Minh Sát Tuệ Đầu Tiên Là Gì, Được Tu Tập Như Thế Nào, (bài 2/2)

Minh Sát Tuệ Dầu Tiên Là Gì2

[lwptoc]

MINH SÁT TUỆ ĐẦU TIÊN LÀ GÌ,  ĐƯỢC TU TẬP NHƯ THẾ NÀO (Bài 2/2)

  1. Minh Sát Tuệ Đầu Tiên Là Gì?Được Tu Tập Như Thế Nào?Bài 1/2: Hướng Dẫn Tu Tập Vun Bồi Và Phát Triển Tuệ Phân Biệt Danh Sắc Của Ngài Đại Trưởng Lão Thiền Sư Mahasi, Web, FB
  2. Minh Sát Tuệ Đầu Tiên Là Gì?Được Tu Tập Như Thế Nào?Bài 2/2: Phương Pháp Tu Tập Vun Bồi Và Phát Triển Tuệ Phân Biệt Danh Sắc Nāma – Rūpa – Pariccheda – Ñāṇa Theo “Thanh Tịnh Đạo”, Web, FB

NĀMARŪPAPARICCHEDAÑĀṆA – TUỆ PHÂN BIỆT DANH – SẮC LÀ GÌ 

Bằng việc tu tập Quán Vipassnā, còn được gọi là Thiền Minh Sát hay Thiền Tứ Niệm Xứ, một cách kiên nhẫn, liên tục và đúng đắn, hành giả sẽ đạt tới sự thấy và biết đúng ‘như thật’, ‘như nó đang là’ của mọi hiện tượng đang xảy ra trong thực tại hiện tiền. Sự thấy và biết đúng như thật đó được gọi là Minh Sát Tuệ.

Minh Sát Tuệ có tất cả 16 tầng bậc, bao gồm:

  1. Tuệ phân biệt danh và sắc (nāma-rūpa-pariccheda-ñāṇa)
  2. Tuệ phân biệt duyên (paccaya-pariggaha-ñāṇa)
  3. Tuệ thấu đạt (sammāsana ñāṇa)
  4. Tuệ thấy sinh diệt (udayabbaya ñāṇa)
  5. Tuệ diệt (bhanga ñāṇa)
  6. Tuệ sợ hãi (bhaya ñāṇa)
  7. Tuệ thấy hiểm họa của ngũ uẩn (ādīnava ñāṇa)
  8. Tuệ nhàm chán (nibbidā ñāṇa)
  9. Tuệ muốn giải thoát (mucitukamyatā ñāṇa)
  10. Tuệ suy đạt (paṭisankhā ñāṇa)
  11. Tuệ xả hành (saṅkhārupekkhā ñāṇa)
  12. Tuệ thuận thứ (anuloma ñāṇa)
  13. Tuệ chuyển tánh (gotrabhū ñāṇa)
  14. Tuệ đạo (magga ñāṇa)
  15. Tuệ quả (phala ñāṇa)
  16. Tuệ hồi quán (paccavekkhaṇa ñāṇa)

Trong Minh Sát Tu Tập (Vipassanā Bhavana)  có giải thích ngắn gọn như sau:

TUỆ PHÂN BIỆT DANH VÀ SẮC (NĀMA – RŪPA – PARICCHEDA – ÑĀṆA) là tuệ, nhờ đó, hành giả nhận ra thực tánh pháp trong sát-na hiện tại (sabhāva dhamma). Sabhāva là thực tánh của Danh (nāma) và Sắc (rūpa).

Tuệ này làm thay đổi tà kiến cho rằng nāma – rūpa là “ta”.

Trí tuệ ở giai đoạn này chưa đủ để cho hành giả nắm bắt sát-na hiện tại, bởi vì tà kiến (phiền não) cho rằng Danh – Sắc là “ta” hay “của ta” đã quá thâm sâu.

Người muốn đạt được Tuệ phân biệt Danh – Sắc nầy phải tuân thủ tuyệt đối pháp hành Tứ Niệm Xứ như đã được Ðức Phật trình bày trong Kinh Mahāsatipaṭṭhāna (Ðại Niệm Xứ).

Hành giả muốn thành công trong con đường thiền quán cần phải nắm bắt Danh – Sắc trong sát-na hiện tại thường xuyên, với càng nhiều trí tuệ thẩm nghiệm (cinta paññā – tu tuệ) càng tốt, cho đến khi chánh niệm tỉnh giác trở thành trí tuệ mạnh mẽ. Lúc ấy, chánh kiến (sammā – diṭṭhi) sẽ nảy sinh.

