Nội Dung Chính
ÂN ĐỨC PHẬT
Tam bảo: Phật bảo (Buddhatarana), Pháp bảo (Dhammaratana) và Tăng bảo (Sangharatana), là ba món báu quí trọng hơn tất cả bảo vật hữu tri (saviññaṇakaratana) và vô tri (aviññāṇakaratana) trong tam giới và hằng có năng lực đem sự an vui đến cho chúng sanh trong ba cõi.
Ân đức của Phật vô lượng vô biên, không thể kể cho xiết hoặc suy xét cho cùng tận, nhưng nói tóm lại có ba ân đức trọng đại là:
- Visuddhi guna (tịnh đức): Ngài đã xa lìa tất cả phiền não thô sơ và vi tế, nên thân, khẩu, ý của Ngài đều được trọn lành. Trước mặt người hoặc nơi khuất lấp, Ngài cũng không hề làm, nói và tưởng điều tội lỗi.
- Karuṇā guṇa (bi đức): Ngài thấy chúng sanh đang bị nóng nảy lăn lộn trong lửa ngũ dục, đang chìm đắm chơi vơi trong biển trần ai, chịu thống khổ vô cùng vô tận từ đời này qua kiếp khác nên Ngài phát tâm bi mẫn bao la đối với tất cả chúng sanh, chẳng khác nào người mẹ hiền thương xót đàn con dại, mong mỏi cho con khỏi khổ, được vui lâu dài. Từ khi còn tu hạnh Bồ tát, Ngài đã từng hy sinh thân mạng, vợ con, của cải để tìm phương cứu vớt chúng sanh, đến lúc thành đạo rồi, Ngài lại châu du phổ độ quần sanh không ngừng nghỉ trọn 45 năm trường đăng đẳng.
- Paññā guṇa (tuệ đức): Ngài có trí tuệ hoàn toàn sáng suốt, không có chi che án được, thông suốt cả ba giới, bốn loài, thấu triệt lý Tứ diệu đế là thấy rõ, biết rõ ái dục phiền não, nguyên nhân sanh ra ái dục phiền não, nơi diệt tận ái dục phiền não và phương pháp diệt trừ ái dục phiền não. Do nhờ trí tuệ hoàn toàn sáng suốt ấy nên Ngài tri tỏ nghiệp nào có sự lợi ích, nghiệp nào có sự nguy hại, hầu tìm phương tiện giáo huấn chúng sanh xa lánh các điều ác, làm những việc lành để sớm đến bờ giác ngộ.
Do nhờ ba ân đức ấy, Đức Phật mới có thể tế độ chúng sanh, luôn cả Chư Thiên và nhân loại một cách dễ dàng được. Vô lượng vô biên ân đức khác của Phật đều bắt nguồn từ ba ân đức trọng đại ấy, cũng như muôn loài thảo mộc chỉ do mặt địa cầu mà phát sanh ra vậy.Nếu kể rộng hơn, những ân đức cao cả của Ngài có thể tóm tắt trong 10 danh hiệu sau đây: Arahaṃ (Tàu dịch là Ứng Cúng), Sammāsambuddho (Chánh Biến Tri), Vijjācaraṇasampanno (Minh Hạnh Túc), Sugato (Thiện Thệ), Lokavidū (Thế Gian Giải), Anuttaro (Vô Thượng Sĩ), Purisadammasārathi (Ðiều Ngự Trượng Phu), Satthādevamanussānaṃ (Thiên Nhân Sư), Buddho (Phật), Bhagavā (Thế Tôn). Xin lần lượt giải về mười hiệu của Phật, từ hiệu Arahaṃ (Ứng Cúng) đến hiệu Bhagavā (Thế Tôn).
-
Arahaṃ (Ứng Cúng)
Tại sao Đức Phật có hiệu là Arahaṃ (Tàu âm là A-la-hán, dịch là Ứng Cúng)? Bởi Ngài là: bậc đã xa lìa (araka), bậc đã phá tan bánh xe luân hồi (hata), bậc xứng đáng (araha), bậc không nơi khuất lấp (rahābhāva).
