11. TU SĨ
VẤN: Tăng đoàn có vai trò quan trọng trong Phật giáo. Mục đích của các tu sĩ là gì, và các vị đó phải làm gì?
ĐÁP: Mục đích của Đức Phật khi thành lập giáo đoàn các tu sĩ nam và nữ (tăng và ni) là để tạo ra một môi trường thích hợp để phát triển tâm linh. Cộng đồng cư sĩ hỗ trợ cộng đồng tu sĩ qua cúng dường tứ vật dụng: thức ăn, y áo, chỗ ở, và thuốc men. Nhờ đó, các vị tu sĩ có thể dành toàn thì giờ để tu học và thực hành Giáo Pháp. Đời sống đơn giản, có kỷ cương tại tu viện tạo thuận lợi cho an bình nội tâm và hành thiền. Đáp lại, các vị tăng ni phải chia sẻ những gì họ biết với cộng đồng cư sĩ, và làm gương sáng về đời sống thiện lành cho các Phật tử cư sĩ noi theo.
Trên thực tế, sứ mạng cơ bản này đã được nới rộng, vượt qua khỏi những gì mà Đức Phật có ý định đầu tiên; và ngày nay, nhiều vị tăng ni đôi khi hoạt động như là các giáo viên, cán sự xã hội, nghệ sĩ, bác sĩ, ngay cả chính trị gia. Có người cho rằng đảm trách thêm các vai trò đó thì cũng tốt, nếu giúp phát triển Phật giáo. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng nếu làm như thế, e rằng các vị tu sĩ sẽ dễ bị vướng bận vào các chuyện thế sự mà quên đi mục đính chính khi họ gia nhập tu viện lần đầu tiên.
VẤN: Hạng người nào có thể trở thành tu sĩ?
ĐÁP: Đa số chúng ta có nhiều mối quan tâm khác nhau trong đời sống của mình, như gia đình, nghề nghiệp, thú vui, chính trị, tôn giáo, v.v. Trong các mối quan tâm này, có thứ là quan trọng hàng đầu, có thứ kém quan trọng hơn. Khi sự học tập và thực hành những lời dạy của Đức Phật trở thành một việc tối quan trọng cho một người nào đó, khi việc ấy chiếm ưu tiên hơn các việc khác, do đó, người ấy có thể sẽ có khuynh hướng trở thành một tu sĩ, Tăng hay Ni.
VẤN: Có cần phải là tu sĩ để được giác ngộ?
ĐÁP: Dĩ nhiên là không. Vài vị đệ tử thành tựu nhất của Đức Phật chỉ là nam hoặc nữ cư sĩ. Có vài vị đã phát triển tuệ giác, và để lại những bài giảng thâm sâu. Trong Phật giáo, cấp độ trí tuệ của một người là điều tối quan trọng, và điều đó không liên hệ chi đến y áo của người đó, mà cũng không liên hệ chi đến việc người đó sống ở tu viện hay sống tại nhà. Có người thấy rằng đời sống tu viện, với những thuận lợi và những khó khăn, là môi trường tốt nhất để tăng trưởng tâm linh. Cũng có người thấy rằng ở nhà riêng, với tất cả niềm vui và nỗi khỗ, là thích hợp nhất. Mỗi người đều có những tình huống, hoàn cảnh riêng.
VẤN: Tại sao các tu sĩ Phật giáo mặc y màu vàng?
ĐÁP: Ngày xưa, khi người Ấn Độ nhìn vào rừng, họ luôn luôn có thể nói những lá cây nào sắp sửa rơi rụng vì chúng có màu vàng, cam, hay nâu. Do đó, tại Ấn Độ, màu vàng trở thành màu của sự dứt bỏ. Màu y của các tu sĩ là màu vàng vì màu đó giúp nhắc nhở đến tầm quan trọng của sự không chấp thủ, của sự xả ly, buông bỏ.
VẤN: Trở thành tu sĩ là một điều tốt, nhưng việc gì sẽ xảy ra nếu mọi người đều trở thành tu sĩ?