Trường hợp, khi chánh kiến phát sanh, hành giả sẽ biết, trong sát-na hiện tại, danh nào, sắc nào đang được quán (sắc ngồi, danh nghe,…), và hành giả cũng sẽ nhận ra rằng chính Danh (là cái) biết được đó là sắc ngồi, v.v… Hơn nữa, hành giả cũng sẽ biết rằng, vạn pháp trong thế gian này đều không ngoài Danh và Sắc – không đàn ông, không đàn bà, không tự ngã hay linh hồn gì cả. Khi tà kiến về tự ngã đã bị diệt trừ, hành giả sẽ cảm thấy vô cùng sợ hãi bởi vì từ trước đến nay, chưa bao giờ hành giả có cảm giác rằng không có “ta” hay “của ta” cả.

Nhờ tuệ minh sát (vipassanā paññā) cực mạnh nhổ bật gốc những phiền não (tà kiến) ra khỏi cảm giác của mình, giờ đây hành giả có thể nhận ra thực tánh của Danh và Sắc.

Khi đến tuệ này, hành giả sẽ tự mình biết lấy. Cũng giống như việc nếm đường, không cần ai nói cho ta biết vị của đường là như thế nào.

Trong Anguttara – Nikāya (Tăng Chi Kinh), Ðức Phật nói Pháp (Dhamma) này là: “Paccattaṃ veditabbo viññuhi” – bậc trí tự mình trực nghiệm. Dhamma (Pháp) không cần một vị thầy phải giải thích cho ta biết rằng ta đã đạt đến mức độ tuệ nào, mà hành giả sẽ tự biết do trực nghiệm cá nhân của mình. Cũng có khi một số hành giả sẽ nghĩ rằng mình đã đạt đến một tuệ nào đó, nhưng không thực sự chắc chắn lắm. Nếu hành giả không chắc chắn thì hành giả có thể vẫn chưa đạt được tuệ ấy.

Tuệ này được gọi là Diṭṭhivisuddhi – Kiến tịnh, bởi vì vào sát-na chứng ngộ sẽ không có phiền não. Tuy nhiên, chánh kiến này vẫn chưa nhận rõ tam tướng (vô thường, khổ, vô ngã), cần phải thực hành thêm để đạt đến đó.

Trí tuệ thứ nhất này trở thành nơi “nương nhờ” (quy y) của hành giả, bởi vì nhờ đó, hành giả nhận ra thực tánh pháp. Hành giả biết điều này bằng sự trực nhận Danh – Sắc, cũng như người nếm vị đường vậy.

Từ đây về sau, vị ấy biết, “ta không ngồi mà là sắc ngồi”, “ta không thấy mà là danh thấy”, v.v… Hơn nữa, vị ấy còn biết tất cả các chúng sanh mà vị ấy thấy chỉ là Danh và Sắc. Như vậy, kể từ tuệ thứ nhất này, Danh và Sắc trở thành “Thầy” của hành giả.

Nguồn trích dẫn: Minh sát tu tập

– Hết trích dẫn –

Trong bài viết này, chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ về Phương Pháp tu tập vun bồi và phát triển Tuệ minh sát thứ nhất: Nāmarūpaparicchedañāṇa – Tuệ Phân Biệt Danh – Sắc theo Thanh Tịnh Đạo, [1] một trong những công trình có giá trị bậc nhất của vị Thánh Alahán trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy Theravada – Ngài Đại Trưởng Lão Buddhaghosa – nhà bình luận và chú giải Kinh Phật vĩ đại nhất trong lịch sử [2].

PHƯƠNG PHÁP TU TẬP VUN BỒI VÀ PHÁT TRIỂN TUỆ PHÂN BIỆT DANH SẮC NĀMA – RŪPA – PARICCHEDA – ÑĀṆA THEO “THANH TỊNH ĐẠO” [1]

Theo Thanh Tịnh Đạo, để Phân Biệt Danh Sắc có 5 phương pháp là
① Căn Cứ Bốn Ðại Chi Tiết,
② Căn Cứ 18 Giới,
③ Căn Cứ 12 Xứ,
④ Căn Cứ Năm Uẩn,
⑤ Căn Cứ Bốn Ðại Vắn Tắt.

① Định Nghĩa Căn Cứ Bốn Ðại Chi Tiết

A. Khởi từ Danh

– Một người muốn hoàn tất việc này, trước hết nếu vị ấy tu theo chỉ thừa (cỗ xe tịnh chỉ: Chỉ samatha trước, Quán Vipassana sau), thì hãy xuất định từ một thiền thuộc sắc hay vô sắc nào cũng được, trừ phi tưởng phi phi tưởng xứ,

– Rồi, cũng như một người, nhờ theo dấu một con rắn đã bắt gặp trong nhà, tìm ra được hang ổ của nó, cũng vậy, hành giả dò xét cái danh ấy, tìm cho ra sự sanh khởi của nó nương vào cái gì, và thấy rằng, nó y cứ vào sắc chất của trái tim. Sau đó, vị ấy phân biệt là “sắc” các đại chủng làm chỗ nương cho tim, và các loại sở tạo sắc khác có tứ đại làm chỗ tựa. Vị ấy định nghĩa tất cả đó là sắc (rùpa) vì nó bị quấy nhiễu (ruppana) bởi lạnh nóng. Rồi vị ấy định nghĩa vắn tắt là danh sắc cái danh có đặc tính nghiêng về, và cái sắc có đặc tính bị quấy nhiễu.

