họ mất quả phước của sự bố thí đã làm đến mình, như thế gọi là nịnh hót.

Tỳ khưu có tánh xấu xa trồng cây để cho người thế, làm những việc ấy rõ rệt, đến tai, mắt người, vị khác được thấy, được nghe, nên đuổi ra khỏi xóm làng, tỳ khưu ấy trở lại nói xấu tăng đã đuổi rằng “thiên vị”, vì thương (chandāgati) hoặc ghét (dosāgati), hoặc lầm lạc (mohagati) hoặc sợ (bhayagati), nói như thế, các vị khác nghe được, thấy được, nên ngăn cấm không cho hủy báng tăng, nếu ngăn cấm không được phải đem đến giữa tăng để tụng samanubhāsana 3 bận rồi mà không bỏ tánh xưa thì phạm tăng tàn.

Chỗ sanh tội (samuṭṭhāna) như trong điều học trước.

Từ điều học “di tinh” (sukkavisatthi) đến điều học “nhơn cớ khác cáo gian” (aññabhāgiya), tỳ khưu phạm tội trong khi phá giới lần đầu (pathamāpattikā) trong 4 điều học sau (10,11,12,13) tỳ khưu phạm tội sau khi tăng đã tụng samanubhāsana xong 3 bận (yāvatatiyakā) mà không tuân theo thì mới phạm tăng tàn.

 

 

Các bài viết trong sách

Dhamma Nanda

BQT trang Theravāda cố gắng sưu tầm thông tin tài liệu Dhamma trợ duyên quý độc giả tìm hiểu về Dhamma - Giáo Pháp Bậc Giác Ngộ thuyết giảng suốt 45 năm sau khi Ngài chứng đắc trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác vào đêm Rằm tháng 4, tìm hiểu thêm phương pháp thực hành thiền Anapana, thiền Vipassana qua các tài liệu, bài giảng, pháp thoại từ các Thiền Sư, các Bậc Trưởng Lão, Bậc Thiện Trí.

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app