Nội Dung Chính
Thanh Tịnh Đạo
Phẩm Định: Định, Sáu Tuỳ Niệm Ác
Mười tùy niệm được liệt kê theo sau mười bất tịnh quán (Ch. III, 105)
Niệm (Sati) là tưởng niệm hay tùy niệm (anussati) vì nó khởi lên luôn luôn; hoặc niệm thích hợp (anurùpa) cho một thiện gia nam tử xuất gia vì lòng tìn, niệm có mặt trong những trường hợp cần thiết gọi là tùy niệm.
Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Pháp gọi là niệm Pháp. Ðây là danh từ chỉ niệm mà đối tượng là những đức tính đặc biệt của Pháp được khéo giảng.
Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ Tăng gọi là niệm Tăng. Ðây chỉ là danh tử có đối tượng là những đức đặc biệt của Tăng chúng, nghĩa là những tính như đi vào con đường chánh….
Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ giới gọi là niệm giới. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đặc tính đặc biệt của giới không bị rách…
Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ bố thí gọi là niệm thí. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là những đức đặc biệt của sự bố thí như rộng rãi…
Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ chư thiên gọi là niệm thiên. Ðây là danh tử chỉ niệm có đối tượng là những đức tính đặc biệt của niềm tin, có chư thiên làm chứng.
Tùy niệm khởi lên có cảm hứng từ cái chết gọi là niệm tử. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là sự chấm dứt mạng căn.
Thân hành niệm (kàya- gata- sati): niệm ấy đi đến (gata) cái thân vật chất (kàya) được phân tích thành tóc, v.v… Hoặc niệm đi vào trong thân, nên gọi là thân hành niệm. Ðây là danh từ chỉ niệm có đối tượng là tướng của những thân phần gồm có tóc lông móng răng da v.v… (36 uế vật)
Tùy niệm có cảm hứng hơi thở vào (ànàpàna) gọi là niệm hơi thở. Ðây là danh từ có đối tượng là tướng thở ra hơi thở vào.
Tùy niệm có cảm hứng từ sự bình an gọi là niệm diệt. Ðây là danh từ chi niệm, có đối tượng là sự lắng dịu mọi đau khổ.
Niệm Phật
Một thiền giả có niềm tin tuyệt đối, trước hết muốn tu tập tùy niệm về đấng Giác Ngộ, thì nên độc cư tại một trú xứ thích hợp và tưởng niệm đức tính đặc biệt của đấng Giác Ngộ, như sau:
“Ðức Thế Tôn là bậc A-la-hán Chánh Ðẳng Giác, đầy đủ minh và hạnh, đấng thiện thệ, đấng hiểu rõ thế gian, bậc vô thượng đạo sư điều phục những người đáng điều phục, bậc thầy của chư thiên và loài người, Phật, Thế Tôn” (M. i 3; A. iii 285)
Ðây là cách niệm: “Ðức Thế Tôn là như vậy vì Ngài là A-la-hán, Ngài như vậy vì Ngài hoàn toàn giác ngộ…. Ngài như vậy vì Ngài là Thế Tôn”.
A-la-hán
Trước tiên hành giả niệm “Ðức Thế Tôn là bậc A-la-hán(arahanta)hay hoàn tất, vì những lý do như sau: (1) vì sự xa xôi (àraka), (2) vì những kẻ thù (ari) và (3) những căm xe (ara) đã được phá huỷ (hata), (4) vì Ngài xứng đáng (araha) được tứ sự cúng dường, v.v… Và (5) vì không có những ác hạnh thầm kín (rahàbhàva).
(1) Ngài hoàn toàn xa xôi, tách rời hẳn mọi cấu uế vì Ngài đã triệt hết những dấu vết của nhiễm ô nhờ chánh đạo do sự xa vời đó (àraka) Ngài được gọi là viên mãn(arahanta).
Chúng ta gọi một người là “xa xôi” với cái gì người ấy hoàn toàn không có; bậc cứu thế cũng vậy không tỳ vết, nên đáng được gọi là đấng viên mãn (arahanta).
Và những kẻ thù (ari) tức là những ô nhiễm, đều được huỷ diệt(hata)bởi đạo lộ, nên Ngài đã được gọi là người đã hoàn tất, xong việc (arahants).
(3) Bánh xe luân hồi với trục làm bằng vô minh và khát ái đối với các cõi hữu, với căm xe gồm các hành, và vành xe là già chết được nối liền với chiếc xe ba cõi bằng cái càng xe làm bàng nguồn gốc các lậu hoặc (xemM. i, 55), đã được quay từ thời gian vô thuỷ. Tất cả những căm xe (ara) này đã bị Ngài huỷ hoại (hata) ở Bồ đề tràng, trong khi Ngài đừng vững với hai chân tinh tấn, trên đất giới, bằng tay tín Ngài sử dụng cái rìu tri kiến phá huỷ nghiệp – bởi vì những căm xe đã bị phá huỷ như vậy, nên Ngài được gọiarahanta, bậc A-la-hán.
Một cách giải thích khác: chính là cái vòng vô thuỷ luân hồi đó được gọi là “Bánh xe luân hồi”. Vô minh là trung tâm điểm của nó vì là căn để của sinh tử. Già chết là vành xe bởi vì nó là tận cùng của vô mình. Mười chi phần còn lại (trong mười hai nhân duyên) là căm xe, vì căn để của chúng là vô minh và tận cùng của nó là già chết.
Ở đây, vô minh là không biết về khổ, và vô minh, trong dục giới, là một điều kiện (duyên) cho các hành ở cõi dục, vô minh trong sắc giới là một điều kiện cho các hành ở sắc giới. Vô minh trong vô sắc giới là một điều kiện cho hành ở vô sắc giới.
Hành ở dục giới là điều kiện cho thức ở dục giới. Tương tự với sắc và vô sắc giới.
Kết sanh thức ở dục giới là điều kiện cho danh sắc ở dục giới. Tương tự đối với Sắc giới. Ở vô sắc giới, thức là điều kiện cho danh (không có sắc) mà thôi.
Danh sắc trong dục giới là điều kiện cho lục xứ (lục nhập) ở dục giới. Danh sắc ở sắc giới là điều kiện cho ba xứ ở sắc giới.