Giải rằng:
- Bậc đã xa lìa.
Ðức Phật đã xa lìa tất cả phiền não là những điều làm cho tâm bợn nhơ và dắt dẫn chúng sanh luân hồi mãi trong vòng lục đạo.
Ba phiền não trọng đại là: tham lam (lobha) là pháp làm cho tâm dính mắc, sân hận (dosa) là pháp làm cho tâm nóng nảy ưu phiền, si mê (moha) là pháp làm cho tâm lầm lạc. Ba phiền não này là nguồn cội của tất cả phiền não khác, ví như một cây to có 3 nhánh lớn đâm chồi nảy lá ra khắp tứ phía vậy (xin xem các “phiền não” có kể đại khái riêng biệt sau phần giải hiệu Arahaṃ).
Tất cả điều chướng ngại là phiền não, không còn mảy may nào trong thâm tâm Đức Phật, vì Ngài đã trau dồi thân tâm được hoàn toàn trong sạch, thanh tịnh bằng giới, định, huệ và bằng thánh đạo, thánh quả và Niết-bàn. Ví như người thợ làm tên, lấy một khúc cây trong rừng đem về lột vỏ, gọt đẽo cho xong rồi thoa dầu, hơ lửa, uốn bằng nõ cho trở nên ngay thẳng, nhiên hậu mới được những cây tên rất tốt và ngay thẳng. Cũng như thế ấy, Ngài đã lột vỏ cái tâm hằng bị xao động, cho tiêu hoại cả phiền não, nhờ sự ẩn tu nơi rừng vắng là tu hạnh đầu đà, rồi thoa dầu là đức tin (saddhā), đốt hơ bằng sự tinh tấn (viriya), uốn bằng nõ là phép chỉ quán (sammatha) và minh sát (vipassanā), làm cho tâm trở nên ngay thẳng, diệt trừ các nghiệp dữ. Kế tiếp, Ngài suy nguyên thấy rõ căn bản của nghiệp thiện và nghiệp ác là những pháp hành (saṅkhāra) đoạn tuyệt vô minh (avijjā), đắc ba cái giác (vijjā)1, sáu cái thông (abhiññā), bốn huệ phân tích (paṭisamdhidā)2, chín pháp thánh (lokuttāra dhamma)3, và liễu chứng bậc vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại nữa, chẳng những đã thắng tất cả quân thù là các phiền não trọng đại và vi tế mà thôi, Ngài lại dứt được luôn các tiền khiên tật, là những thói quen của thân, khẩu, ý nữa.
b. Bậc đã phá tan.
Ðức Phật đã phá tan, bẻ gãy bánh xe luân hồi và không còn tái sanh nữa.
Ta có thể ví dụ “bánh xe luân hồi” (samsaracakka) gồm có: vô minh (avijjā) làm đùm, ba pháp hành (saṅkhāra)4 làm căm, sự già và sự chết (lão, tử) (jarā maraṇaṃ) làm vành, 29 tác ý (cetanā) là 12 tác ý ác (akusala cetanā)5, 8 tác ý đại thiện (māhākusala), 5 tâm lành trong Sắc giới (kūpāvacara kusala), 4 tâm lành trong Vô Sắc giới (arūpāvacara kusala) làm đầu căm tra vào đùm. Bánh xe ấy ráp vào thùng xe là tam giới (Dục giới, Sắc giới và Vô Sắc giới), làm thành bánh xe luân hồi.
