Nội Dung Chính
Chương 11: Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Thọ Trì Ngũ-Giới
Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ còn là hạng phàm-nhân, chưa phải là bậc Thánh-nhân, trong cuộc sống hằng ngày, đôi khi vì dể duôi (thất niệm) nên lỡ phạm điều-giới nào trong ngũ-giới. Điều tốt nhất là mỗi buổi tối trước khi đi ngủ, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên đến trước bàn thờ Đức-Phật, đảnh lễ Đức-Phật, rồi tự mình xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới của mình trở lại.
Như vậy, người cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy giữ gìn tám dòng phước, dòng thiện của mình được chảy triền miên bất tận đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai, đặc biệt làm phước-duyên sâu sắc trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama.
Người Thọ Trì Ngũ-Giới
Người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức- Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết tự trọng, biết giữ gìn ngũ-giới của mình được trong sạch và trọn vẹn thì người cận-sự- nam, cận-sự-nữ không chỉ tạo đại-thiện-nghiệp ngũ-giới, mà còn tạo 5 phước-thiện bố-thí gọi là 5 đại-thí là bố-thí sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, sự không làm khổ đến vô số chúng-sinh trong muôn loài, nên cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy được hưởng sự vô hại, sự an toàn, sự không oan trái, vô số chúng-sinh không làm khổ cận-sự-nam, cận-sự-nữ ấy trong kiếp hiện- tại và vô số kiếp vị-lai.
Tính Ưu Việt Của Người Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo Và Thọ Trì Ngũ-Giới
Trường hợp người cận-sự-nam, cận-sự-nữ đã thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, và người không thọ phép quy-y Tam-bảo và cũng không thọ trì ngũ-giới. Nếu cả hai người này đều phạm điều-giới uống rượu, bia, cùng tạo ác-nghiệp uống rượu, bia thì người nào tạo ác- nghiệp nặng? Người nào tạo ác-nghiệp nhẹ?
Câu hỏi này tương tự như câu hỏi của Đức- vua Milinda bạch hỏi Ngài Đại-Trưởng-lão Nāgasena rằng:
Đức-vua Milinda(1) bạch hỏi đại ý như sau:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão Nāgasena, một người không hiểu biết về ác-nghiệp và một người hiểu biết về ác-nghiệp. Nếu cả hai người đều tạo ác-nghiệp giống nhau thì người nào tạo ác-nghiệp nặng? Người nào tạo ác-nghiệp nhẹ? Bạch Ngài.
Ngài Đại-Trưởng-lão Nāgasena giải đáp rằng:
– Thưa Đại-vương, người không hiểu biết (ajānanto) về ác-nghiệp, và người hiểu biết về ác-nghiệp (jānanto) cùng tạo ác-nghiệp giống nhau thì người không hiểu biết về ác-nghiệp, tạo ác-nghiệp nặng, còn người hiểu biết về ác- nghiệp thì tạo ác-nghiệp nhẹ.
Nghe như vậy, Đức-vua Milinda bạch rằng:
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, nếu như vậy thì những vị quan, quân lính trong triều đình của con, người nào không hiểu biết pháp luật mà phạm pháp luật thì con phải hành phạt, trị tội nặng đối với người ấy có phải vậy không? Bạch Ngài.
Ngài Đại-Trưởng-lão Nāgasena giải thích bằng ví dụ rằng:
– Thưa Đại-vương, Đại-vương hiểu thế nào về điều này:
Một thỏi sắt được nung cháy đỏ, một người không hiểu biết thỏi sắt nóng mà đưa tay đụng chạm vào thỏi sắt nóng ấy, và một người khác hiểu biết rõ thỏi sắt nóng ấy mà bất đắc dĩ phải đưa tay đụng chạm vào thỏi sắt nóng ấy.
Trong hai người đều đụng chạm vào thỏi sắt nóng ấy, người nào bị cháy phỏng nặng? Người nào bị cháy phỏng nhẹ?
– Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, dĩ nhiên người không hiểu biết thỏi sắt nóng mà đưa tay đụng chạm vào thỏi sắt nóng ấy, thì chắc chắn phải bị cháy phỏng nặng. Còn người hiểu biết thỏi sắt nóng mà bất đắc dĩ phải đưa tay đụng chạm vào thỏi sắt nóng ấy, thì bị cháy phỏng nhẹ. Bạch Ngài.
– Thưa Đại-vương, cũng như vậy, người nào không hiểu biết về ác-nghiệp mà tạo ác-nghiệp, thì người ấy tạo ác-nghiệp nặng. Còn người nào hiểu biết về ác-nghiệp, mà bất đắc dĩ phải tạo ác-nghiệp, thì người ấy tạo ác-nghiệp nhẹ.