Lục xứ ở dục giới là điều kiện cho sáu xúc ở cõi dục. Ba xứ ở sắc giới là điều kiện cho ba xúc ở sắc giới. Ý căn (ý xứ) độc nhất ở vô sắc giới là điều kiện cho một loại xúc ở vô sắc giới.
Sáu xúc ở dục giới là điều kiện cho sáu loại cảm giác ở dục giới (sáu thọ). Ba xúc ở sắc gi?i là duyên (điều kiện) cho ba thọ (cảm giác) ở đây. Một xúc ở vô sắc giới là duyên cho một thọ ở đấy.
Sáu cõi ở dục giới là duyên cho sáu ái ở cõi dục. Ba thọ ở sắc giới là duyên cho ba cái ở sắc giới. Một thọ ở vô sắc giới là duyên cho một ái ở vô sắc giới.
Khát ái trong các cõi là duyên cho thủ ở đấy. Thủ, v.v… lần lượt làm duyên cho hữu (sự trở thành)
Hữu tạo điều kiên cho sanh, sanh tạo điều kiện cho già chết, Ví dụ, một người nghĩ: “Ta sẽ hưởng thụ các dục lạc”, và với sự bám víu (thủ) vào các dục kể như điều kiện, vị ấy tà hạnh về thân, lời và ý. Do hoàn thành tà hạnh, vị ấy tái sinh trong một đoạ xứ. Cái nghiệp làm nhân cho sự tái sinh của vị ấy ở đấy là nghiệp – hữu (kamma-bhavakamma – process becoming), các uẩn phát sinh là sanh hữu (uppati-bhava – rebirth, process becoming), sự sinh ra các uẩn gọi là sanh, sự chín mùi của các uẩn gọi là giả, sự tan rã của uẩn là chết.
Một người khác nghĩ: “Ta sẽ hưởng thụ những lạc thú cõi trời” và song song với ý nghĩ, nó làm các thiện hạnh. Do hoàn tất các thiện hạnh vị ấy tái sanh ở cõi trời dục giới. Cái nghiệp làm nhâân cho sự tái sinh của nó tại đấy gọi là nghiệp hữu,… Như trên.
Một người nữa lại nghĩ: “Ta sẽ hưởng thụ những lạc thú của trời Phạm Thiên”, và với dục thủ làm duyên (điều kiện), vị ấy tu tập từ, bi, hỉ, xả, do hoàn tất tu thiền định, vị ấy tái sinh ở Phạm thiên giới. Cái nghiệp làm nhân cho sự tái sinh của vị ấy ở đây là nghiệp hữu, v.v…
Nhưng một người khác lại nghĩ: “Ta sẽ hưởng thọ lạc thú cõi vô sắc” và do vậy tu tập những thiền chứng khởi đầu bằng không vô biên xứ. Do sự hoàn tất tu tập, vị ấy tái sanh tại một trong những cảnh giới ấy. Nghiệp làm nhân cho sự tái sinh của vị ấy tại đây là nghiệp hữu, các uẩn sinh ra do nghiệp ấy là sanh hữu, sự sanh ra các uẩn là sanh, sự chín mùi của uẩn là già, sự tan rã của uẩn là chết. (xemM. ii, 263)
Các loại chấp thủ còn lại cũng như trên.
Vậy, trí phân biệt các duyên như sau: “Trong hiện tại Vô minh là nhân, hành khởi lên do nhân vô minh và cả hai pháp này đều khởi lên có nhân. Trong quá khứ và vị lại cũng vậy”. Ðó gọi là trí biết tương quan nhân quả của các pháp. Mọi mệnh đề khác (trong 12 nhân duyên) cần được hiểu chi tiết như trên,
Vô minh và hành làm một nhóm; thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ một nhóm. Nhóm thứ nhất là quá khứ, hai nhóm giữa là hiện tại; sanh và già chết là vị lai. Khi vô mình và hành được nói đến, thì ái thủ hữu cũng bao gồm trong đó, bởi thế năm pháp này là cái vòng nghiệp trong quá khứ. Năm pháp từ thức đến thọ là vòng nghiệp quả hay dị thục (Vipàka – Kamma – result)trong hiện tại. Và vì năm pháp từ thức đến thọ được mô tả dưới đề mục già chết, cho nên năm pháp này cũng là nghiệp quả trong tương lai. Như vậy chúng thành hai mươi. Ở đây có một dây nối giữa hành và thức, một giữa thọ và ái, và một giữa hữu và sanh (xem Ch. XVII, đ 288)
Ðức Thế Tôn biết, thấy, hiểu và thâm nhập tất cả các khía cạnh của lý duyên sinh này với bốn nhóm ba thời hai mươi khía cạnh và ba dây nối.
Như vậy, khi đức Thế Tôn, bằng cách biết đúng như thật những pháp này với trí biết tương quan của các pháp, thì Ngài trở nên vô dục đối với chúng. Khi tham dục nơi Ngài tàn tạ, khi Ngài được giải thoát, khi ấy ngài phá huỷ, hoàn toàn phá huỷ, vứt bỏ những cái căm của bánh xe sinh tử nói trên.
Vì những căm xe đã bị phá huỷ, nên Ngài là một bậc đã hoàn tất công việc, gọi là arahanta, A-la-hán.
Các căm xe sinh tử,
Bị phá bằng gươm tuệ
Do vậy đấng cứu thế
Ðược gọi A-la-hán
(4) Và Ngài xứng đáng(arahati) với những đồ cúng dường gồm y phục, v.v… Và với sự tôn trọng, vì chính Ngài là Ðấng đáng dâng cúng nhất. Vì khi một đấng toàn thiện ra đời, thì chư thiên và loài người không cung kính ai khác; Phạm thiênsahampati cúng dường Ngài một chuỗi ngọc lớn như núi Tu-di, và chư Thiên khác cũng cúng dường theo phương tiện của họ, cũng như những người như vua Bimbisàra xứ Magadha và vua xứ Kosala. Và sau khi đức Thế Tôn bát Niết bàn, vua Asoka bỏ tài sản ra đến số chín mươi sáu triệu để dựng tám vạn bốn ngàn ngôi tháp khắp xứ Ấn. Bởi thế, với tất cả những ví dụ này, cần gì nói đến những sự cúng dường của những người khác? – Vì xứng đáng với vật cúng, nên Ngài được gọi là A-la-hán.
