Tam Hoc Gioi Dinh Tue

TAM HỌC: GIỚI – ĐỊNH – TUỆ, CỐT TỦY CỦA ĐẠO PHẬT – ĐẠO GIẢI THOÁT

Do vô minh và tham ái nên chúng sinh trầm luân sinh tử luân hồi trong khổ đau phiền não. Vô minh là không thấu triệt Tứ Diệu Đế:

  1. Chân lý về Khổ
  2. Chân lý về Nguyên nhân của Khổ
  3. Chân lý về Diệt Khổ
  4. Chân lý về Con Đường Diệt Khổ

Chân lý thứ tư Con Đường Diệt Khổ chính là Bát Thánh Đạo, bao gồm:

⑴ GIỚI: Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp Chánh Mạng.
⑵ ĐỊNH: Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Định.
⑶ TUỆ: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy.

Dưới đây xin giới thiệu 9 Đặc Tính của GIỚI – ĐỊNH – TUỆ theo Trưởng lão Buddhaghosa (Phật Âm), trong cuốn Thanh Tịnh Ðạo:

Khi đức Thế tôn ở Xá vệ, một vị trời đi đến Ngài và đã đặt câu hỏi này:

Nội triền và ngoại triền
Chúng sinh bị triền phược
Con hỏi Gotama:
Ai thoát khỏi triền này? (S. i, 13)

Ý nghĩa tóm tắt

– Triền là lưới tham. Vì đó là một trói buộc theo nghĩa đan mắc vào nhau, như những cành cây chằng chịt như mạng lưới trong các khu rừng tre v.v…. Tham cứ tiếp tục khởi qua lại giữa những đối tượng của tâm, từ sắc pháp đến tâm pháp và trái lại. Tham được gọi là nội triền và ngoại triền, vì nó khởi lên dưới hình thức khát ái đối với vật dụng của mình và đối với vật dụng của người, đối với tự ngã của mình và tự ngã của một người khác, đối với nội xứ và ngoại xứ. Vì tham khởi theo cách ấy, nên chúng sinh bị triền phược. Như những cây tre bị vướng mắc bởi bụi tre, thế gian này cũng vậy, nói cách khác, tất cả chúng sinh này đều bị vướng mắc vì mạng lưới chằng chịt của dục vọng.

– Con hỏi Gotama: Và bởi vì thế gian bị trói buộc như thế, cho nên con muốn hỏi điều này. Vị trời xưng hô với đức Thế tôn bằng danh tánh của Ngài là Gotama.

– Ai thoát khỏi triền này: Ai có thể giải tỏa, tháo gỡ trói buộc này, cái mớ bòng bong làm cho chúng sinh trong tam giới đều bị quấn quít như thế? Ðiều vị trời ấy hỏi là: ai có khả năng tháo gỡ triền phược?

Khi được hỏi như vậy, đức Thế tôn, đấng Vô ngại giải, Trời của các vị trời, vượt hơn Ðế thích, Phạm thiên, đấng Thành tựu bốn vô uý, đấng Mười lực, đấng Chánh biến tri, đã nói bài kệ này để trả lời:

Người trú giới (GIỚI) có trí
Tu tập tâm (ĐỊNH) và tuệ (TUỆ)
Nhiệt tâm và thận trọng
Tỷ kheo ấy thoát triền

Bình chú vắn tắt về bài kệ

– Trú giới: là đứng vững trên đất giới. Chỉ có người thực sự thành tựu trọn vẹn giới, mới được gọi là “trú giới”. Cho nên câu này có nghĩa: trú giới do thành tựu viên mãn giới. Người là một hữu tình. Có trí có tuệ do nghiệp sinh, nhờ một kiết sanh có ba nhân (là vô tham, vô sân và vô si). Tu tập tâm và tuệ: tu tập cả định và tuệ. Tâm ở đây chỉ Định, còn tuệ là Quán. Nhiệt tâm (àtàpin): có nghị lực. Nghị lực được gọi là tinh cần hay nhiệt tâm (àtàpa) với ý nghĩa đốt cháy những phiền não. Vì có nghị lực, nên vị ấy nhiệt tâm tinh cần.

– Thận trọng: Là có tuệ giác, chỉ tuệ phòng hộ. Trong câu trả lời, tuệ được nhắc đến ba lần: lần đầu (có trí) là tuệ bẩm sinh, lần thứ hai là tuệ với nghĩa “quán”, còn lần này chỉ tuệ “phòng hộ” hướng dẫn mọi công việc.

– Tỷ kheo (bhikkhu): là kẻ thấy sự khủng khiếp (bhayam ikkhati) trong vòng luân hồi sinh tử.

– Thoát triền: như người đứng trên đất, dùng con dao bén có thể phát quang một bụi tre chằng chịt, cũng thế, vị tỷ kheo có được sáu yếu tố này là giới, định, tuệ, gồm ba thứ nói trên, và sự nhiệt tâm tinh cần – đứng trên đất giới, dùng tay tuệ (phòng hộ) nỗ lực bằng tinh cần, cầm dao tuệ (bẩm sinh) được mài sắc trên đá thiền định -có thể tháo gỡ, cắt đứt, phá huỷ tất cả các dây nhợ tham dục. Chính ở giai đoạn này, thuộc Ðạo lộ, vị ấy mới được gọi là đã “thoát triền”: Ở sát na chứng quả, vị ấy đã tháo gỡ xong sự trói buộc và xứng đáng sự cúng dường tối thượng của thế gian và chư thiên.]