Trong tam giới ví như cái thùng xe vì tam giới là nơi sanh và trú của chúng sanh. Bốn pháp trầm luân (āsava)6 ví như cái gọng xe vì các pháp ấy là chủ động, hằng lôi kéo chúng sanh đến chỗ sanh và chỗ diệt. Vô minh ví như cái đùm xe vì vô minh là nơi quy hội của các nhân duyên. Sự già và sự chết ví như vành xe vì hằng lăn tròn đi tới và đưa chúng sanh từ cảnh này đến cảnh khác. Ba pháp hành ví như căm bánh xe là vì bị sự sanh và sự chết bao chung quanh.
Ðức Phật đứng vững vàng hai chân là sự tinh tấn (viriya), trên mặt đất bằng phẳng là giới (sīla), dùng hai tay là đức tin (saddhā), cầm cây gươm bén là trí tuệ (paññā), chặt rã, phá tan từng mảnh cái xe luân hồi ấy dưới cội bồ đề, từ đây không còn chở Ngài quanh quẩn trong ba cõi, sáu đường được nữa.
Hoặc giả, nếu lấy Thập nhị nhân duyên làm tượng trưng cho “bánh xe luân hồi”, thì vô minh làm đùm, lão, tử làm vành, 10 nhân duyên kia (hành, thức, danh sắc, lục căn, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sanh) là căm.
Ðức Phật thấy rõ, hiểu biết tường tận lý “Nhân quả liên quan”7 gồm có 12 chi (aṅga), 3 thời kỳ (addhā), 20 thể (ākāra), 3 chỗ nối liền (sandhi), 4 chỗ tóm tắt (saṅkhepa), 3 sự luân chuyển (vaṭṭa) và 2 gốc (mūla). Trong khi nhập đại định trọn 7 ngày đêm dưới cội bồ đề, Ngài đã xem xét thật vi tế sự sanh và sự diệt tắt của mỗi nhân duyên, xem thuận, rồi xem nghịch, cho đến khi phát sanh trí tuệ thấy rõ các pháp hữu vi đều do nguyên nhân mà sanh ra, khi nguyên nhân bị diệt đi thì các pháp ấy cũng diệt tắt theo. Khi thấy rõ như thế rồi, Ngài đắc đạo quả Niết-bàn, được giải thoát các sự thống khổ, phá tan bánh xe sanh tử luân hồi.
c. Bậc xứng đáng
Đức Phật là đấng toàn trí toàn thiện, rất xứng đáng cho Chư Thiên và nhân loại lễ bái cúng dường. Ngài là phước điền quí báu cao thượng nhứt của chúng sanh.
Sự cúng dường ấy, chẳng luận vật cúng ít hay nhiều, hèn hạ hoặc cao quí, chẳng luận thí chủ là bậc vua chúa oai quyền hoặc là hạng cùng đinh nghèo khó, hằng được phước báu vô lượng nếu tín thí có đức tin vững chắc là tin lý nhân quả và có tâm lành đầy đủ tác ý8 trong sự cúng dường.
Trong kinh Dīpanī có câu: “Tiddhante nibbute cāpisanaṃ cettaṃ samebhale”, nghĩa là: “Khi Phật còn tại thế hay sau khi đã nhập Niết-bàn rồi, nếu có thiện nhân nào có tâm trong sạch đồng nhau cúng dường đến Phật cũng được sự phước báu như lúc Ngài còn tại thế vậy”. Như thế, ta nên tin tưởng rằng dầu khi đức Thế Tôn còn tại thế, hay sau khi Ngài nhập diệt rồi cũng vậy, quả phước phát sanh do sự cúng dường đến Ngài hoặc đến tháp thờ xá lỵ của Ngài, cũng đồng nhau không kém, miễn là thí chủ có đức tin trong sạch và chú tâm lành trong sự phước thiện đồng nhau.