Ngài là đấng cứu thế
Ðáng cung kính cúng dường
Cho nên bậc chiến thắng
Ðược gọi là A-la-hán
(5) Và Ngài lại không hành động như những kẻ ngu ở đời đời tự khoe thông minh nhưng lại làm ác, mà còn thầm sợ mang tiếng xấu. Vì Ngài không có ác hành bí mật (rahàva) nên gọi là A-la-hán.
Bậc trí nhân cao cả
Không ác hành bí mật
Nên xứng với danh xưng
Là bậc A-la-hán
Tóm lại, về mọi phương diện,
Bậc thánh xa uế nhiễm
Chiến thắng giặc não phiền
Các căm xe phá huỷ
Xứng đáng được cúng dường
Không ác hành bí mật
Vì năm lý do này
Ngài có thể tuyên bố
Thành bậc A-la-hán
Chánh Ðẳng Giác
Ngài là Bậc Chánh đẳng giác (Sammà sambhuda) vì Ngài đã biết (Buddha) mọi sự vật một cách chân chánh (Sammà) và do tự Ngài (Sàmam). Quả vậy, mọi pháp đều được Ngài tự mình khám phá một cách chân chính, nghĩa là Ngài thắng tri các pháp cần phải thắng trí, tức bốn chân lý; liễu tri các pháp cần liễu tri, tức khổ đế, đoạn tận các pháp cần đoạn tận, tức tập đế, nguyên nhân khổ, chứng đắc các Pháp cần chứng đắc, tức diệt đế, tu tập các pháp cần tu tập, tức đạo đế.
Cái gì cần được thắng tri đã
Ðược thắng trí
Cái gì cần được tu tập đã
Ðược tu tập
Cái gì cần được từ bỏ đã được từ bỏ
Cho nên, này Bà-la-môn,
Ta là Bậc giác ngộ, (Sn. 558)
Ngoài ra, Ngài đã tự mình tìm ra các pháp một cách chính xác theo từng bước nột như sau: Con mắt là chân lý về Khổ, khát ái đi trước phát sanh ra nó, là chân lý về tập khởi của khổ, sự không sinh khởi cả hai pháp ấy là là chân lý về Diệt khổ; con dường hay sự hiểu rõ Diệt là chân lý về đạo diệt khổ. Ðối với thân khẩu ý cũng thế.
Và các pháp sau đâ cũng gần được giải thích tương tự như trên.
Sáu ngoại xứ khởi đầu
Bằng sắc do mắt nhận biết,
Sáu nhóm thức
Khởi đầu nhận thức
Sáu loại xúc
Khởi đầu là nhãn xúc,
Sáu loại thọ khởi đầu
Là thọ do nhãn xúc sanh,
Sáu loại tưởng về sắc,
Sáu loại tư (volition: ý hành)
Khởi đầu là tư duy về sắc
Sáu loại khát ái khởi đầu là
Khát ái đối với sắc pháp
Sáu loại tầm khởi đầu
Là tầm về sắc pháp
Sáu loại tứ khởi đầu
Là tứ về sắc pháp,
Năm uẩn khởi đầu là sắc uẩn,
Mười biến xứ (kasinas)
Mười niệm,
Ba mươi hai khía cạnh của
Thân thể khởi đầu là tóc
Mười hai xứ,
Mười tám giới,
Chín loại hữu
Khởi đầu là dục hữu,
Bồn thiền khởi đầu là sơ thiền,
Bốn vô lượng khởi đầu
Là tu tập từ tâm,
Bốn vô sắc,
Những chi phần của 12 nhân duyên ngược chiều từ già chết, và thuận chiều khởi từ vô minh. (Ch. XX. 9)
Ðây là cách xây dựng một mệnh đề duy nhất trong mười hai nhân duyên, để ví dụ: Già chết là chân lý về khổ, sanh là chân lý về Tập, giải thoát cả hai là chân lý về Diệt khổ, con đường hay sự hiểu rõ khổ diệt, là chân lý về đạo diệt khổ.
Bằng cách ấy Ngài đã tìm ra tuần, tự khám phá, triệt để khám phá vạn pháp một cách chính xác do tự mình, từng bước một.
Minh Hạnh Túc
Ngài có đủ minh trí và giới hạnh:Vijjàcaranasampanno ca sampanno. Ở đây, về minh: có ba loại minh và tám loại minh. Ba loại là như được nói trong kinh Bhayabhorava sutta (M. i, 22) và tám loại như được nói trong Ambattha sutta (D. i, 100), gồm sáu thắng trí với tuệ giác và thần thông của thân ý sanh.
Hạnh: Cần được hiểu là mười lăm điều, nghĩa là: phòng hộ bằng giới, gìn giữ các căn môn, biết vừa đủ trong ăn uống, chánh niệm tỉnh giác, bảy thiện pháp (tín, tàm, quí, đa văn, tấn, niệm, tuệ) và bốn thiền thuộc sắc giới. Nhờ mười lăm pháp này mà một vị thánh đệ tử đi đến bất tử. Do đó, gọi là (giới) hạnh, như kinh nói: “ở đây nàyMahànàma, một vị thánh đệ tử có giới” (M i, 355) v.v… Toàn bộ của giới hạnh này cần được hiểu như đã nói trong Trung Bộ kinh II.
Ở đây, minh trí của đức Thế Tôn là sự viên mãn. Biến tri (Ps. i, 131), còn giới hạnh của Ngài là sự viên mãn tâm Ðại bi (Ps. i, 126). Nhờ biến tri, Ngài biết được cái gì là tốt cái gì là có hại cho các hữu tình, nhờ đai bi Ngài báo cho chúng biết để tránh điều hại, và khích lệ chúng làm điều lành. Ðấy là cách Ngài đầy đủ minh và hạnh, làm cho những đệ tử Ngài đi vào chánh đạo thay vì theo tà đạo như những đệ tử hành thân hoại thể của những ông thầy không có minh trí và giới hạnh đã làm.