Dựa theo lời giải đáp của Ngài Đại-Trưởng- lão Nāgasena, nên hiểu rằng:
Người cận-sự-nam đã thọ phép quy-y Tam- bảo và đã thọ trì ngũ-giới, và người bạn không thọ phép quy-y Tam-bảo và cũng không thọ trì ngũ-giới, hai người bạn gặp nhau, mời vào quán uống rượu, bia, nên cả hai người đều phạm điều- giới uống rượu, bia, đều tạo ác-nghiệp uống rượu, bia. Trong 2 người này, người không thọ phép quy-y Tam-bảo và cũng không thọ trì ngũ-giới, tạo ác-nghiệp uống rượu, bia nặng nhiều. Còn người đã thọ phép quy-y Tam-bảo và đã thọ trì ngũ-giới, rồi bất đắc dĩ phạm điều-giới uống rượu, bia, nên tạo ác-nghiệp uống rượu, bia nhẹ.
Nguyên nhân vì sao?
* Người không thọ phép quy-y Tam-bảo và cũng không thọ trì ngũ-giới, vốn là người không có đức-tin nơi Tam-bảo, không tin nghiệp và quả của nghiệp, không biết hổ-thẹn tội-lỗi, không biết ghê-sợ tội-lỗi, khi họ phạm điều-giới uống rượu, bia với tham-tâm hoan hỷ, nên tạo ác- nghiệp uống rượu, bia nặng, rồi họ không biết ăn năn hối lỗi, không biết tránh xa sự uống rượu, bia. Cho nên, người ấy đã tạo ác-nghiệp uống rượu, bia nặng hơn nhiều.
* Còn người cận-sự-nam đã thọ phép quy-y Tam-bảo và đã thọ trì ngũ-giới, vốn là người có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi. Song vì cả nể bạn cũ, hoặc vì năng lực của phiền-não tham muốn xui khiến phạm điều- giới uống rượu, bia với bạn, tạo ác-nghiệp uống rượu, bia nhẹ hơn nhiều, bởi vì sau khi biết mình đã phạm điều-giới uống rượu, bia, nên người cận-sự-nam ấy biết hổ-thẹn tội-lỗi, biết ghê-sợ tội-lỗi, biết ăn năn sám hối, rồi tự nguyện xin thọ trì ngũ-giới trở lại, trong đó có điều-giới:
“Con xin thọ trì điều-giới có tác ý tránh xa sự uống rượu, bia và các chất say là nhân sinh sự dể duôi trong mọi thiện-pháp”.
Sau khi thọ trì ngũ-giới xong rồi, người cận- sự-nam ấy trở thành người có ngũ-giới, rồi giữ gìn ngũ-giới được trong sạch và trọn vẹn, để làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho mọi thiện-pháp phát sinh và phát triển từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp, cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp đó là Thánh-đạo- tâm, tuỳ theo năng lực của các pháp-hạnh ba-la- mật và 5 pháp-chủ (indriya): tín pháp-chủ, tấn pháp-chủ, niệm pháp-chủ, định pháp-chủ, tuệ pháp-chủ của người cận-sự-nam ấy.
Đó là tính ưu việt của người cận-sự-nam, cận- sự-nữ đã thọ phép quy-y Tam-bảo và đã thọ trì ngũ-giới.
Trước Tạo Ác-Nghiệp Sau Tạo Thiện-Nghiệp
Thời gian trước, người nào gần gũi thân cận với bạn ác (pāpamitta), nên tạo dù ác-nghiệp nặng, dù ác-nghiệp nhẹ, nhưng thời gian sau, người ấy được gần gũi thân cận với bạn thiện-trí (kalyāṇamitta), dẫn đến hầu đảnh lễ Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp, phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp- bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo và thọ trì ngũ-giới, trở thành người cận-sự-nam (hoặc cận-sự-nữ) trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama, rồi từ đó tránh xa mọi ác- nghiệp, cố gắng tạo mọi thiện-nghiệp.
Nhờ đại-thiện-nghiệp này làm giảm được tiềm năng cho quả của ác-nghiệp nặng ấy, hoặc nhờ thiện-nghiệp bậc cao làm cho ác-nghiệp ấy không có cơ hội cho quả khổ của ác-nghiệp ấy.
Thật vậy, * như trường-hợp Đức-vua Ajāta- sattu, ngự tại kinh-thành Rājagaha trị vì đất nước Māgadha.