Trong kinh có chép lại rất nhiều sự tích về sự lễ bái cúng dường đức Thế Tôn. Từ các hàng Chư Thiên như Phạm Thiên Sahampati cúng dường Ngài một tràng hoa bằng ngọc to lớn như núi Tu Di (Sineru), đức Ðế Thích (Sakka), Tứ Ðại Thiên Vương (Cātumāhārājā), vv…, các bậc hoàng đế đồng thời với Ngài như vua Tân-Bà-Sa (Bimbisāra), vua Ba-Tư-Nặc (Pasenadi)…, các bậc đại phú hộ như trưởng giả Cấp-Cô-Ðộc (Anāthapindika), bà Vi-Sa-Kha (Visākhā), vv…, đến các hạng cùng đinh nghèo khổ như nàng Sumana Mālā dâng bông lài, thầy bà-la-môn Culekasātaka dâng khăn choàng, vv… Một thế kỷ sau khi đức Thế Tôn nhập diệt, hoàng Ðế A-Dục (Asoka) xuất của kho ra chín mươi sáu triệu đồng vàng cúng dường Tam bảo và cho xây cất tám mươi bốn ngàn thánh tháp trong toàn cõi Ấn Ðộ.
Nên nói thêm rằng: chẳng những Đức Phật là bậc siêu nhân cao thượng xứng đáng cho chúng sanh lễ bái cúng dường mà còn các bậc Thánh nhân khác (Thinh văn) A-la-hán, A-na-hàm v.v…. đã diệt tận phiền não hay còn chút ít phiền não nơi tâm, hoặc các hạng phàm nhân có giới đức, tu hành chân chánh theo Giáo Pháp của đức Thế Tôn, cũng là những bậc đáng thọ lãnh vật cúng dường của tín thí vậy.
Một điều nữa, Đức Phật là bậc xứng đáng giảng dạy kinh luật, giáo hóa chúng sanh vì Ngài đã diệt tận tất cả phiền não chướng ngại, nên kinh luật mà Ngài đã chỉ giải, chế định toàn là đúng đắn, chân thật, chỉ nhắm vào sự lợi ích của quần sanh, Ngài không vì 4 điều tư vị (agati)9 mà giảng kinh, định luật, nói Pháp độ đời.
Ðức Phật là đấng trọn lành, đã diệt tận phiền não nên thân, khẩu, ý của Ngài hoàn toàn trong sạch thanh tịnh, trước mặt người hoặc nơi khuất lấp, xa tai cách mặt người, Ngài cũng không hề làm, nói và tưởng điều tội lỗi, dầu là nhỏ nhen chút ít.
Không như những hạng thường nhân tự cho mình là “Giáo chủ”, là “Bồ tát”, là “Thánh nhân”, vv…, trước mặt người tỏ ra đạo mạo nghiêm trang như là bậc giới hạnh chân chánh, hiền từ, đạo đức, nhưng sau lưng người, xa tai cách mắt thiên hạ thì hằng làm nhiều điều tội lỗi xấu xa không chút lòng hổ thẹn.
Do nhờ, những ân đức cao quí vừa giải phía trên, nên Ngài có hiệu là “Arahaṃ” (Ứng Cúng).
2. Sammāsambuddho (Chánh Biến Tri).
Tại sao Đức Phật có hiệu là Sammāsambuddho (Chánh Biến Tri)? Bởi Ngài đã thành bậc Chánh đẳng Chánh giác là bậc hoàn toàn Giác ngộ (Buddho), thông suốt các Pháp một cách chân chánh (sammā) tự Ngài tỏ ngộ lấy không thầy giáo hoá (sānam).
Ðức Phật tự mình phát giác, hiểu biết tường tận 4 chân lý vi diệu quí báu là Tứ diệu đế (caturāriyasacca). Bốn chân lý ấy là: khổ đế (dukkha ariyasaccaṃ), tập đế (dukkha samudaya ariyasaccaṃ), diệt đế (dukkha nirodha ariyasaccaṃ), đạo đế (dukkha nirodha gāminipaṭipadā ariyasaccaṃ).
Diệu đế (ariyasacca) có nghĩa là:
- Pháp chắc thật của bậc Thánh nhân (ariyasacca: chắc thật).