Thiện Thệ
Ngài được gọi là đấng thiện thệ(Sugatà) (i) vì cách đi tốt đẹp (soobbana- gamana), (ii) vì đã đi đến một nơi tốt đẹp (sundaram thànam gatatt), (iii) vì đã đi một cách đúng pháp (Sammăàgatattà), và (iv) vì tuyên bố đúng (sammà gadattà).
(i) Một cách đi (gamana) gọi là thệ (đi qua: gata), và cách đi của đấng Thế Tôn là tốt đẹp, thanh tịnh, không lỗi lầm, Cách đi đó là gì? là chánh đạo: vì nhờ cách đi đó mà Ngài đã “đi” không vướng mắc, trong chiều hướng an ổn, Như vậy, Ngài là Thiện thệ (sugatta) do cách đi tốt lành.
(ii) Và ngài đã đến một nơi tốt lành (sunda ra), nghĩa là đến Niết bàn bất tử. Như thế, Ngài là đấng Thiện thệ vì đã đi một nơi tốt lành.
(iii) Và Ngài đã đi (gata)một cách đích đáng(samma), đi không quay trở lại những cấu uế được từ bỏ ở mỗi hặng đường. Vì điều này đã được nói: “Ngài không trở lại, quay lại, trở lui về những cấu uế đã được từ bỏ do Dự lưu đạo, nên Ngài là thiện thệ… Ngài không trở lại, quay lại, trở lui về những cấu uế đã được từ bỏ nhờ A-la-hán đạo, như vậy, Ngài là thiện thệ” (Cựu sớ giải).
Hoặc một cách giải thích khác: Ngài đã đi một cách đích đáng từ thuở phát tâm lập nguyện dưới chân đức Phật Nhiên Ðăng (Dipankara) cho đến khi giác ngộ, bằng cách hành động vì lợi lạc và hạnh phúc cho toàn thế giới, qua sự viên mãn ba mươi hai tướng hảo và qua sự đuổi theo con đường chánh không có chuyển hướng về một cực đoan nào, trong hai cực đoan là thường kiến và đoạn kiến, không theo hướng đam mê, dục lạc cũng không theo hướng ép xác khổ hạnh. Như vậy, Ngài là thiện thệ vì đã đi một cách đích đáng.
(iv) Và Ngài công bố (Gadati) một cách chân chánh (sammà); Ngài đã chỉ nói lên lời đáng nói tại nơi chỗ thích đáng. Như vậy, ngài là thiện thệ vì tuyên bố chính đáng.
Ðây là một bản kinh xác nhận điều này: “Bất cứ lời nào đức Như lai biết là không thật, không đúng, đưa đến tai hại, làm người khác buồn khổ không thích ý, Như Lai không nói lời ấy. Bất cứ lời nào Như Lai biết là thật và đúng, nhưng đưa đến tai hại, làm kẻ khác buồn không thích, lời ấy Như lai không nói. Bất cứ lời nào Như Lai biết thật và đúng, đưa đến lợi ích nhưng khó nghe và làm người khác không thích đón nhận, lời như vậy Như lai biết thời để nói ra. Lời nói nào Như Lai biết là không thật, không đúng, đưa đến tai hại, nhưng dễ nghe và người khác ưa thích, lời ấy Như Lai không nói. Và lời nào đức Như Lai biết là thật và đúng, nhưng có hại, thì mặc dù vui tai và làm kẻ khác ưa thích, lời ấy Như Lai không nói. Lời nào Như Lai biết là đúng, thật, đưa đến lợi ích, dễ nghe, làm kẻ khác ưa thích, lời ấy Như Lai biết thời để nói lên. (M. i, 395) vậy, Ngài là Thiện thệ vì tuyên bố chính đáng.
Thế Gian Giải (Hiểu rõ thế gian)
Ngài là đấng biết rõ thế gian, vì Ngài đã biết cuộc đời trên mọi phương diện. Vì đức Thế Tôn đã kinh nghiệm, biết và thâm nhập thế gian về mọi mặt đặc tính riêng biệt của nó, sự sinh khởi của nó, sự chấm dứt của nó, như được nói: “Hành giả, có một chỗ tận cùng thế giới ở đây người ta không sanh, không già, không chết, không tái sinh, có thể được biết đến hay thấy hay đi đến bằng du lịch, điều ấy ta không tuyên bố. Tuy nhiên ta cũng không nói rằng có sự chấm dứt khổ mà không cần đi đến tận cùng thế giới. Ðúng hơn trong cái thức của nó, mà ta công bố có thế giới, sự sinh khởi của thế giới, sự chấm dứt của thế giới, và con đường đưa đến sự chấm dứt.
Bộ hành không đạt được
Tận cùng của thế giới
Không đạt thế giới tận,
Không phải không thoát khổ,
Do vậy, bậc hiền thiện,
Ðạt đến thế giới tận,
Phạm hạnh được viên thành
Với tâm tư định tĩnh
Biết được thế giới tận,
Không ước vọng đời này
Không ước vọng đời sau (S. i, 69)
Lại nữa, có ba thế giới: thế giới các hành, thế giới của hữu tình và thế giới của xứ sở.
Ở đây trong đoạn “Một thế giới: mọi hữu tình tồn tại nhờ thức ăn” (Ps. i, 122), đây có nghĩa là thế giới của các hành. Trong đoạn: “Thế giới là trường cửu” hay “Thế giới không trường cửu (M. i, 426) là thế giới các hữu tình trong đoạn kinh:
“Như nhật nguyệt lưu chuyển
Sáng chói khắp mười phương
Như vậy mười phương giới
Dưới uy lực của ngươi (M. i, 328)
Ðó là thế giới của xứ sở. Ðức Thế Tôn cũng đã biết thế giới ấy về mọi phương diện.