Thời gian trước, Đức-vua Ajātasattu gần gũi thân cận với tỳ-khưu Devadatta, nghe lời khuyên bảo của tỳ-khưu Devadatta, nên Đức-vua Ajātasattu đã phạm điều-giới sát-sinh giết Đức- Phụ-vương Bimbisāra, đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng-tội. Đức-vua Ajātasattu vô cùng hối hận khổ tâm.
Nếu Đức-vua Ajātasattu băng hà thì chắc chắn ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy cho quả tái- sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa-ngục Avīci, mà không có nghiệp nào có thể ngăn cản được.
Thời gian sau, nhờ vị thái y Jīvaka cung thỉnh Đức-vua Ajātasattu ngự đến hầu đảnh lễ Đức- Thế-Tôn. Khi ấy, Đức-Thế-Tôn thuyết bài kinh Sāmaññaphalasutta tế độ Đức-vua.
Sau khi lắng nghe bài kinh ấy xong, Đức-vua Ajātasattu phát sinh hỷ lạc chưa từng có bao giờ, nên phát sinh đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, rồi kính xin Đức-Thế-Tôn công nhận Đức-vua là người cận- sự-nam đã quy-y Tam-bảo kể từ đó cho đến trọn đời. Ngay khi ấy, Đức-vua Ajātasattu thành tâm xin sám hối tội-lỗi giết Đức-Phụ-vương của mình. Kính xin Đức-Thế-Tôn chứng minh.
Từ đó về sau, Đức-vua Ajātasattu là người cận-sự-nam đặc biệt có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tận tâm lo phụng sự Tam-bảo.
Sau khi Đức-Phật Gotama tịch diệt Niết-bàn được 3 tháng 4 ngày, Ngài đại-trưởng-lão Mahā-kassapa chủ trì trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, gồm có 500 bậc Thánh A-ra-hán tại động Sattapaṇṇi, gần kinh-thành Rājagaha, đất nước Māgadha.
Đức-vua Ajātasattu là người hộ độ 500 bậc Thánh A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam-tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất, suốt 7 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam-tạng Pāḷi và Chú- giải Pāḷi.
Đức-vua Ajātasattu tận tâm lo phụng sự Tam- bảo cho đến trọn đời.
Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, đáng lẽ ác-nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi đại-địa- ngục Avīci, nhưng nhờ có đại-thiện-nghiệp quy- y Tam-bảo và nhất là đại-thiện-nghiệp hộ độ 500 bậc Thánh A-ra-hán trong kỳ kết tập Tam- tạng Pāḷi và Chú-giải Pāḷi lần thứ nhất của Đức-vua Ajātasattu làm giảm tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy, nên chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu-địa-ngục Lohakumbhī (địa-ngục nồi đồng sôi) suốt 60.000 năm.
Đức-Phật đã truyền dạy được tóm lược:
“Sau khi Đức-vua Ajātasattu băng hà, ác- nghiệp vô-gián trọng-tội giết Đức Phụ-vương chỉ cho quả tái-sinh kiếp kế-tiếp trong cõi tiểu- địa-ngục Lohakumbhī (địa-ngục nồi đồng sôi) từ miệng nồi chìm xuống đáy nồi khoảng thời gian 30.00 năm, rồi từ đáy nồi nổi lên đến miệng nồi khoảng thời gian 30.000 năm mới mãn quả của ác-nghiệp ấy. Do nhờ đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, hậu-kiếp của Đức-vua Ajātasattu xuất gia trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vijitāvī ”(1).
* Trường hợp kẻ cướp sát nhân giết chết hơn ngàn người, rồi cắt một đầu ngón tay trỏ xâu làm vòng đeo cổ, nên có biệt danh gọi là Aṅgulimāla sống trong rừng sâu.
Một hôm, Đức-Phật Gotama ngự vào khu rừng để tế độ kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla. Khi nhìn thấy Đức-Phật đang bước đi khoan thai bằng phép thần-thông, nên kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla cầm gươm chạy đuổi theo để giết Đức-Phật, dù y đã chạy nhanh hết sức lực suốt 3 do-tuần mà vẫn không đuổi kịp Đức-Phật, y đuối sức đành dừng lại, rồi gọi Đức-Phật rằng:
– Này Sa-môn hãy dừng lại!
Đức-Phật vẫn bước đi khoan thai, rồi truyền dạy rằng:
– Này Aṅgulimāla! Như-lai đã dừng lâu rồi.
Còn chính con mới là người chưa chịu dừng lại mà thôi.
Nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla vô cùng ngạc nhiên, suy nghĩ rằng:
“Những sa-môn dòng Sakya thường nói lời chân thật, làm như thế nào thì nói như thế ấy, nói như thế nào thì làm như thế ấy. Nhưng trong trường hợp này, vị sa-môn đang bước đi, mà lại nói “Như-lai đã dừng lâu rồi”. Còn ta đã dừng lại rồi, vị sa-môn nói là “Còn chính con mới là người chưa chịu dừng lại mà thôi”.