- Pháp chắc thật dắt dẫn cho xa lìa kẻ nghịch, bậc nào đã đắc Pháp tứ đế rồi thì các kẻ nghịch là phiền não không còn tồn tại trong thâm tâm nữa.
- Pháp chắc thật làm cho quả thánh phát sanh tròn đủ, vì bậc nào đã đắc Pháp tứ đế rồi thì trí tuệ phát khởi thấy rõ: “Ðây là khổ, đây là nguyên nhân phát sanh sự khổ, đây là nơi diệt khổ, đây là con đường đi đến nơi diệt khổ”, có thể đắc đạo quả Thánh nhân dễ dàng.
- Pháp chắc thật đáng tôn quí. Tôn quí vì tính cách hiển nhiên, chân thật của tứ đế: khổ, thật có khổ trên thế gian này, nguyên nhân phát sanh sự khổ, nguyên nhân ấy có thật; nơi diệt khổ, nơi ấy có thật; con đường đi đến nơi diệt khổ, con đường ấy có thật.
- Khổ đế.
Khổ đế là những điều thống khổ hiển nhiên mà chúng sanh ở đời không ai tránh khỏi được.
Có 12 sự khổ: khổ sanh (jāti dukkhaṃ), khổ già (jārā dukkhaṃ), khổ đau (byādhi dukkhaṃ), khổ chết (maraṇa dukkhaṃ), khổ vì buồn rầu, thương tiếc (soka dukkhaṃ), khổ vì khóc than, kể lể (parideva dukkhaṃ), khổ vì sự khổ (dukkha dukkhaṃ), khổ vì phiền muộn (domanassa dukkhaṃ), khổ vì khó chịu, bực tức (upāyāsā dukkhaṃ), khổ vì không ưa mà phải gần (appīyehi sampayoga dukkhaṃ), khổ vì thương mến mà phải xa lìa (pīyehi vippayoga dukkhaṃ), khổ vì muốn mà không được như ý (thất vọng) (yampicchaṃ na labhati tampi dukkhaṃ).
Chữ khổ (dukkha) nếu giải tóm tắt thì chỉ có cái khổ về ngũ uẩn. Vì cố chấp rằng: trong ngũ uẩn này có ta, cho sắc uẩn là ta, là của ta… Và chấp thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn cũng như thế ấy nên các sự khổ não mới phát sanh lên được. Một lẽ nữa, ngũ uẩn là nguồn cội, là nơi chất chứa các sự thống khổ, vì có thân ngũ uẩn này mới có khổ sanh, khổ già, khổ đau, khổ chết …
2. Tập đế.
Nguyên nhân sanh ra khổ là lòng ái dục (taṇhā). Lòng ái dục có mãnh lực ngấm ngầm trong tâm của tất cả phàm nhân, khiến cho chúng sanh ước ao, tìm kiếm và cố giữ lấy những vật vừa lòng đẹp ý, say mê quyến luyến theo ngũ trần không ngừng nghỉ. Chính lòng ái dục dắt dẫn chúng sanh trầm luân từ kiếp này sang kiếp khác, trong vòng sanh tử vô cùng vô tận.
Lòng ái dục có 3: tâm ham muốn, say mê theo ngũ trần hoặc ước muốn được sanh làm người hoặc làm trời trong 6 cõi Dục giới (kāma taṇhā), tâm ham muốn sanh về cõi trời Sắc giới (bhava taṇhā), tâm ham muốn sanh về cõi Vô Sắc giới (vibhava tanhā).
Nếu kể rộng, lòng ái dục có 108 như đã có giải phía trước.
Ái dục là nguyên nhân phát sanh ra các sự thống khổ, nếu ái dục diệt thì các sự khổ não cũng diệt theo.
3. Diệt đế.
Diệt đế là nơi diệt trừ hoàn toàn các sự khổ tức là Niết-bàn.