Cũng vậy, do những lời: “Một thế giới, mọi loài hữu tình đều tồn tại nhờ thức ăn. Hai thế giới: danh và sắc. Ba thế giới: ba loại thọ. Bốn thế giới: bốn loại thức ăn. Năm thế giới: năm uẩn kể như năm đối tượng chấp thủ. Sáu thế giới: sáu nội xứ. Bảy thế giới: bảy thức. Tám thế giới: tám cảnh giới thế gian (wordly states). Chín thế giới: chín chỗ ở của hữu tình. Mười thế giới: mười xứ. Mười hai thế giới: mười hai xứ. Mười tám thế giới: mười tám giới”. (Ps. i, 122) thế giới các hành này được ngài biết trong mọi phương diện.
Ngài biết thói quen của tất cả hữu tình, biết những khuynh hướng nội tâm của chúng, biết tánh tình của chúng, biết sở thích của chúng, biết rõ chúng có ít bụi trong con mắt hay nhiều bụi trong con mắt, kẻ lợi căn, độn căn, thiện hạnh ác hạnh, dễ dạy, khó dạy, có khả năng chứng đắc, và không có khả năng thế giới những loài hữu tình này cũng được Ngài biết đến về mọi phương diện.
Cũng như thế giới các hữu tình, thế giới các xứ sở cũng vậy. Nó được đo lường như sau: Một thế giới bề rộng có một triệu hai trăm lẻ ba ngàn bốn trăm năm chục lý.
Chu vi của nó là
Ba triệu sáu trăm mười ngàn
Ba trăm năm chục lý.
Quả đất này
“Kẻ mang tất cả tài sản”
có chiều dày hai trăm bốn chục ngàn lý
Và chỗ nương của đất:
Bốn trăm sáu mươi ngàn lý
Là bề dày hư không trong vòm trời
Như vậy là diện tích của thế giới.
Diện tích là như vậy. Và trong đó có những vật sau đây:
Núi Sineru (Tu-di) cao nhất trong các núi, vọt vào biển sâu tám vạn bốn ngàn lý, và vươn cao lên cũng bằng như vậy.
Bảy vòng núi đồng tâm bao quanh Sineru cách ấy. Mỗi ngọn núi có chiều sâu và cao bằng nữa ngọn trước nó: Những dãy rộng lớn gọi Yugandhara, isadhara, Karavìka, sudassana, Nemindhara, Vinataka, Assakanna.
Những ngọn gió nhẹ từ thiên giới quạt những đỉnh nhọn của chúng sáng ngời châu ngọc, và ở đây, cư trú bốn vị vua của bốn phương hướng, cùng quần tiên và phi nhân. Núi Hy Mã Lạp vươn cao năm trăm lý, chu vi ba ngàn lý được trang hoàng bằng tám vạn bốn ngàn đỉnh nhọn.
Cây jambu tên là Naga cho mượn tên, do sự vĩ đại của nó gọi là đất của đảo Jambu; thân cây chu vi mười lăm lý Cao năm mươi lý, toả ra xung quanh những cành cũng lớn như vậy Như thế đường kính và chiều cao đo được một trăm lý.
Dãy núi của hoàn cầu lao xuống biển sâu tám vạn hai ngàn lý, vươn cao cũng bằng. Viền quanh toàn thể một thế giới chủng.
Cây Jambu có chiều cao lớn bằng cây Citrapàtaliya của loài A-tu-la, cây Simbali của loài Garula, cây Kadamba ở Lục địa phía tây của loài aparagoyàna, cây kappa ở lục địa phía bắc của loài Uttarakurùs, cây kirìsa ở lục địa phía đông của Pubbavidhavà cây Pàricchattka ở cõi trời tam thập tam (tàvatimsa). Do vậy cổ đức nói:
“Cây Pàtali, Simbali và Jambu,
Cây Pàricchattaka của chư thiên,
Cây Kadamba, cây Kappa và cây Sirìsa là bảy”.
Ðường kính của mặt trăng là 49 lý và mặt trời là năm mươi lý. Cung điện tam thập tam thiên rộng mười ngàn lý. Cũng vậy cung điện của A tu la, địa ngục vô giánAvìicivà đảo Jambu (Ấn độ). Aparagoyàna rộng bảy ngàn lý. Cũng vậy là Pubbavideha, Uttarakurù rộng tám ngàn lý. Và mỗi đại lục được vây quanh bởi năm trăm hòn đảo nhỏ. Toàn thể những thứ ấy làm thành một thế giới chủng duy nhất. Giữa thế giới chủng này và những thế giới chủng tiếp cận có những địa ngục ở trung gian các thế giới. Bởi thế, các thế giới chủng là vô số, và đức Thế tôn đã kinh nghiệm, đã biết và đã thâm nhập chúng bằng trí tuệ vô biên của những đấng giác ngộ.
Bởi vậy, thế giới về vị trí (xứ sở) cũng được ngài biết về mọi mặt. Cho nên Ngài là đấng “Thế gian giải” Vì Ngài đã thấy rõ thế giới trong mọi khía cạnh
Vô Thượng Sĩ Ðiều Ngự Trượng Phu
Không có một người nào cao cả hơn Ngài về những đức tính đặc biệt, không có ai sánh bằng Ngài, do đó Ngài được gọi là đấng không ai trên (Vô thượng sĩ). Ngài vượt toàn thế gian về giới, định, tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến. Như đã được nói: “Ta không thấy trong thế giới với chư thiên, ma. Phạm vương, sa môn và Bà-la-môn, với các tiểu vương (Princes) và loài người, không một người nào toàn vẹn hơn ta về giới: (S i, 139) v.v… Cũng thế trong kinhAggapasàda(A. ii, 34; Iti. 87) và các kinh, và trong đoạn kệ khởi đầu “Ta không có thầy, và người như ta không có trong toàn thế giới”. (M. i, 171)
Ngài dẫn đạo (Sàreti) những con người đáng được dẫn đạo (Purisadamma), nên Ngài là bậc dẫn đạo những người đáng dẫn đạo (Purisadammasàrathi): Ngài làm cho thuần thục, uốn nắn chúng. Những người, phi nhân và loài vật thuộc nam tánh (purisa) chưa được điều phục (dametunyuttà) thì gọi là “những kẻ đáng được điều phục”(purisadammà). Vì những con thú giống đực, như Long vươngApalàla, Cuilodara, Mahodara, Aggisikha, Dkùmasikha, Long Vương Àravàia, con voi Dhanapàlaka, v.v… đều được Ðức Thế tôn điều phục, xa lìa khỏi mọi độc (cấu uế) và an trú trong các giới luật và tam quy. Cũng vậy, những người đàn ông như Saccaka con trai Ni Kiền tử, Ambattha đệ tử Bà-la-môn giáo, Pokkharasàti, Sopadanda, Nùtadanta, v.v… Và những phi nhân nam như Alavaka, Sùciloma và Kharaloma Ðế thích vua cõi trời, vân vân đều được điều phục uốn nắn theo những phương tiện kỷ luật khác nhau. “Này Kosi, ta điều phục những người đáng được điều phục khi thì ôn hoà, khi thì cứng rắn, khi thì vừa ôn hoà, vừa cứng rắn”. (A. ii, 112).