ĐÁP: Chúng ta cũng có thể đặt câu hỏi tương tự như thế cho các nghề nghiệp khác. “Trở thành nha sĩ là một điều tốt, nhưng việc gì sẽ xảy ra nếu mọi người đều trở thành nha sĩ? Như thế, sẽ không còn có các giáo viên, đầu bếp, tài xế lái xe taxi, ….” Rồi, “Trở thành giáo viên là một điều tốt, nhưng việc gì sẽ xảy ra nếu mọi người đều trở thành giáo viên? Như thế, sẽ không còn có các nha sĩ, đầu bếp, tài xế lái xe taxi, …” v.v. Đức Phật không đề nghị tất cả mọi người nên trở thành tu sĩ, và thật thế, điều đó sẽ không bao giờ xảy ra. Tuy nhiên, bao giờ cũng có một số người thích đời sống đơn giản và xả ly, và họ hoan hỷ với các lời dạy của Đức Phật, nhiều hơn tất cả các sự việc khác. Và cũng như các nha sĩ, những tu sĩ đó có các khả năng và kiến thức đặc biệt để phục vụ xã hội mà họ đang sống.
VẤN: Điều đó có thể đúng cho các vị tu sĩ thuyết giảng hay viết sách. Còn các vị tu sĩ chỉ biết hành thiền thì sao? Họ giúp được gì cho xã hội?
ĐÁP: Bạn có thể so sánh một vị sống ẩn tu với một nhà nghiên cứu khoa học. Xã hội hỗ trợ nhà nghiên cứu khoa học để ông ấy ngồi làm việc miệt mài trong phòng thí nghiệm, vì chúng ta hy vọng rằng cuối cùng, ông ấy sẽ khám phá hoặc phát minh được việc gì đó có lợi ích chung. Cũng như thế, cộng đồng Phật giáo hỗ trợ nhà sư hành thiền (mà thật ra, nhu cầu của vị ấy rất ít oi) bởi vì chúng ta mong rằng vị ấy sẽ thành tựu trí tuệ và minh triết, để mang đến lợi ích chung.
Ngay cả trước khi điều ấy xảy ra, hoặc nếu điều ấy không xảy ra, một nhà sư ẩn cư hành thiền vẫn mang lợi ích đến cho người khác. Trong các xã hội hiện đại, chủ trương “lối sống của người giàu và nổi tiếng”, với các điều xa hoa, tiêu thụ phung phí và ích kỷ, thường được xem như là một lý tưởng, được nhiều người mơ ước. Tấm gương sống đơn giản của một vị thiền sư nhắc nhở rằng ta không cần phải giàu có để được an lạc, thỏa lòng. Tấm gương đó cho ta thấy được một lối sống dịu dàng và giản dị cũng mang lại rất nhiều lợi ích.
VẤN: Tôi nghe nói là hiện nay không còn có các nữ tu sĩ nữa. Có đúng thế không?
ĐÁP: Khi còn tại thế, Đức Phật thành lập giáo đoàn các vị nữ tu sĩ, gọi là tỳ khưu ni. Trong 500 năm tiếp theo, ni đoàn đã có một vai trò rất quan trọng trong công tác phát triển và hoằng dương Phật giáo.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội và văn hóa thời đó, các vị tỳ khưu ni không được nhiều ưu đãi như các nam tu sĩ (tỳ khưu). Sau đó, không rõ chính xác vì các lý do gì, ni đoàn Nam tông ở Ấn Độ và Đông Nam Á không còn tồn tại nữa. Mặt khác, ni đoàn Bắc tông ở Trung Hoa, Đài Loan, Đại Hàn, Nhật Bản và Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển.
Hiện nay, tại Tích Lan và Thái Lan, đã có những nỗ lực để tái phục hồi ni đoàn Nam tông, bằng cách tiếp nhận truyền giới từ ni đoàn Bắc tông của Đài Loan, mặc dù có nhiều người trung thành với truyền thống cũ đã không ủng hộ việc này.
Dù sao, để gìn giữ ý định nguyên thủy của Đức Phật, chúng ta cần phải tạo ra những cơ hội đồng đều cho cả nam lẫn nữ Phật tử để sống đời sống xuất gia, nếu họ muốn, và được lợi lạc trong đời sống đó.
*