Niết-bàn, theo danh từ Pāli gọi là Nibbāna, Sanscrit gọi là Nirvāṇa. Ni có nghĩa: ra khỏi hoặc không còn. Vāṇā có nghĩa: phiền não hoặc tam giới.
Niết-bàn có 32 nghĩa11, nhưng nếu giải tóm tắt, đại khái có 2 nghĩa sau đây:
- Nếu nói là trạng thái của tâm thì Niết-bàn là trạng thái tâm đã đoạn tuyệt, diệt trừ hẳn ái dục. Lòng ái dục phát sanh lên do sự tiếp xúc của lục căn (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý) với lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp). Nếu thu thúc lục căn cho thanh tịnh, không cho duyên theo, quyến luyến theo lục trần thì lòng ái dục không còn phát sanh lên được. Lòng ái dục đã diệt trừ thì các sự khổ não cũng diệt theo không dư sót.
- Nếu nói là nơi hoặc cõi, thì Niết-bàn là nơi tịch tịnh, không có sanh, già, đau, chết, là cõi ngoài tam giới (xuất thế gian). Ðức Phật và các bậc A-la-hán đã đắc 2 Niết-bàn:
- Phiền não Niết-bàn (kilesa nibbānaṃ) hoặc hữu dư Niết-bàn (saupādisesa nibbānaṃ) là trạng thái tâm các bậc Thánh nhân ngay trong kiếp chót, đã diệt tận ái dục phiền não, đã được giác ngộ và giải thoát, xong vẫn còn thân ngũ uẩn. Ðức Phật đã đắc phiền não Niết-bàn khi còn ngự dưới cội bồ đề, toàn thắng bọn Ma vương, dứt tuyệt tham, sân, si, ngã chấp, tà kiến cùng 1500 phiền não và 108 ái dục xa lìa tâm Ngài như các giọt nước lìa khỏi lá sen. Khi đã đắc hữu dư Niết-bàn, Ngài có tuyên ngôn như vầy: “Anekajāti samsāraṃ sandhāvissaṃ anibbisaṃ, gahakāraṃ, gavesanto dukkhā jāti punappunaṃ, gahakāraka diṭṭhosi puna geham na kāhasi. Sabbe te phāsukā bhaggā gahakūtaṃ visaṅkhataṃ. Visaṅkhāragataṃ cittaṃ taṇhānaṃ khayamajjhagāti”. Có nghĩa là: “Khi Như Lai đang tìm người thợ (tức ái dục) là người cất cái nhà tức là thân tứ đại của Như Lai mà chưa gặp được, Như Lai hằng bị luân hồi trải qua vô lượng kiếp, sự sanh ấy hằng đem những điều thống khổ đến Như Lai không ngừng nghỉ. Này người thợ làm nhà kia, Như Lai đã tìm thấy ngươi rồi! Từ đây, ngươi không còn cất nhà là thân tứ đại của Như Lai được nữa. Sườn nhà là các phiền não của ngươi, Như Lai đã bẻ gãy rồi, nóc nhà là vô minh mà ngươi đã tạo đó, Như Lai cũng đã phá tan rồi. Hiện nay, tâm Như Lai đã đắc Niết-bàn, lìa khỏi sắc tướng, Như Lai đã liễu chứng quả A-la-hán là pháp tiêu diệt tất cả ái dục rồi!”