Ðức Thế tôn lại còn điều phục những người đã được điều phục, bằng cách tuyên bố sơ thiền, v.v… Lần lượt cho những người có giới đã được thanh tịnh, v.v… Và công bố con đường tiến lên những đạo lộ cao cả hơn đến bậc Dự lưu, v.v…
Hoặc những chữ “Vô thượng sĩ điều ngự trượng phu” có thể xem là một mệnh đề. Vì Ðức Thế tôn dẫn đạo những người đáng điều phục cách nào để ngay trong một thời (giáo hoá) họ có thể đi khắp tám hướng không ngăn ngại (nhờ tám giải thoát). Do đó ngài được gọi là “Bậc đạo sư vô thượng của những người đáng điều phục“, như đoạn kinh sau: “này các tỷ kheo, được hướng dẫn bởi người luyện voi, con voi được luyện đi theo một hướng…” (M. iii, 222)
Thiên Nhân Sư
Ngài dạy dỗ (anusàsati) bằng phương tiện cái hiện giờ và ở đây, bằng đời sau, và bằng mục đích tối hậu, tùy trường hợp thích đáng, cho nên Ngài là bậc Thầy (Sattha).
Hơn nữa, theo Niddesa, “Ðạo sư” đức Thế tôn là bậc dẫn đạo đoàn lữ hành, vì Ngài đưa những người lữ hành về đến nhà (sattha: caravan) Như một người dẫn đạo lữ hành đưa chúng qua sa mạc đầy những kẻ cướp, không thức ăn, không nước uống, khiến cho chúng vượt qua, vượt qua một cách thích nghi, đưa chúng đến mảnh đất an ổn, cũng thế đức Thế tôn làm bậc dẫn đạo đoàn lữ hành, người đưa qua sa mạc sinh tử”. (Nd1. 446)
Của chư thiên và loài người: được nói lên để chỉ những kẻ tốt nhất, những kẻ có khả năng, tiến hoá. Vì đức Thế tôn đạo sư còn giáo hoá cả đến những súc sinh. Ngay loài súc sinh nhờ được nghe diệu pháp của Thế tôn cũng có thể được lợi lạc, được tái sinh vào một cảnh giới thuận tiện cho sự tiến hoá, với sự thuận lợi này, vào kếp tái sinh thứ hai hay thứ ba, chúng có thể dự phần vào đạo và quả.
Thiên tử (Mandùka) nắm được một tướng ở trong tiếng nói của Ðức Thế tôn. Một kẻ chăn bò đang chống gậy đứng gần đấy, đè chiếc gậy lên đầu con cóc nghiền nát nó. Nó chết, và ngay tức thì tái sinh ở một cung điện vàng son thuộc cõi trời ba mươi ba(tàvatimsa). Nó thấy mình ở đấy như thể vừa tỉnh thức từ một giấc ngủ, giữa một đám tiên nữ, và nó thốt lên “vậy ra ta đã được tái sinh ở đây. Ta đã làm nghiệp gì?” Khi tìm hiểu lý do, nó nhận ra rằng chỉ vì nó đã hiểu được một tướng nơi tiếng nói của đức Thế tôn. Nó bèn đem cung điện cõi trời của nó đi đến Thế tôn và đảnh lễ dưới chân Ngài. Ðức Thế tôn đã biết chuyện, nhưng cứ hỏi:
Ai đảnh lễ dưới chân ta đấy?
Mà chói sáng quang minh
Của sự thành công
Chiếu sáng khắp xung quanh
Với vẻ đẹp cực kỳ mỹ lệ?
Con cóc trả lời:
Ðời trước con là một con cóc
Lấy nước ao tù làm nhà ở
Chiếc gậy mục tử chấm dứt mạng căn
Trong lúc con đang lắng nghe
Diệu pháp của Ngài.
Ðức Thế tôn bèn giảng pháp cho nó. Tám vạn bốn ngàn chúng sinh được ngộ nhập pháp. Khi vị thiên tử được nhập trong Dự lưu quả, vị ấy mỉm cười biến mất.
Phật
Ngài là Phật, đấng đã giác ngộ với trí thuộc về quả giải thoát vì mọi sự có thể biết đã được Ngài biết (buddha).
Hoặc, Ngài khám phá (bujjhi) bốn chân lý tự mình Ngài, và giác tỉnh cho những người khác chân lý ấy, vì những lý do này và khác nữa, Ngài được gọi là giác ngộ. Ðể giải thích ý nghĩa này, có thể trích dẫn toàn đoạn văn trong Niddesa khởi đầu như sau: “Ngài là đấng tìm ra (bujjhitor) những chân lý, cho nên là Giác giả (Buddha). Ngài là đấng đánh thức chúng sinh, nên ngài là giác giả (Nd1., 457) hoặc có thể giải thích cũng đoạn ấy từ Patisambhida.
Thế Tôn
53 Thế tôn (Bhagava) là một danh từ có nghĩa kính trọng tôn sùng gán cho Ngài, được xem như cao cả nhất trong các chúng sanh, và nổi bật vì những đức tính đặc biệt. Cổ đức có nói:
“Thế tôn là danh từ tốt nhất
Thế tôn là danh từ hay nhất
Ðáng uý phục và tôn kính
Thế tôn do đó là tên của Ngài”.
