Viếng vườn Lộc Giả

Sáng hôm 15-11-1952 vào lúc 12 giờ trưa phái đoàn từ giã Bodhi Gaya để sang vườn Lộc Giả (Isipatana Miggadāyavana) thuộc xứ Bénarès cách xa chừng 220 cây số là nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên cho năm thầy Kiều Trần Như nghe, vườn Lộc Giả bây giờ lấy tên mới là Sarnath ở cách thành Bénarès chừng 8 cây số, tại đây có một ngôi chùa làm toàn bằng đá cẩm thạch. Còn có một tòa lầu hai tầng gồm lại có 64 cái phòng có cả dưỡng đường và đại học đường do vua thương mãi Birla cất cho Phật tử thập phương đến ngụ để học tập hoặc chiêm bái thánh tích. Gần đó có một bảo tháp cao độ 40 thước, châu vi 100 thước do vua A Dục dựng lên kỷ niệm nơi Đức Thế Tôn quay bánh xe pháp lần thứ nhứt và vô số Tăng đường đã sụp đổ.

Sử chép rằng một hôm nọ bọn Hồi giáo vì ganh ghét sự phồn thạnh của đạo Phật nên cùng nhau âm mưu bao vây Tăng đường tàn sát hàng ngàn vị sư trong lúc các ngài đang thọ thực, chỉ có một số ít trốn khỏi. Ngoài ra, chúng lại tiêu hủy các tịnh thất, trai đường và đập vỡ những kim thân Phật, cái thì gãy cổ, sứt tay, bể mũi, gãy chân, mà hiện nay Chánh phủ Ấn cho sở khảo cổ đem vào chưng trong bảo tàng viện rất lớn được cất gần nơi đó.

Lúc viếng vườn Lộc Giả. Tôi có nhớ bài Phật ngôn như vầy: “Evamme suttaṃ ekaṃ samayaṃ bhagavā bārānasīyaṃ viharati Isipatane Migadāye tatra kho Bhagavā pañca vaggiye bhikkhū amantesi. Dve me bhikkhave anta pabbajītena na sevitabbā katame dve? Yo cāyaṃ kāmesu kāmasukhallikānuyoko hīno gamo pothujjaniko anariyo anatthasañhito yo cāyaṃ attakilamathānuyogo dukkho anariy anatthasañhito. Ete te kho bhikkhave ubho ante anupagamma majjhimā patipadā tathagatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñānakaranī upasamāya abhiññāya saṃbodhāya nibbānāya saṃvattati. Katamā ca sā bikkhave majjhimā patipadā tathāgatena abhisaṃbuddhā cakkhukaraṇῑ ñānakaraṇῑ upasamāya abhiññāya saṃbodhāya nibbānāya saṃvattati? Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko   maggo, seyyathῑdaṃ? Sammādiṭṭhi, sammāsaṅkappo, sammāvācā sammākammanto, sammāājῑvo, sammāvāyāmo, sammāsati, sammāsamādhi. Ayaṃ kho sā bhikkhave majjhimā patipadā tathagatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñānakaranī upasamāya abhiññāya saṃbodhāya nibbānāya.

Nghĩa: Ta là Ānanda đã nghe như vầy: “Một thuở nọ đức Thế Tôn ngự tại vườn Lộc Giả thuộc xứ Baranasῑ. Lúc ấy Ngài kêu năm anh em Kiều Trần Như mà thuyết rằng: này các thầy tỳ khưu, có hai điều thái quá mà bậc xuất gia cần phải xa lánh. Hai điều ấy như thế nào? Một là đời sống luông tuồng theo ngũ dục, say mê trong ngũ dục, thật xấu xa thô bỉ thấp hèn vô ích. Hai là tư cách theo khổ hạnh, hành hạ xác thân cho kiệt quệ, không thanh cao mà cũng chẳng bổ ích vào đâu. Này các tỳ khưu Như Lai đã tìm ra con đường trung đạo, không dùn quá hay thẳng quá theo hai cách ấy. Nhờ hành theo con đường giữa mà Như Lai đã phát sanh trí tuệ diệt trừ phiền não thống khổ làm cho thân tâm trở nên thanh tịnh. Mà con đường trung đạo ấy là như thế nào? Chính là Đạo bát chánh: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. Này các tỳ khưu, nhờ hành theo con đường giữa ấy mà Như Lai phát sanh trí tuệ, thấu rõ ba tướng của vạn vật làm cho thân tâm yên lặng, đắc pháp thần thông, diệt trừ phiền não thống khổ”.

