[01]
SIÊU-LÝ CƯƠNG-YẾU
Pháp tất cả chia ra có 2:
2- Pháp Chơn đế (Paramatthasacca).
Pháp Chơn-đế chia ra có bốn:
2- Chơn tánh (Cetasika: Sabhāvadhammā).
3- Chơn Sắc (Rūpa: Sabhāvadhammā).
4- Chơn không hay Tánh không (Suññata, Nibbāna; Sabhāvadhammo).
2- Nhĩ thức có hai thứ.
3- Tỷ thức có hai thứ.
4- Thiệt thức có hai thứ.
5- Thân thức có hai thứ.
6- Ý thức có 111 thứ.
B)- Chơn tánh ở đây là bản thể thật về tánh lý, tức là pháp phụ thuộc của tâm, cũng được gọi là sở hữu tâm hay tâm sở. Chơn tánh có ba loại:
2- Tánh Bất thiện có 14 thứ.
3- Tánh thiện có 25 thứ.
C)- Chơn sắc ở đây là Pháp bản thể thật về Sắc Pháp. Chơn sắc có hai loại:
2- Sắc y Ðại sinh có 24 thứ.
D)- Chơn không ở đây là pháp bản thể thật về vô vi tức là Níp-Bàn chỉ có một.
I. PHÁP CHƠN ÐẾ PHÂN THEO NGŨ UẨN CÓ 5:
2- Thọ uẩn là sở hữu Thọ.
3- Tưởng uẩn là sở hữu Tưởng.
4- Hành uẩn là 50 sở hữu còn lại.
5- Thức uẩn là 121 Tâm.
II. PHÁP CHƠN ÐẾ PHÂN THEO XỨ CÓ 12:
2- Nhĩ xứ là sắc nhĩ vật.
3- Tỷ xứ là sắcTỷ vật.
4- Thiệt xứ là sắc thiệt vật.
5- Thân xứ là sắc thân vật.
6- Sắc xứ là sắc cảnh.
7- Thinh xứ là sắc thinh.
8- Khí xứ là sắc khí.
9- Vị xứ là sắc cảnh vị.
10- Xúc xứ là Ðất, Lửa, và Gió.
11- Ý xứ là 121.
12- Pháp xứ là 52 tánh, 16 sắc tế và Níp-Bàn.
2- Nhĩ giới là sắc nhĩ vật.
3- Tỷ giới là sắc tỷ vật.
4-Thiệt giới là sắc thiệt vật.
5- Thân giới là sắc thân vật.
6- Sắc giới là sắc cảnh sắc.
7- Thinh giới là sắc cảnh thinh.
8- Khí giới là sắc cảnh khí.
9- Vị giới là sắc cảnh vị.
10- Xúc giới là Ðất, Lửa và Gió.
11- Nhãn thức giới là 2 tâm nhãn thức.
12- Nhĩ thức giới là 2 tâm nhĩ thức.
13- Tỷ thức giới là 2 tâm tỷ thức.
14- Thiệt thức giới là 2 tâm thiệt thức.
15- Thân thức giới là 2 tâm thân thức.
16- ý giới là 2 tâm Tiếp Thâu và Khai ngũ Môn.
17- Ý thức giới là 108 tâm còn lại.
18- Pháp giới là 52 sở hữu, 16 sắc tế và Níp-Bàn.
2- Tập đế: là sở hữu tham.
3- Diệt đế: là Níp-Bàn.
4- Ðạo đế: là 8 sở hữu chánh đạo (Trí, Tầm, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Niệm, Cần và Ðịnh) phối hợp trong tâm đạo.
-ooOoo-
1. KỆ NHẬP ÐỀ
Cùng Vô Tỷ Chánh Pháp.
Và vô thượng Tăng.
Tôi sẽ giảng Diệu Pháp.
“Chánh Ðẳng Giác” dịch từ chữ Sammāsambuddha nghĩa là bậc giác ngộ hoàn toàn, hiểu biết tất cả, cũng dịch là Chánh Biến Tri tức là bậc tự giác ngộ Lý Tứ Diệu Ðế không có thầy chỉ dạy.
“Vô Tỷ Chánh pháp” dịch từ chữ Atulamsasaddhammaṃ nghĩa là giáo lý của Phật giảng thuyết là giáo lý trên mọi giáo lý, pháp môn trên mọi pháp môn, không có một giáo lý hay pháp môn nào khác có thể so sánh được.
“Vô Thượng Tăng Chúng” dịch từ chữ Ganuttamaṃ nghĩa là chúng Thinh Văn đệ tử của Phật tu hành chân chánh đúng theo chánh pháp, thành đạt cứu cánh của phạm hạnh, bên ngoài có tam y quả bát, bên trong có tam học là Giới, Ðịnh và Tuệ. Sa môn trên các Sa môn, giáo sĩ trên các giáo sĩ không thể có hàng Sa môn hay giáo sĩ khác so sánh bằng.