Hoặc giải thích: Tên có bốn loại: ám chỉ giai đoạn của cuộc đời, mô tả một điểm đặc biết hoặc được khởi lên một cách tình cờ một sở đắc đặc biệt. Loại tên sau rốt này, theo thế gian thì gọi là ngẫu hứng. Ở đây,tên chỉ một giai đoạnlà người danh từ như “bò tơ” (vaccha), “trâu chưa thuần” (damua), “bò kéo cày” (balivadha) v.v… Tên ám chỉ một đặc điểm như những danh từ “người mang gậy” (dandin), “người che dù” (chanttin), “người mang búi tóc” (sikhin) “kẻ có tay” (karin– con voi), v.v… Tên có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt là những danh từ như ” người có ba minh” (tevijja) “người có sáu thông” (chalabhinna), v.v… Còn những tên như “sirivaddhaka” (Người tăng vẻ sáng chói) “Dhanavadđhaka” (người tăng tài sản) v.v… là những tên khởi lên một cách tình cờ, chúng không có tương ứng với ý nghĩa của danh từ.
Tên gọi này, Thế Tôn, là môt danh từ có ý nghĩa một sở đắc đặc biệt; nó không được tạo bởi hoàng hậuMàya hay vua Suddhodhana hay bởi tám mươi ngàn quyến thuộc, hay bởi những vị trời đặc biệt như sakka, Santusita, và những vị khác. Và bậc Tướng quân chánh pháp (sàriputta) nói như sau “Thế Tôn” Ở đây không phải cái tên do mẹ đặt ra. Ðây là một tên phát xuất từ sự giải thoát rốt ráo của những đấng giác ngộ, những đấng Thế tôn, cùng với sự đạt được chánh biến tri dưới cội bồ đề; cái tên gọi Thế tôn “này là một danh xưng dựa trên sự chứng đạt”. (Ps. i, 174; Nd1. 143).
Ðể giải thích những đức tính đặc biệt mà danh xưng này ám chỉ, đoạn kệ sau đây được trích dẫn:
Ðấng đạo sư (garu) có phước, lạc (bhagì: blessing);
Ngài là người thường lui tới (bhàjì),
Người sở hữu (bhàgì)
Những gì được phân tích (vibhattavà);
Ngài đã tạo ra sự từ bỏ (bhaggga),
Ngài là người may mắn (bhàgyavà)
Ngài đã phát triển toàn vẹn (subhàtitattane) trong nhiều cách
Ngài đã đi đến tận cùng của các hữu (bhavantago);
nên Ngài được gọi là Thế tôn (bhagavà)
Ý nghĩa những danh từ này cần được hiểu theo phương pháp giải thích trong Niddesa, (Nd1., 142)
Nhưng còn một cách khác: “Ngài là người may mắn (bhagyavà), có được sự từ bỏ (bhaggavà), liên hệ đến hạnh phúc (yuttobhagohi), một người sở hữu những gì đã được phân tích (vibbattavà) “Người đã lui tới (bhattavà) “Ngài đã lui được phân tích (vibbattavà) và đã từ bỏ sự đi vào những cõi hữu, nên ngài là Thế tôn”.
Ở đây bằng cách sử dụng đặc tính của ngôn ngữ khởi đầu là những ví dụ “phát triển hình thức, thay đổi hình thức” hoặc bằng cách sử dụng đặc tính “định tính” khởi đầu bằng những ví dụ “có bụng màu lốm đốm” v.v… (xemPànini, Ganapàtha,6, 3, 109), có thể rằng Ngài cũng có thể được gọi là Thế tôn (Bhagava) khi đã được gọi là May mắn (bhàgya) đạt đến toàn thiện về Thí và Giới, v.v… là những điều kiện phát sinh phúc lạc thế gian và xuất thế gian.
Tương tự như vậy, Ngài có thể được gọi làbhagavàvì Ngài đã được gọi là “có sự từ bỏ” (bhaggavà) do những đe dọa (abhanji) cả trăm ngàn thứ phiền não, lo lắng và ô nhiễm được phân loại thành tham, sân si, thất niệm, vô tàm vô quý, phẫn hận, khinh bỉ và thống trị, ganh tị, và tham lam, lừa dối và gian lận, cứng đầu và tự kiêu, ngã mạn và cao ngạo, khoe khoang và lơ đễnh, khát ái, và ngu si, ba bất thiện căn các loại tà hạnh, ô nhiễm, cấu uế, ảo tưởng, tầm tư duy và những phân biệt, bốn điên đảo, lậu hoặc, triền cái, bộc lưu, hệ phược, thói xấu, khát ái, chấp thủ, năm tâm hoang vu, tâm ách phược, những triền cái và những loại ưa thích, sáu căn và những nhóm khát ái, mười bất thiện nghiệp, 62 tà kiến, 108 lối cư xử thuộc về tham ái, nói tóm lại là năm thứ ma phiền não, ma ngũ ấm, ma hành nghiệp, thiên ma và tử ma.
Từ bỏ (bhagga) tham sân si
Ngài không còn lậu hoặc,
Ác pháp được tận trừ
“Thế tôn” xứng tên gọi.
Sự may mắn hạnh phúc của Ngài (bhàgyavata) được chứng tỏ bằng sắc thân đủ trăm công đức, và sự tận trừ các lỗi được chứng tỏ bởi tính cách toàn vẹn của pháp thân Ngài. Hạnh phúc của ngài chỉ sự tôn trọng của thế gian, sự dứt trừ lậu hoặc nơi ngài chỉ sự tôn trọng của những bậc giống như Ngài. Thân hạnh phúc của Ngài được tin cậy của người thế tục, sự từ bỏ lỗi lầm đáng được tin cậy của người xuất gia. Và khi cả hai hạng người này nương tựa nơi Ngài, thì chúng được cứu vớt khỏi thân khổ và tâm khổ, được cứu giúp bằng tài thí lẫn pháp thí, chúng có thể tìm được cả hai thứ phúc lạc thế gian và xuất thế gian.