Đi xa độ một cây số, cổ tháp xây toàn bằng gạch để kỷ niệm chỗ Đức Phật gặp năm ông Kiều Trần Như lần đầu tiên. Tại đây nơi nhà trọ của hội Đại Bồ Đề có hai vị sư Tích Lan ở để duy trì Phật giáo. Chiêm bái xong, chúng tôi lại trở ra viếng thành Bénarès nằm dựa bờ sông Hằng Hà. Thành này rất lâu đời và có một lịch sử vĩ đại nhứt về tôn giáo trong xứ Ấn Độ. Đây là nơi tự cổ chí kim đã nảy ra vô số đạo giáo như: đạo Lõa thể, Khổ hạnh, Đa thần giáo và nhiều tông phái của Bà-la-môn giáo. Còn đạo Phật thì chỉ thạnh hành trong khi đức Như Lai giáng thế và phải suy vong sau khi một thời gian Ngài nhập diệt. Hiện nay, mỗi khi người khách để chơn vào xứ thì có cảm giác rằng mình đang ở giữa bầu không khí huyền bí lạ lùng.

Về sông Hằng Hà, trong kinh giải rằng bề dài của nó tới 500 do tuần (mỗi do tuần chừng 16 cây số ngàn), bề ngang 1 do tuần và bề sâu cũng 1 do tuần. Người Ấn rất tin vào sự huyền bí của sông ấy. Bây giờ sông đã cạn và hẹp nhỏ lại, nhưng dân sự vẫn tấp nập xuống tắm để rửa tội rất đông. Trên bờ lúc nào cũng có cả trăm cả ngàn người chực sẵn thay phiên nhau xuống tắm và có bán đủ thứ nhang đèn lễ vật dùng vào việc tế rửa tội. Người chết mà xác được rửa nước sông Hằng thì sẽ được nhiều phước lành. Thật hết sức dị đoan huyền bí làm cho con người hoang mang điên đảo không nhỏ. Nhưng cái đó chẳng riêng gì xứ Ấn Độ. Sự tin tưởng vô căn cứ ấy vẫn lan tràn khắp vũ trụ. Mà hễ tà đạo tấn triển thì nhân loại càng thêm thống khổ vì không còn tin nơi cái nghiệp. Trong hồi đại chiến thứ nhứt, vì theo khoa phù thủy của lão Raspoutine mà Nga hoàng Nicolas III phải mất ngôi. Dân Nga nổi loạn tàn sát tất cả hoàng tộc rồi lập chánh thể Cộng sản cho tới nay. Bên Pháp còn có nhiều người đến Nhà thờ Đức Bà Notre Dame De Lourdes cầu nguyện cho khỏi bịnh tật.

Hôm ấy, phái đoàn có mướn một chiếc ghe đưa theo dòng sông xem người bổn sứ tắm rửa tội. Trên bờ rải rác có nhiều đống lửa tung khói mùi tanh khét. Đó là những xác chết được đem lên thiêu sau khi được rửa tội bằng nước sông Hằng.

Thiêu xong, thân nhơn lại đùa cả tro tàn xuống sông cho người chết được an vui. Trong khi ấy, chúng tôi thấy một người ẵm đứa bé vừa chết đem rửa tội để vào ghe đưa ra giữa sông, đoạn cột xác lại vào một tảng đá to xô ùm xuống nước. Làm vậy, thân quyến tin rằng đứa bé được sanh về cõi Thiên đàn.

Thấy trời sắp tối, chúng tôi cho ghe vào bến rồi về nhà trọ của hội Đại Bồ Đề an nghỉ. Lúc đi ngang qua các đường phố, chúng tôi có gặp một nhà tu lỏa thể đang ngồi trần truồng trước cửa chùa của họ. Đầu tóc rối bơm, râu ria xồm xoàm, mình thoa đầy tro và cứt bò. Người ấy đang ngồi lim dim, miệng tụng lầm thầm cái chi không biết và có năm, ba người xúm xít chung quanh để cầu ông ta ban phước lành cho.

 

 

Trả lời

Từ điển
Youtube
Live Stream
Tải app