B. Khởi Từ Sắc

– Nhưng một người theo quán thừa – Thuần Quán: cỗ xe trí tuệ thuần túy, hay cũng người theo chỉ thừa nói trên, phân biệt bốn đại vắn tắt và chi tiết, theo một trong nhiều cách đã nói trong chương Phân biệt Giới (Ch. XI, đ. 27).

(Quán Sắc do cả 4 nguồn gốc Nghiệp sanh, Tâm sanh, Thời tiết sanh, Thực tố sanh)

Khi các giới đã rõ rệt trong đặc tính chính xác của chúng, thì trước hết, trong trường hợp tóc do nghiệp sanh, hiện rõ mười loại sắc thuộc thân thập pháp là:bốn đại, màu, mùi, vị, thực tố, mạng và thân-tịnh-sắc. Và vì tánh thập pháp cũng hiện diện ở đấy, nên có thêm mười sắc pháp nữa (tức chín thứ trước thêm tánh thay vì thân tịnh sắc).

Và vì ba nhóm 8 pháp (với thực tố thứ tám, nghĩa là 4 đại, màu, mùi, vị và thực tố) thực sanh, thời sanh và tâm sanh cũng hiện diện nên còn có 24 sắc pháp khác. Như vậy có tất cả 44 sắc pháp trong mỗi phần thuộc 24 thân phần do cả bốn nguồn gốc sanh (nghiệp, tâm, thời, thực).

(Quán Sắc do Thời tiết sanh và Tâm sanh)

Còn bốn thứ: mồ hôi, nước mắt, đờm, nước mũi do thời tiết sanh và tâm sanh, thì có 16 sắc pháp tứ hai nhóm tám (thực tố thứ tám trong mỗi nhóm).(Quán Sắc do Thời tiết sanh)

Bốn món gồm bao tử (tức đồ ăn chứa trong đó), phân, mủ, nước tiểu, do thời tiết sanh, thì chỉ có tám sắc pháp (thực tố là thứ tám) do thời tiết sanh mà thôi. Ðất là phương pháp, trong trường hợp 32 khía cạnh của thân thể.– Nhưng có mười thành phần khác (4 hỏa và 6 phong) trở nên rõ rệt khi 32 thành phần (20 địa và 12 thủy) này đã rõ.
[Chú thích: 4 thành phần thuộc hỏa đại: ⑴ cái gì làm nóng, ⑵ tiêu hủy, ⑶ đốt cháy, ⑷ tiêu hóa và 6 thuộc phong đại: ⑴ gió (hay năng lực) đi lên, ⑵ gió đi xuống, ⑶ gió trong bụng, ⑷ gió trong ruột, ⑸ gió trong tứ chi, ⑹ hơi thở].Và về những thứ này, trước hết 9 sắc pháp mạng căn (nhóm tám với thực tố thứ tám, thêm mạng), cũng trở nên rõ rệt trong cái phần hỏa do nghiệp sanh, làm tiêu hóa thực phẩm được ăn vào, v.v…

Cũng rõ rệt thanh cửu pháp (nhóm tám như trên thêm âm thanh) trong cái phần phong đại do tâm sinh, là hơi thở, và 33 sắc pháp gồm mạng-cửu-pháp nghiệp sanh, và ba nhóm 8 với thực tố thứ tám, trong trường hợp mỗi phần còn lại trong tám (phần) thuộc bốn nguồn gốc sanh.

– Khi những sở-tạo-sắc (do chấp thủ) này đã trở nên rõ rệt trong 42 thành phần nói trên nghĩa là 32 thân phần (20 kiểu địa, 12 kiểu thủy), 4 kiểu hỏa và 6 kiểu phong, thì 60 sắc pháp khác cũng trở nên rõ rệt với thập pháp tâm-cơ hay sắc căn, và năm căn môn mỗi thứ 10: thập pháp mắt, tai, v.v…

Gom tất cả lại dưới đặc tính “bị bức não”, hành giả xem chúng là sắc.