Ngài cũng được gọi là bhàgavà(Thế tôn) vì Ngài liên hệ đến hạnh phúc (bhagohi yuttattà): trong đời, danh từ hạnh phúc được dùng để chỉ sáu thứ là sự làm chủ, pháp, danh tiếng, sáng chói, nguyện, tinh tấn. Ngài đã đạt được sự làm chủ tối thượng trên tâm của Ngài. Ngài có đầy đủ pháp thế gian là các thần thông “hiện thân hình thật nhỏ” (animà: như vi trần), “làm thân nhẹ bổng” (laghima: làm thân nhẹ đi trên hư không) v.v… Cũng như pháp xuất thế, ngài lại có danh tiếng hoàn toàn thanh tịnh được lan truyền khắp ba cõi. Ngài có vẻ sáng chói của tứ chi, toàn vẹn trong mọi vẻ trong mọi vẻ, có thể làm đẹp mắt những người ưa nhìn thấy sắc thân của Ngài. Ngài có nguyện, nghĩa là phát sinh những thứ cần dùng, bất cứ gì Ngài cần đến và mong ước để tự lợi và lợi tha đều được phát sinh ngay tại chỗ tức khắc cho Ngài dùng. Ngài có sự tinh tấn, nghĩa là chánh tinh tấn, lý do làm cho toàn thể thế gian tôn sùng Ngài.
Ngài còn được gọi là bhagavàvì Ngài là đấng “sở hữu những gì đã được phân tích” (vibhattàvà), như Ngài đã phân tích và thuyết minh các pháp thành ba loại là thiện ác, và vô ký v.v… Hoặc phân tích các pháp thiện, v.v… Thành ra những pháp như uẩn, xứ, giới, đế (chân lý), căn, duyên khởi v.v… Hoặc phân tích khổ đế thành những nghĩa như bức bách, hữu vi, đốt cháy, thay đổi. Tập đế thành những nghĩa tích luỹ, nguồn gốc, trói buộc, chướng ngại. Diệt đế thành những nghĩa giải thoát, viễn ly, vô vi, bất tử, và Ðạo đế thành những nghĩa lối ra, nguyên nhân thấy rõ, và sự ưu thắng. Ngài đã phân tích, đã khai thị, đã chỉ ra những ý nghĩa ấy.
Ngài có thể được gọi làbhagavà (Thế Tôn) vì Ngài được gọi là đấng “đã từ bỏ sự đi vào các loại hữu” (vantagamano bhavesu), vì đối với ba loại hữu (bhava), sự đi vào (gamana) hay nói cách khác, sự khát ái đã được Ngài từ bỏ (vanta). Âm bha từ chữ bhava, âm ga từ chữ gamana, và âm va từ chữ gamana, và âm va từ chữ vanta với chữ a dài ra, làm thành bhagavà.
Ngài có thể được gọi là bhagavà(Thế Tôn) khi Ngài được gọi là một người “đã lui tới (bhattavà)” do Ngài đã lui tới (bhaji), đã thân cận, đã thường xuyên thực hành những pháp thế gian và xuất thế gian, siêu nhân, như ba trú là thiên trú, phạm trú và thánh trú; ba thứ viễn ly là thân viễn ly, tâm viễn ly, và hữu viễn ly; ba giải thoát là không vô tướng, vô nguyện, và những thứ khác nữa. [Ba trú là “thiên trú” kasina thiền, “phạm trú”: tứ thiền v.v… “thánh trú”; đắc quả. Về ba thứ viễn ly, xem Ch. IV, phần chú thích]
Khi thiền giả nhớ lại những đức đặc biệt của Phật theo cách sau: “Vì lý do này đức Thế tôn là bậc A-la-hán… Vì lý do này Ngài là Thế tôn”, thì ngay khi ấy hành giả không bị ám ảnh bởi tham hay sân, hay si tâm vị ấy có được sự ngay thẳng, nhờ cảm hứng từ đấng toàn thiện” (A. iii, 285).
Bởi thế, khi hành giả đã dẹp trừ những triền cái bằng cách ngăn ngừa những ám ảnh của tham, v.v… Và tâm hành giả đối diện với đề mục thiền quán một cách ngay thẳng, thì tầm và tứ sinh với một khuynh hướng thiên về những đức tính đặc biệt của đấng Giác Ngộ. Khi hành giả tiếp tục luyện tầm và tứ trên đối tượng là những đức tính đặc biệt của đấng Giác Ngộ, thì hỉ khởi lên nơi hành giả. Với tâm có hỉ, với hỉ là nguyên nhân gần, sự rối loạn của thân và tâm được an tĩnh nhờ khinh an, thân lạc và tâm lạc khởi lên. Khi có lạc, tâm hành giả, với những đức tính đặc biệt của Thế tôn làm đối tượng, trở nên định tĩnh và như vậy cuối cùng những thiền chi khởi lên cùng một loạt. Nhưng do tính cách sâu xa của những đức tính đặc biệt của đấng Giác Ngộ, hoặc vì hành giả bận tâm tưởng niệm những đức tính đặc biệt thuộc nhiều loại, cho nên chỉ đạt được định cận hành, không đạt đến định an chỉ. Và chính cận hành định ấy cùng được gọi là “niệm Phật”, vì nó khởi lên nhờ tưởng niệm những đức tính đặc biệt của Thế tôn.
Khi một tỷ kheo chú tâm đến việc tưởng niệm đấng Giác Ngộ như vậy, vị ấy cung kính tôn trọng đức đại sư, đạt đến sự viên mãn đức tin, chánh niệm, trí tuệ và công đức. Vị ấy có nhiều hạnh phúc và an lạc, chinh phục được sự sợ hãi khủng bố. Vị ấy cảm giác như mình đang sống trước mặt đấng đạo sư. Thân xác vị ấy khi trú trong tưởng niệm những đức tính đặc biệt của Phật, trở thành đấng tôn trọng như một điện thờ Phật. Tâm vị ấy hướng về chư Phật. Khi gặp một cơ hội phạm giới, hành giả cảm thấy tàm quý, như thế đang đứng trước mặt đấng đạo sư. Dù cho hành giả không thâm nhập được gì cao siêu, thì ít nhất cũng tiến đến một cảnh giới an lạc.
Người thực sự có trí.
Thì thường xuyên tưởng niệm
Các đức của Thế tôn
Ðấng an lạc vĩ đại
Trên đây là đoạn nói về tưởng niệm Thế tôn, với giải thích chi tiết.