CHƯƠNG VI
NGHI THỨC XUẤT GIA SA-DI
(PABBAJITAVIDHĪ)
Thiện nam tử muốn xuất gia tu tập trong Phật giáo, trước phải tu giới phẩm Sa-di (sāmaṇera) rồi mới tu lên bậc trên thành Tỳ-khưu (bhikkhu) sau đó hoặc thời gian khác.
Nghi thức xuất gia Sa-di đã được Ðức Phật chuẩn hành từ xưa, có ghi lại trong Luật tạng, bộ Đại phẩm (mahāvagga).
Hàng Sa-di chỉ mới bước đầu tập sự theo hạnh sa-môn (samaṇa) nên Ðức Thế Tôn cho phép thọ trì tam qui và thập giới chừng ấy thôi.
Về nghi thức, trước nhất vị thiện nam tử phải tìm đủ y và bát (hàng Sa-di không cần đủ tam y, chỉ cần y vai trái và y nội). Phải tìm nương vị trưởng lão đức hạnh để bái làm thầy tế độ (upajjhāya).
Sau khi được sự chấp nhận cho xuất gia, phải cạo bỏ râu tóc (việc này cần bố cáo cho tăng biết) thiện nam tử, bấy giờ là giới tử, hãy mang y bát đến trước mặt vị thầy tế độ, đảnh lễ vị ấy ba lạy rồi đứng lên chắp tay nghiêm trang và tác bạch rằng:
“Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā pabbajjaṃ detha me bhante.”
(Nghĩa: Bạch Ngài, con thành kính đảnh lễ Ngài. Bạch Ngài, xin hãy xá mọi tội lỗi cho con; phước báo con đã làm xin Ngài tùy hỷ, phước báo Ngài đã tạo hãy cho đến con, lành thay! con xin tùy hỷ. Bạch Ngài, kính xin Ngài hãy vì lòng bi mẫn mà cho con xuất gia).
Rồi ngồi xuống theo thế ngồi chồm hổm, chấp tay lên nói tiếp:
“Ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi; dutiyampi ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi; tatiyampi ahaṃ bhante pabbajjaṃ yācāmi“.
(Nghĩa: Bạch Ngài, con cầu xin được xuất gia; lần thứ nhì, con cầu xin được xuất gia; lần thứ ba, con cầu xin được xuất gia).
Kế đến giới tử cầm lấy bộ y ca-sa dâng đến tay thầy tế độ và tác bạch như sau:
“Sabbadukkhanissaraṇanibbānasacchikaraṇat-thāya imaṃ kāsāvaṃ gahetvā pabbājetha maṃ bhan-te anukampaṃ upādāya.” (nói ba lần).
(Nghĩa: vì mục đích chứng ngộ níp bàn và thoát mọi khổ đau, Bạch Ngài, xin Ngài vì lòng bi mẫn mà thu nhận y cà sa này và cho con xuất gia)
Giới tử lại đọc lời này để xin y ca-sa:
“Sabbadukkhanissaraṇanibbānasacchikaraṇat-thāya etaṃ kāsāvaṃ datvā pabbājetha maṃ bhante anukampaṃ upādāya.” (nói ba lần).
(Nghĩa: vì mục đích chứng ngộ níp bàn và thoát mọi khổ đau, Bạch Ngài, xin Ngài vì lòng bi mẫn mà cho lại con y ca sa đó và cho con xuất gia).
Khi giới tử dứt lời, Thầy Hòa Thượng hãy trao lại y cà sa cho giới tử và dạy sơ lược về cách quán tưởng khi mặc y phục, đồng thời dạy về đề mục niệm thân thể trược như sau; giới tử phải nói theo từng đề mục:
“Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā“.
(Nghĩa: tóc, lông, móng, răng; da, da, răng, móng, lông, tóc).
Xong rồi giới tử lui ra đến chỗ khuất mà thay đổi tướng mạo mặc y cà sa vào nghiêm trang đúng luật, mới trở lại trước mặc Thầy Hòa Thượng đảnh lễ Ngài ba lạy, và đứng lên chắp tay tác bạch xin thọ qui giới, như sau:
“Ukāsa vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khamatha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumoditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā tisaraṇena saha sīlāni detha me bhante.” (nghĩa như trước, đoạn cuối nghĩa là: Bạch Ngài, xin hãy bi mẫn truyền qui giới cho con).
Ðoạn ngồi chồm hổm chắp tay đọc tiếp:
“Ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi, dutiyampi ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi, tatiyampi ahaṃ bhante saraṇasīlaṃ yācāmi“.
(Nghĩa: Bạch Ngài, con cầu xin thọ qui giới, lần thứ nhì . . . lần thứ ba. . .)
Thầy Hòa Thượng phán:
“Yam ahaṃ vadāmi taṃ vadehi“
(Ta nói lời nào ngươi hãy nói theo lời ấy).
Giới tử lãnh giáo:
“Āma bhante” (xin vâng, bạch Ngài).
Thầy Hòa Thượng niệm Phật và giới tử cũng làm theo:
Namo tassa bhagavato arahato sammāsam-buddhassa (kính lễ Ðức Thế Tôn, Ưng Cúng, Chánh Biến Tri); ba lần.