– Khi vị ấy đã phân biệt sắc như thế, thì các pháp vô sắc trở nên rõ rệt theo căn môn, nghĩa là:

– 81 loại tâm thế gian gồm
hai bộ năm (34-38 và 50-54 xem đồ biểu),
ba loại ý giới (39, 55 và 70), và
68 ý thức giới, và
7 tâm sở (biến hành): xúc, thọ, tưởng, tư, mạng căn (7), nhất tâm (8) và tác ý (30). Bảy tâm sở này luôn luôn câu sanh với 81 loại trên.

Nhưng các loại tâm siêu thế thì không thể được biết rõ bởi một người thực hành Thuần Quán hay một người thuộc Chỉ Thừa (cỗ xe tịnh chỉ), vì những loại tâm ấy vượt ngoài tầm họ.

Gom tất cả vô sắc pháp này lại dưới đặc tính “nghiêng về”, hành giả xem chúng là danh.

Ðấy là cách một thiền giả phân biệt danh-sắc một cách chi tiết, qua phương pháp phân biệt bốn đại chủng.

② Ðịnh Nghĩa Căn Cứ 18 Giới

– Một người khác phân biệt bằng 18 giới. Như thế nào? Ở đây, một tỷ kheo quán xét các giới như sau: “Trong người này đây là nhãn giới… đây là ý thức giới.”

Thay vì chấp cục thịt loang lổ với các vòng tròn đen, trắng, có bề dài bề ngang, được mắc vào lỗ con mắt với đường gân, mà thế gian gọi là “một con mắt”, hành giả định nghĩa là “nhãn giới” cái phần mắt tịnh-sắc thuộc loại đã tả dưới mục các sở-tạo-sắc trong phần nói về các Uẩn. (Ch. XIV, đ. 47).

– Nhưng vị ấy không định nghĩa là “nhãn giới” những sắc pháp còn lại gồm 53 tất cả, tức 9 câu sanh sắc là bốn đại chủng làm sở-y cho nó, màu, mùi, vị, thực tố và mạng căn; 20 sắc nghiệp sanh cũng ở đấy, là thán thập pháp và tánh thập pháp; và 24 sắc phi-chấp-thủ là ba nhóm 8 (với thực tố thứ tám) thực sanh, vân vân.

Cùng phương pháp ấy áp dụng cho nhĩ giới vân vân. Nhưng trường hợp thân giới, thì những sắc pháp còn lại gồm 43 tất cả, có người nói 45, cọng thêm hai thanh cửu pháp thời sanh và tâm sanh.

– Vậy năm tịnh sắc này cùng năm ngoại trần tương ứng, là sắc thanh hương vị xúc, làm thành 10 sắc pháp, hay mười giới trong mười tám giới.

Những sắc pháp còn lại chỉ là pháp giới mà thôi.

Tâm khởi lên với con mắt làm chỗ y cứ, và tùy thuộc một sắc pháp, gọi là nhãn thức.

Tương tự, với tai, v.v…. Với cách đó hai bộ năm tâm là năm thức giới, ba loại tâm (39, 55 và 70) là ý giới duy nhất; 68 loại ý thức giới là ý thức giới.

Tất cả 81 tâm thế gian làm thành bảy loại thức giới; và xúc, v.v… tương ứng là pháp giới.

Vậy mười rưỡi giới là sắc và bảy rưỡi giới là danh. Ðấy là định nghĩa danh-sắc qua 18 giới.

③ Ðịnh Nghĩa Căn Cứ 12 Xứ

– Một người khác định nghĩa danh-sắc bằng 12 xứ như sau. Vị ấy định rõ “nhãn xứ” chỉ là tịnh sắc mà thôi, để ra ngoài 53 sắc pháp còn lại, theo cách đã nói về nhãn giới.

Cũng thế vị ấy định nghĩa tai, mũi, lưỡi, thân là “nhĩ xứ, tỉ xứ, thiệt xứ, thân xứ” theo cách đã nói trong phần nhãn giới. Vị ấy định nghĩa năm lĩnh vực đối tượng của chúng là “sắc xứ, thanh, hương, vị, xúc xứ”. Vị ấy định nghĩa bảy thức giới thuộc thế gian là “ý xứ”.

Xúc, v.v… tương ứng với chúng, và các sắc pháp còn lại, là “pháp xứ”.

Vậy mười rưỡi xứ là sắc và một rưỡi xứ là danh. Ðấy là cách thiền giả định nghĩa danh-sắc theo 12 xứ.

④ Ðịnh Nghĩa Căn Cứ Năm Uẩn

– Một người khác định nghĩa danh-sắc một cách vắn tắt theo năm uẩn, như sau.