Như vậy, nghĩa là gì?”.
Aṅgulimāla bèn hỏi Đức-Thế-Tôn rằng:
– Này vị sa-môn! Sự thật ông đang bước đi mà lại nói “Như-lai đã dừng lâu rồi”. Còn tôi đã dừng lại rồi, ông lại nói là “Còn chính con mới là người chưa chịu dừng lại mà thôi”.
Ông nói như vậy nghĩa là gì?
Đức-Thế-Tôn giảng giải rằng:
– Này Aṅgulimāla! Sự thật “Như-lai đã dừng lâu rồi” nghĩa là Như-lai đã từ bỏ giết hại tất cả mọi chúng-sinh từ lâu rồi. Còn con chưa từ bỏ giết hại chúng-sinh.
Vì vậy, Như-lai nói rằng: “Còn chính con mới là người chưa chịu dừng lại mà thôi”.
Lắng nghe Đức-Thế-Tôn giảng giải như vậy, kẻ cướp sát nhân Aṅgulimāla liền thức tỉnh ngay, rồi ném các loại vũ khí xuống hố sâu, đồng thời biết rõ vị sa-môn này chính là Đức-Thế-Tôn, nên đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Ngài là Bậc Tôn- Sư của chư-thiên, phạm-thiên, nhân-loại. Đức- Thế-Tôn có tâm đại-bi ngự đến khu rừng này để tế độ con thoát khỏi sự si-mê lầm lạc, được thức tỉnh trở lại.
– Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kể từ nay về sau, con xin nguyện từ bỏ mọi ác-nghiệp. Kính xin Ngài chứng minh lòng chân thành sám hối tội- lỗi của con.
Sau đó, Aṅgulimāla đến quỳ đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Đức-Phật, kính xin Đức-Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ-khưu.
Đức-Thế-Tôn có Phật-nhãn thấy rõ, biết rõ phước-duyên của Aṅgulimāla có thể phát sinh đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu, nên Đức- Phật đưa bàn tay phải ra, chỉ bằng ngón tay trỏ mà truyền dạy rằng:
“Ehi bhikkhu! …”.
– Này Aṅgulimāla! Con được trở thành tỳ- khưu như ý nguyện. Pháp mà Như-lai đã thuyết dạy hoàn hảo ở phần đầu, phần giữa, phần cuối. Con hãy nên thực-hành phẩm-hạnh cao thượng để giải thoát khổ hoàn toàn.
Sau khi Đức-Phật vừa truyền dạy xong, Aṅgulimāla trở thành vị tỳ-khưu có đầy đủ 8 thứ vật dụng của tỳ-khưu phát sinh như thần-thông, có tăng tướng trang nghiêm như một vị Trưởng- lão có 60 tuổi hạ.
Đức-Thế-Tôn ngự trở về ngôi chùa Jetavana có vị tỳ-khưu Aṅgulimāla theo sau.
Về sau không lâu, vị tỳ-khưu Aṅgulimāla một mình ở nơi thanh vắng tinh-tấn thực-hành pháp- hành thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh- quả, Niết-bàn, diệt tận được mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán. Khi ấy, tại nơi thanh vắng, Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla vô cùng hoan hỷ thốt lên câu kệ rằng:
“Yo ca pubbe pamajjitvā, pacchā so nappamajjati. So’maṃ lokaṃ pabhāseti, abbhā muttova candimā”(1).
Người nào trước dể duôi thất niệm, Sau, người ấy không dể duôi thất niệm, Thực-hành pháp-hành tứ niệm-xứ.
Hành-giả ấy làm cho cuộc đời mình xán lạn, Như vầng trăng thoát ra khỏi đám mây.
Khi Ngài Trưởng-lão Aṅgulimāla tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân-hồi trong tam-giới, đồng thời tất cả mọi ác-nghiệp và mọi đại-thiện-nghiệp đã được tích-luỹ và lưu-trữ ở trong tâm từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp từ kiếp này sang kiếp kia, cho đến kiếp hiện-tại trước khi trở thành bậc Thánh A-ra-hán đều trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma), không còn có cơ hội cho quả được nữa, bởi vì không còn tái-sinh kiếp sau.
Đó là tính ưu việt của các hàng thanh-văn đệ- tử của Đức-Phật Gotama, có giới của mình được trong sạch trọn vẹn làm nền tảng, làm nơi nương nhờ cho mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp, cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp được phát triển tuỳ theo khả năng của mỗi hàng thanh-văn đệ-tử của Đức-Phật.