Tiếp đến, Thầy Hòa Thượng truyền dạy giới tử thọ Tam qui, đọc hai giọng Nam và Bắc phạn:
– Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật).
– Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp).
– Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Tăng).
– Dutiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật, lần thứ nhì).
– Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp, lần thứ nhì).
– Dutiyampi Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Tăng, lần thứ nhì).
– Tatiyampi Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Phật, lần thứ ba).
– Tatiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Pháp, lần thứ ba).
– Tatiyampi Saṅghaṃ saraṇaṃ gacchāmi (con thành kính qui y Tăng, lần thứ ba).
Phải đọc lại tam qui một lần nữa bằng giọng Bắc. Phân biệt giữa giọng Nam và giọng Bắc. Giọng Nam phát âm mũi (nāsikaja) như “Buddhaṃ (ṃ) saraṇaṃ (ṃ) gacchāmi” … ; còn giọng Bắc là phát âm môi (oṭṭhaja) hợp với âm mũi (nāsikaja) như “buddham (m) saraṇam (m) gacchāmi” … vì rằng phẩm mạo Sa-di được thành tựu hay không do sau lời tuyên thệ Tam qui (tisaraṇagamana), nên phải phát âm cho đúng chuẩn tiếng Phạn.
Sau phần giới tử đã thọ tam qui,Thầy Hòa Thượng nhắc nhở:
“Tisaraṇaggahanaṃ paripuṇṇaṃ” (phép thọ trì tam qui đã tròn đủ)
Sa-di lãnh giáo: “Āma bhante“.
Thầy Hòa Thượng tiếp tục truyền thọ thập giới cho Sa-di:
- Pāṇāṭipātā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng sát sanh).
- Adiṇṇādānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng trộm cắp).
- Abramhmacariyā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng hành dâm).
- Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng nói dối).
- Surāmerayamajjapamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng uống rượu dể duôi).
- Vikālabhojanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng ăn phi thời).
- Naccagītavāditavisūkadassanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng sự ca nhạc khiêu vũ).
- Mālāgandhavilepanadhāranamaṇḍanavibhūsanaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng sự trang điểm đeo tràng hoa xức hương liệu).
- Uccāsayanamahāsayanā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng chỗ nằm ngồi cao rộng).
- Jātarūparajatappaṭiggahanā veramaṇī sik-khāpadaṃ samādiyāmi. (con thọ trì điều học kiêng thọ nhận vàng bạc châu báu).
Kết luận, đọc ba lần như sau:
“Imāni dasa sikkhāpadāni samādi-yāmi“
(Con xin thọ trì cả mười điều học này).
Sa-di đã được truyền thọ mười giới như vậy rồi, đảnh lễ Thầy Hòa Thượng. Tiếp theo đó là làm nghi thức bái sư và xin y chỉ (nissaya).
Sa-di đứng lên trước mặt Thầy Hòa Thượng, chấp tay tác bạch như sau:
“Vandāmi bhante sabbaṃ aparādhaṃ khama-tha me bhante mayā kataṃ puññaṃ sāminā anumo-ditabbaṃ sāminā kataṃ puññaṃ mayhaṃ dātabbaṃ sādhu sādhu anumodāmi. Ukāsa kāruññaṃ katvā nissayaṃ detha me bhante.” (Nghĩa: bạch Ngài, con xin đảnh lễ Ngài v.v. bạch Ngài, xin Ngài từ bi cho con y chỉ).
Phục xuống ngồi chồm hổm chấp tay, đọc tiếp:
” Ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi, dutiyampi ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi, tatiyampi ahaṃ bhante nissayaṃ yācāmi“.
” Upajjhāyo me bhante hohi“.
(Nghĩa: bạch ngài, con cầu xin pháp y chỉ, lần thứ nhì … lần thứ ba … Bạch Ngài, xin hãy là Thầy Tế Ðộ của con”.
Vị Hòa Thượng chấp nhận bằng lời:
“Sādhu!” (tốt lắm!)
Hoặc lāhu, paṭirūpaṃ, opāyikaṃ, pāsādikena, sampādehi … một tiếng nào cũng được.
Sa-di cúi đầu bái nhận bằng lời:
“Ukāsa sampaṭicchāmi. Sampaṭicchāmi. Sam-paṭicchāmi.”
(Nghĩa là: thưa, con xin lĩnh hội. con xin lĩnh hội. con xin lĩnh hội.)
vẫn tiếp tục nói:
“Ajjatagge’dāni thero mayhaṃ bhāro, ahampi therassa bhāro“. (ba lần).
(Nghĩa: kể từ hôm nay trưởng lão là trọng trách của con, phần con cũng là trọng trách của trưởng lão).
Xong, Sa-di đảnh lễ thầy ba lạy và ngồi xuống nơi phải lẽ để nghe thầy dạy dỗ … từ đây vị Sa-di này phải làm tròn các bổn phận của vị đệ tử đối với Thầy Tế Ðộ, phải luôn luôn tinh tấn học tập và trau dồi phẩm hạnh Sa-di nếu trong thời gian chưa được tu lên bậc trên.
DỨT LUẬT NGHI XUẤT GIA SA-DI