Ở đây, vị tỷ kheo định nghĩa “sắc uẩn” tất cả 27 sắc sau đây, là 17 sắc pháp gồm 4 đại chủng thuộc bốn nguồn gốc sanh trong thân này, màu, mùi, vị, thực tổ phụ thuộc, năm tịnh sắc mắt tai mũi lưỡi thân, sắc chất của tâm cơ, tánh, mạng, căn, và thanh thuộc cả hai nguồn gốc sanh. Mười bảy sắc pháp này dễ hiểu vì chúng được sản sanh, và là những sắc pháp cụ thể.

Và mười sắc pháp khác là thân biểu, ngữ biểu, không giới, khinh khoái, nhu nhuyến, kham nhậm, tăng trưởng, tương tục, lão, vô thường của sắc. Mười sắc này khó lĩnh hội vì chúng chỉ là biến hóa sắc, hạn giới sắc, chúng không được phát sinh và cũng không là những sắc cụ thể, nhưng được kể là sắc pháp vì chúng làm biến đổi sắc thái và định giới hạn cho những sắc pháp khác nhau.

Như vậy, vị ấy định nghĩa 27 sắc pháp này là “sắc uẩn”.
Vị ấy định nghĩa thọ khởi lên theo 81 loại tâm là “thọ uẩn”,
tưởng tương ứng với chúng là “tưởng uẩn”,
hành tương ứng là “hành uẩn”, và
tâm là “thức uẩn”.

Như vậy, bằng cách định nghĩa sắc uẩn là sắc và bốn tâm uẩn là danh hành giả định nghĩa danh-sắc nhờ năm uẩn.

⑤ Ðịnh Nghĩa Căn Cứ Bốn Ðại Vắn Tắt

Một người khác phân biệt “sắc” trong người mình một cách vắn tắt như sau: “Bất cứ loại sắc nào cũng đều gồm trong bốn đại và sở tạo sắc xuất phát từ bốn đại”. (M. i, 222). 

Cũng vậy, vị ấy phân biệt ý xứ và một phần của pháp xứ là danh. Rồi vị ấy phân biệt danh-sắc một cách vắn tắt như sau: “Danh này, và sắc này, gọi là danh-sắc”.

NẾU VÔ SẮC KHÔNG HIỆN RÕ

– Khi phân biệt sắc theo một trong những cách trên, mà vô sắc vẫn không rõ rệt do tính chất vi tế của nó, thì hành giả không nên bỏ cuộc mà nên nhiều lần tìm hiểu, tác ý, phân biệt, và chỉ định rõ sắc mà thôi. Vì khi sắc càng được xác định, được phăng ra manh mối, càng sáng tỏ, thì các pháp vô sắc, cái có sắc ấy làm đối tượng, cũng trở nên rõ rệt.

– Cũng như khi một người đưa mắt tìm bóng mặt mình trong một tấm gương dơ nhưng không thấy được, thì anh ta không vì vậy mà quăng bỏ tấm gương soi, trái lại y đánh bóng tấm gương nhiều lần, và khi ấy cái bóng tự nhiện hiện rõ khi gương đã sạch. Hoặc như người làm dầu mè, đổ mè vào chảo tẩm ướt, ép một hai lần mà không thấy dầu chảy ra, thì người ấy không quẳng bỏ bột mè, mà tẩm thêm nước nóng rồi vắt, ép, và khi làm thế, chất dầu trong sẽ xuất hiện. Cũng vậy, vị tỷ kheo không nên bỏ cuộc, mà nên tiếp tục nhiều lần tìm hiểu, tác ý, phân biệt để định rõ sắc.

– Vì khi sắc càng trở nên xác định, càng được phăng ra manh mối, càng rõ rệt đối với hành giả, thì những cấu uế chướng ngại sẽ lắng xuống, tâm trở thành trong suốt như nước đã lắng bùn, các vô sắc pháp có sắc kia làm đối tượng sẽ tự nhiên rõ rệt. Và ý nghĩa này cũng có thể làm sáng tỏ bằng những ví dụ khác, như sự ép mía, tra khảo tội nhân, luyện trâu bò, đánh ván sữa để làm bơ…

BA CÁCH LÀM CHO VÔ SẮC PHÁP HIỆN RÕ

Khi hành giả đã hoàn tất sự phân biệt sắc, thì các vô sắc pháp trở nên rõ rệt qua một trong ba phương tiện là xúc, thọ và thức. Như thế nào?

[Xúc]

a. Khi vị ấy phân biệt giới theo cách: “Ðịa giới có đặc tính cứng” (Ch. XI, 93), xúc trở nên rõ rệt cho vị ấy kể như chặng đầu. Rồi thọ tương ứng là hành uẩn, tư và xúc tương ứng là hành uẩn, và thức tương ứng là thức uẩn.

b. Cũng vậy, khi hành giả phân biệt như sau: “Trong tóc, chính địa giới có tánh cứng… Trong hơi thở vô-ra, địa giới có tánh cứng.” (Ch. XI, 31), xúc trở nên rỏ rệt kể như chặng đầu, rồi thọ tương ứng là thọ uẩn, tưởng… thức tương ứng là thức uẩn.