“Diệu Pháp” dịch từ chữ Abhidhamma nghĩa là giáo lý cao siêu vi diệu, mầu nhiệm hơn thường; cũng dịch là Ðối Pháp vì pháp môn trong tạng này chỉ rõ ràng Năng đối và Sở đối cũng dịch là Thắng Pháp vì ý nghĩa trong tạng này thù thắng hơn Kinh tạng và Luật tạng, cũng dịch là Ðại Pháp, vì khi thuyết đến tạng này Nhứt Thiết Chủng Trí của Ðức Phật mới phát huy tột độ, hào quang hiện đủ sáu màu và nghĩa lý trong tạng Abhidhamma bao trùm cả ý nghĩa Tục đế và Chơn đế.
2. NHỊ ÐỀ VIÊN DUNG
Chia thành hai sự thật.
Tục đế và Chơn đế.
Là giềng mối các pháp.
“Pháp” dịch từ chữ Dhamma nghĩa là cái gì đó có tướng trạng riêng biệt như vuông, tròn, dài, vắn, sáng tối, cao, thấp, chơn, giả, hữu vi, vô vi v.v… để phân biệt, hiểu biết được đó là vật chi thì gọi là pháp. Pháp được Ðức Phật khéo giảng thuyết bằng nhiều phương tiện khác nhau, nhưng tóm lại có hai là Chơn đế và Tục đế.
“Tục đế” dịch từ chữ Sammutti-sacca nghĩa là sự thật phổ thông của thế tình. Thí dụ: Như các món nữ trang có tên bông, cà rá v.v… cũng dịch là Thi Thiết là tạo đặt ra chứ không có thật, cũng dịch là Khái niệm là quan niệm đại khái bề ngoài chứ không có thật chất. Cũng dịch là Chế định là chế biến định đặt ra danh từ và ý nghĩa của các sự vật để tỏ cho nhau hiểu biết bản thể thật. Có chỗ gọi là Thế đế cũng đồng nghĩa như tục Ðế.
Tục đế có hai loại Danh chế định và Nghĩa chế định.
Danh chế định (Nāmapaññatti) có 6:
2- Phi Danh chơn chế định.
3- Danh chơn Phi Danh chơn chế định.
4- Phi Danh chơn danh chơn chế định.
5- Danh chơn danh chơn chế định.
6- Phi Danh chơn phi danh chơn chế định.
2- Hiệp thành chế định.
3- Hư không chế định.
4- Chúng sanh chế định.
5- Thời tiết chế định.
6- Phương hướng chế định.
7- Tiêu biểu chế định.
2- Sở Hữu tâm
3- Sắc pháp
4- Níp-Bàn.
2- Tâm nhĩ thức có 2 thứ.
3- Tâm tỷ thức có 2 thứ.
4- Tâm thiệt thức có 2 thứ.
5- Tâm thân thức có 2 thứ.
6- Tâm ý thức có 111 thứ.
“Sở Hữu Tâm” dịch từ chữ Cetasika nghĩa là vật phụ thuộc của tâm.
Ðối với tâm, sở hữu luôn luôn đồng sanh với tâm, đồng diệt với tâm, đồng nương một căn (vật) với tâm và đồng biết một cảnh với tâm. Sở hữu tâm có 3 loại:
2- Sở hữu bất thiện có 14 thứ.
3- Sở hữu tịnh hão có 25 thứ.
“Sắc pháp” dịch từ chữ Rūpa có nghĩa là thể chất vô tri giác hằng biến hoại đổi thay. Trái nghĩa với Danh hay Tâm là sự biết cảnh không hình sắc. Sắc Pháp có hai loại:
– Sắc Y Ðại Sinh có 24 thứ.
“Níp-Bàn” dịch từ chữ Nibbāna nghĩa là dập tắt phiền não, diệt tận ngũ uẩn, chấm dứt sanh tử luân hồi, ngoài hạn cuộc thế gian. Theo ngài Sāriputta giải: sự vắng mặt tham, sân, si là Níp-Bàn.
– Ngài Nārada chú giải tập Dhammapada ghi rằng: “Ðứng về phương diện siêu hình. Níp-Bàn là dập tắc đau khổ, phiền não, về phương diện tâm lý, Níp-Bàn tận diệt tham, sân, si”.
Như trên vừa trình bày hai pháp Tục đế và Chơn đế. Trong mọi trường hợp cả hai đế đều được ứng dụng để bổ túc cho nhau, nhất là trên phương diện duy trì và truyền bá chánh pháp, chúng ta không thể chấp Tục đế mà bỏ Chơn đế và ngược lại. Chấp tục đế mà bỏ Chơn đế như bỏ mồi bắt bóng Giữ Chơn đế mà bỏ Tục đế chẳng khác tìm trâu mà không theo dấu! Vì vậy, nên Nhị đề phải được viên dung.
-ooOoo-