9 Đặc Tính của GIỚI – ĐỊNH – TUỆ

① Ba môn học.
② Giáo lý tốt đẹp ở ba phương diện.
③ Điều kiện cần để chứng ba minh.
④ Sự tránh hai cực đoan và tu tập trung đạo.
⑤ Cách vượt khỏi đoạ xứ, khỏi dục và khỏi hữu.
⑥ Sự từ bỏ ô nhiễm ở ba bực.
⑦ Sự đề phòng vi phạm.
⑧ Sự thanh lọc ba thứ nhiễm ô.
⑨ Lý do đắc các quả.

① Ba môn học

Ở đây,

  • sự tu tập tăng thượng giới được nêu bằng Giới;
  • tu tăng thượng tâm bằng Ðịnh;
  • và tu tăng thượng trí tuệ bằng Tuệ.

② Giáo lý tốt đẹp ở ba phương diện

Sự tốt đẹp của giáo lý ở chặn đầu được nêu bằng Giới, do đoạn kinh: “Và gì là khởi điểm của các thiện pháp? Chính là giới hoàn toàn thanh tịnh”. (S. V, 143) và do Pháp cú 183 “Không làm mọi điều ác”. Giới là khởi đầu của giáo lý. Và giới tốt đẹp, vì nó đem lại những đức đặc biệt là bất hối, v.v…

Sự tốt đẹp của giáo lý ở chặn giữa được nêu bằng Ðịnh. Do Pháp cú 183 “Không làm mọi điều ác”, định là chặn giữa của giáo lý: “Thành tựu các hạnh lành”.

(Không làm mọi điều ác
Thành tựu các hạnh lành
Tâm ý giữ trong sạch
Chính lời chư Phật dạy)

Và Ðịnh tốt đẹp, vì đem lại các đức đặc biệt như thần thông v.v…

Sự tốt đẹp của giáo lý ở chặn cuối được nêu bằng Tuệ. Do câu “Tâm ý giữ trong sạch. Chính lời chư Phật dạy”. (Dh. 183) và vì tuệ là cao điểm của nền giáo lý, nên Tuệ là chặn cuối. Tuệ tốt đẹp vì đem lại đức bình thản đối với những điều khả ý và bất khả ý. Như kinh dạy:

Như núi đá kiên cố
Không bị gió lay động
Huỷ báng hoặc tán dương
Không lay động bậc trí. (Dh. 81)

③ Điều kiện cần để chứng ba minh

  • Cũng thế, điều kiện cần thiết để chứng ba minh được nêu bằng Giới. Vì nhờ sự hỗ trợ của Giới viên mãn mà người ta đắc ba minh.
  • Ðiều kiện cần thiết để đắc sáu thông được nêu bằng Ðịnh, vì chính nhờ sự hỗ trợ của định viên mãn mà đạt đến sáu thông.
  • Ðiều kiện cần thiết để đắc bốn vô ngại giải được nêu bằng Tuệ, vì chính nhờ sự hỗ trợ của tuệ viên mãn mà được bốn vô ngại giải.

[Chú thích: Ba minh: túc mạng minh, nhớ được các đời trước; thiên nhãn minh: biết sự chết và tái sinh của các hữu tình; lậu tận minh, đoạn trừ tất cả lậu hoặc. (M. i, 22-3). Bốn vô ngại giải là nghĩa vô ngại, pháp vô ngại, từ vô ngại, biện tài vô ngại (A. ii, 160).]

④ Sự tránh hai cực đoan và tu tập trung đạo

  • Sự tránh xa cực đoan mê đắm dục lạc được nêu bằng Giới,
  • cực đoan ép xác khổ hạnh được nêu bằng Ðịnh,
  • và sự tu tập trung đạo được nêu bằng Tuệ.

⑤ Cách vượt khỏi đoạ xứ, khỏi dục và khỏi hữu

  • Cũng vậy, Giới được nêu làm phương tiện để vượt khỏi các đọa xứ,
  • Ðịnh để vượt khỏi các dục,
  • và Tuệ để vượt tất cả hữu.

⑥ Sự từ bỏ ô nhiễm ở ba bực

  • Lại nữa, sự từ bỏ những ô nhiễm do thay thế những pháp ngược lại là Giới,
  • do nhiếp phục là Ðịnh,
  • do đoạn tận là Tuệ.

⑦ Sự đề phòng vi phạm

  • Ðề phòng vi phạm những điều ô nhiễm (nơi Thân, Khẩu) là nhờ Giới,
  • đề phòng các ám ảnh của ô nhiễm (nơi Ý) là nhờ Ðịnh,
  • đề phòng các tùy miên (khuynh hướng nội tại đưa đến ô nhiễm) là nhờ Tuệ.

⑧ Sự thanh lọc ba thứ nhiễm ô

  • Sự thanh lọc những ô nhiễm do tà hạnh là nhờ Giới;
  • thanh lọc những ô nhiễm do dục tham là nhờ Ðịnh;
  • và thanh lọc những ô nhiễm do tà kiến là nhờ Tuệ.

⑨ Lý do đắc các quả

Lý do đắc quả Dự lưu và Nhất lai là Giới,

quả Bất hoàn là Ðịnh,

và quả A-la-hán là Tuệ.

Vì bậc Dự lưu được gọi là người “thành tựu viên mãn các phẩm loại của giới”, bậc nhất lai cũng vậy, bậc bất hoàn được gọi là “viên mãn định” và A-la-hán là bậc “tuệ viên mãn”.

 
Nguồn trích dẫn: Thanh Tịnh Ðạo, Trưởng lão Buddhaghosa (Phật Âm), Thích Nữ Trí Hải dịch Việt
* Nội dung được trích từ các bài giảng và tài liệu do Sư Viên Phúc tổng hợp và chia sẻ trên trang Ehipassiko.info

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app