Ðấy là cách làm vô sắc pháp trở nên rõ rệt nhờ xúc.

[Thọ]

a. Với một người khác phân biệt bốn đại chủng theo cách: “Ðịa giới có đặc tánh cứng”, thọ có địa giới ấy làm đối tượng, và cảm nhận kích thích của nó (vấn đề dễ chịu, v.v…), trở nên rõ rệt là thọ uẩn, tưởng tương ứng là tưởng uẩn, xúc và tư tương ứng là hành uẩn, và thức tương ứng là thức uẩn.

b. Cũng vậy, với một người phân biệt chúng như sau: “Trong tóc, chính địa giới có đặc tánh cứng”… Trong hơi thở vô-ra, chính địa giới có đặc tánh cứng”, thọ có địa giới ấy làm đối tượng và cảm nhận kích thích của địa giới trở nên rõ rệt là thọ uẩn, và thức tương là thức uẩn.

Ðấy là cách vô sắc pháp trở nên rõ rệt qua thọ.

[Thức]

a. Với một người khác phân biệt bốn đại chủng như sau: “Ðịa giới có đặc tánh cứng”, cái thức nhận ra đối tượng trở nên hiển nhiên là thức uẩn, thọ tương ứng là thọ uẩn, tưởng tương ứng là tưởng uẩn, xúc và tư tương ứng là hành uẩn.

b. Cũng vậy với người phân biệt chúng như sau: “Trong tóc, chính địa đại có tánh cứng… Trong hơi thở vô ra, chính đại có tánh cứng”, nhận thức ra đối tượng trở nên hiển nhiên là thức uẩn… xúc và tư tương ứng là hành uẩn, thức tương ứng là thức uẩn.

Ðấy là vô sắc trở nên rõ rệt qua thức.

Trong cách phân biệt sắc thành 42 thành phần khởi từ tóc, hoặc phân biệt theo cách vừa kể, hoặc theo phương pháp: “Trong tóc do nghiệp sanh, chính địa giới có tánh cứng”, cũng như trong cách phân biệt sắc thành mắt, v.v… (18 giới), nhờ bốn đại chủng trong mỗi món, sự giải thích cần thực hiện bằng cách vạch ra tất cả những khác nhau trong mỗi phương pháp.

– Chỉ khi nào hành giả đã hoàn toàn nắm vững sự phân biệt sắc theo cách ấy, vô sắc mới hiện rõ ở ba khía cạnh.

Bởi thế, vị ấy chỉ nên bắt tay vào công việc phân định vô sắc khi đã hoàn tất về phân biệt sắc pháp, không cách nào khác hơn.

Nếu vị ấy rời bỏ phân biệt sắc khi mới chỉ một hai sắc pháp hiện rõ, để khởi sự phân biệt vô sắc, thì vị ấy sẽ rơi khỏi đề mục thiền, như con bò cái đã nói ở phần mô tả biến xứ đất (Ch. IV, 130).

Nhưng nếu hành giả khởi sự phân biệt vô sắc sau khi đã hoàn toàn bảo đảm về phân biệt sắc, thì đề mục thiền sẽ đi đến chỗ thành tựu, tăng trưởng, viên mãn.

KHÔNG CÓ CON NGƯỜI Ở NGOÀI DANH SẮC

Hành giả phân biệt bốn vô sắc uẩn đã trở nên rõ rệt qua xúc, v.v… là danh, và đối tượng của chúng, tức bốn đại và sắc do bốn đại tạo, là sắc. Vậy, như người dùng dao mở hộp, như người tách một trái cau làm đôi, vị ấy phân biệt tất cả pháp thuộc ba cõi: 18 giới, 12 xứ, năm uẩn theo hai đường là danh và sắc, và kết luận rằng ngoài danh-sắc, không có một cái gì gọi là cái ngã, hay con người, chư thiên hay Phạm thiên.

– Sau khi phân biệt danh-sắc theo thật tánh của nó như vậy, hành giả, để từ bỏ quan niệm thế tục về ngã, nhân một cách triệt để, để vượt qua tình trạng mê mờ về chúng sanh, và để an lập tâm trên bình diện không mê mờ, hành giả kkểm lại cho chắc ăn, rằng ý nghĩa “chỉ có danh-sắc, không có ngã, nhân” quả có được kinh điển xác chứng. Vì điều này đã được nói trong kinh Tương ứng:

Như bộ phận quy tụ
Tên “xe” được nói lên
Cũng vậy, uẩn quy tụ
Thông tục gọi “chúng sanh” – (S. i, 135)

– Lại nữa, điều này được nói: “Cũng như khi một khoảng không gian được bao bọc bằng gỗ, dây leo, cỏ, đất sét, thì có ra danh từ “nhà”, cũng thế, khi một khoảng không gian được vây kín bằng xương, gân, thịt, da, thì có ra danh từ “sắc” (M. i, 190)

– Lại có nói;

Chỉ có Khổ sanh
Khổ tồn tại, Khổ diệt
Ngoài Khổ, không gì sanh
Ngoài Khổ, không gì diệt. (S. i, 135)

– Như vậy, trong nhiều trăm bản kinh, chỉ có danh-sắc được thuyết minh, không phải một cái ngã, một con người. Bởi thế, như khi những thành phần như trục, bánh xe, khung, dàn… được xếp đặt theo cách nào đó, thì có ra danh từ thông dụng là “xe”, nhưng theo ý nghĩa tuyệt đối, khi mỗi phần tử được xem xét, thì không có “xe”.

Cũng vậy, khi có năm uẩn kể như đối tượng chấp thủ, thì có ra danh từ thông dụng là “chúng sanh” “ngã”, nhưng theo nghĩa tuyệt đối, khi mỗi phần tử được xét đến, thì không có một tự ngã nào làm căn cứ cho giả thuyết “tôi” hoặc “tôi là”. Theo nghĩa tối hậu, chỉ có danh-sắc. Cái thấy của người thấy như vậy gọi là chánh kiến.

– Nhưng khi một người chối bỏ cách thấy đúng này, mà cho rằng có một cái ngã hiện hữu, thì người ấy phải kết luận ngã ấy sẽ đoạn diệt, hoặc sẽ không đoạn diện.

Nếu y kết luận rằng nó không đi đến đoạn diệt, thì rơi vào thường kiến. Nếu y kết luận, ngã ấy đi đến đoạn diệt, thì rơi vào đoạn kiến. Tại sao?

Vì sự quyết đoán ấy loại trừ mọi biến chuyển tuần tự như sự biến chuyển của sữa thành váng sữa. Vậy người ấy hoặc bất cập, mà kết luận rằng ngã ấy là thường, hoặc thái quá, mà kết luận ngã ấy là đoạn.

– Do đó đức Thế Tôn dạy: “Có hai loại kiến chấp, này các tỷ kheo, và khi chư thiên và loài người bị các kiến chấp ấy ám ảnh, thì một số bất cập còn một số thái quá. Chỉ có người có mắt mới trông thấy.

Thế nào là bất cập? Chư thiên và nhân loại ưa thích hữu, thích thú trong hữu, ái lạc hữu… khi Pháp được giảng dạy cho chúng để chấm dứt hưũ, thì tâm chúng không thâm nhập Pháp ấy, được an lập, vững vàng, quyết định. Ðó là hạng bất cập.

Và thế nào là thái quá? Một số thì hổ thẹn, chán nản, sỉ nhục vì hữu này, chúng quan tâm đến phi hữu như sau: “Chư hiền, khi nào, cùng với sự tan rã của thân này, tự ngã đoạn diệt, cắt đứt, không còn sanh lại sau khi chết, thì đấy là an lạc thù thắng, chân thật”. Như thế là những người thái quá.

Và thế nào là người thấy rõ với con mắt? Ở đây, một tỷ kheo thấy hữu là hữu, sau khi thấy như vậy, vị ấy đi vào đạo lộ ly tham, tịch diệt đối với hữu. Ðấy là người thấy rõ với con mắt.” (Iti. 43; Ps. i, 159)

– Bởi thế, cũng như một hình nhân là trống rỗng, không tự ngã, không có tò mò, đi đứng chỉ nhờ gỗ và giây giật, nhưng lại có vẻ như có tò mò, quan tâm; cũng vậy, danh-sắc này trống rỗng, không ngã, không tò mò, và trong khi nó đi đứng chỉ nhờ sự phối hợp hai thứ danh và sắc, nó có vẻ như có sự tò mò, quan tâm.

Ðây là cách quan sát. Do đó cổ đức nói:

Danh và sắc thực có ở đây,
Nhưng không có con người nào cả
Vì nó trống rỗng và được tạo ra như một hình nhân,
Chỉ là khổ chồng chất, như cỏ và cọng củi.

DANH SẮC LỆ THUỘC LẪN NHAU

– Và điều này cần được giải thích không chỉ bằng ví dụ hình nhân, mà còn bằng những ẩn dụ “bó lau”, vân vân. Cũng như khi hai cụm lau tựa vào nhau, cụm này làm chỗ tựa vững chắc cho cụm kia, và khi cụm này đổ, thì cụm kia đổ, cũng thế trong ngũ uẩn hữu, danh sắc sanh khởi lệ thuộc lẫn nhau, phần này làm chỗ nương và củng cố cho phần kia, và khi một phần rơi xuống do cái chết, thì phần kia cũng sụp đổ.

Do đó nói:

Danh và sắc sanh đôi
cái này đỡ cái kia
khi một cái tan rã
cả hai cùng tan rã
do hỗ tương duyên tánh.

– Và cũng như khi tiếng sanh ra có chỗ y cứ là trống do dùi đánh,trống khác, không lẫn lộn; trống không tiếng, tiếng không trống, cũng thế khi tâm sanh có chổ nương là sắc được gọi là thân-sở-y, căn môn và đối tượng, thì khi ấy, danh là một sắc là một, danh, sắc không lẫn lộn với nhau, danh không có sắc, sắc không có danh. Nhưng danh (tâm) sanh do sắc, như tiếng sanh do trống.

Do đó cổ đức dạy:

Năm thứ y cứ vào xúc không đến từ con mắt,
Hay từ sắc, hay một cái gì ở giữa,
Do một nguyên nhân nó sanh ra, thành hình,
Như tiếng sanh từ trống bị đánh.
Năm thứ y cứ vào xúc không đến từ lỗ tai
Hoặc từ tiếng, hoặc từ một cái ở giữa
Do một nguyên nhân…
Năm thứ y cứ vào xúc không đến từ lỗ mũi
hay từ mùi, hay một cái gì ở giữa
Do một nguyên nhân
Năm thứ y cứ vào xúc không đến từ lưỡi
hay từ vị, hay cái gì ở giữa
Do một nguyên nhân…
Năm thứ y cứ vào xúc không đến từ thân
hay từ xúc, hay cái gì ở giữa,
Do một nguyên nhân…Khi được tạo thành, nó không do sắc xứ
cũng không do pháp xứ,
Do một nguyên nhân, nó sanh ra và được thành hình
cũng như tiếng xuất phát từ trống bị đánh

– Lại nữa, danh (tâm) không có quyền năng hữu hiệu, không thể tự sanh. Nó không ăn uống, nói năng, đi đứng nằm ngồi. Và sắc (thân) cũng không có năng lực hữu hiệu, không thể tự sanh, vì nó không có cái ý muốn ăn, uống, nói đi đứng nằm ngồi.

Nhưng khi y cứ vào sắc (thân) thì danh (tâm) sanh, y cứ vào danh (tâm) thì sắc (thân) sanh.
Khi danh có ý muốn ăn, uống, nói, đi đứng nằm ngồi, thì chính sắc làm cái việc ấy.– Ví như một người mù từ sơ sanh, và một người què, muốn đi đến một nơi nào đó, anh mù bảo: “Này, tôi có thể làm việc bằng đôi chân, nhưng không có mắt để thấy đường”. Anh què bảo: “Tôi có thể làm việc bằng con mắt, nhưng không có chân để đi.” Người mù vui vẻ bảo anh què leo lên vai. Ngồi trên lưng người mù, anh què hương dẫn: “Bỏ trái, qua phải, bỏ phải, quẹo trái… “Do đó nói:

Chúng không sanh do tự lực
Hay tự duy trì bằng năng lực của mình
Nhưng nhờ nương vào các pháp khác,
– những pháp cũng yếu kém, sở-tạo như chúng-
mà các pháp này sanh ra.
Chúng được sanh do duyên cái khác (y tha)
Ðược khơi dậy bởi cái khác làm đối tượng,
Chúng được phát sinh do đối tượng và duyên
Và mỗi thứ đều sanh do cái khác với nó.
Ví như người nương vào
Thuyền bè để vượt biển,
Cũng vậy, danh-thân (tâm)
Cần sắc-thân để sanh;
Như thuyền lệ thuộc người
Ðể vượt qua biển lớn
Thân vật lý lệ thuộc
Thân tâm lý để sanh.
Chúng phụ thuộc lẫn nhau,
– thuyền và người đi biển,
cũng thế danh và sắc,
hai thứ lệ thuộc nhau.

– Sự thấy đúng danh và sắc như vậy, một sự thấy đã được an lập trên sự không mê mờ do đã vượt qua ngã tưởng, sau khi phân biệt danh-sắc bằng những phương pháp nói trên.

SỰ THẤY ĐÚNG ẤY GỌI LÀ KIẾN THANH TỊNH (DIṬṬHI-VISUḌḌHI), CŨNG GỌI LÀ TUỆ PHÂN BIỆT DANH SẮC, CŨNG GỌI LÀ ÐỊNH GIỚI CÁC HÀNH.

– Hết trích dẫn –

Nguồn trích dẫn: 

[1] Thanh Tịnh Đạo
[2] Trưởng Lão Buddhaghosa – Nhà Chú Giải Kinh Điển Pàli
 

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app