- Ngũ uẩn Niết-bàn (khandha nibbānaṃ) hoặc vô dư Niết-bàn (anupādisesa nibbānaṃ) là khi tuổi thọ đã đến lúc cùng tận, các bậc Thánh nhân ấy rời bỏ thân ngũ uẩn, nhập vào cõi tịch tịnh không còn sanh tử luân hồi nữa. Ðức Phật đem giáo lý cao thượng ra giảng giải tế độ chúng sanh trọn 45 hạ đến khi phận sự đã viên dung, Ngài đến gần kinh thành Kusinārā, an ngọa dưới hai cây long thọ, nhập định rồi viên tịch. Lúc ấy Ngài tịch diệt cả ngũ uẩn là sắc, thọ, tưởng, hành, thức; như thế gọi là ngũ uẩn Niết-bàn. Có chỗ lại thêm Niết-bàn thứ ba là xá lỵ Niết-bàn (dhātu nibbānaṃ). Hiện nay, xá lỵ đức Thế Tôn ở rải rác khắp nơi cho Chư Thiên và nhân loại chiêm bái, khi Phật giáo tròn đủ 5000 năm, xá lỵ của Ngài tự nhiên sẽ bay về qui tụ thành một khối tại Bồ Đề Ðạo Tràng (Buddha Gaya ở trung Ấn Ðộ), hóa ra một vị Phật tổ như lúc đức Thế Tôn còn tại thế, ngự trên bồ đoàn thuyết Pháp trọn 7 ngày đêm. Khi ấy các vị Phạm Thiên và Chư Thiên từ trên các cõi trời, tay cầm tràng hoa bay xuống lễ bái cúng dường và nghe Pháp, được đắc đạo quả từ Tu-đà-huờn đến A-la-hán hằng hà vô số kể.Ðến đủ 7 ngày, tự nhiên trong kim thân lửa phát cháy lên thiêu hoại xá lỵ, kể từ ngày ấy thì Giáo pháp của Ngài hoàn toàn tiêu diệt. Như thế gọi là xá lỵ Niết-bàn.
4. Ðạo đế
Ðạo đế là con đường đi đến nơi diệt khổ. Con đường ấy là Bát chánh đạo (ariyaṭṭhangika magga) gồm có 8 chi: chánh kiến (sammā diṭṭhi) là thấy biết chân chánh, chánh tư duy (sammā saṅkappa) là suy nghĩ chân chánh, chánh ngữ (sammā vācā) là lời nói chân chánh, chánh nghiệp (sammā kammanta) là sự làm chân chánh, chánh mạng (sammā ājiva) là sự nuôi mạng chân chánh, chánh tinh tấn (sammā vāyāma) là sự cố gắng chân chánh, chánh niệm (sammā sati) là sự ghi nhớ (niệm) chân chánh, chánh định (sammā samādhi) là định tâm chân chánh.
Bát chánh Ðạo chia ra 3 phần: chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng thuộc về phần giới; chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định thuộc về phần định; chánh kiến, chánh tư duy thuộc về phần huệ. Cho nên, người hành theo Bát chánh đạo cũng gọi là người tu giới, định, huệ là nền tảng của Phật giáo vậy.
Bát chánh đạo là trung đạo (majjhimā paṭipadā) nghĩa là con đường giữa không thiên về hai cực đoan không “khổ hạnh” và không “lợi dưỡng” (kāmasakhallikānuyoga: say mê theo ngũ trần, atthakilamathānuyoga: ép xác thân).
Con đường ấy có năng lực hằng làm cho phát sanh pháp nhãn (cakkhu) và trí tuệ (ñāṇa), khiến cho tâm trở nên thanh tịnh sáng suốt mà cứu cánh là sự giác ngộ và Niết-bàn.
Tứ diệu đế là những pháp thực tế, hiển nhiên mà mọi người đều có thể tự mình xem xét, thực nghiệm lấy.
Tứ diệu đế là chân lý, mà chân lý thì không bao giờ hư hoại hay chịu ảnh hưởng của thời gian. Bốn chân lý ấy đã có trong thời quá khứ, đang có trong thời hiện tại và sẽ tồn tại mãi trong thời vị lai. Nhưng chỉ có trí tuệ siêu phàm của Đức Phật mới phát giác được thôi và từ khi Ngài chuyển Pháp luân nơi vườn Lộc Giả tại Isipatana, 4 chân lý vi diệu ấy mới được phổ cập đến tất cả Chư Thiên và nhân loại.
Dựa theo 4 chân lý ấy, dưới cội bồ đề, Đức Phật đã tự mình tỏ ngộ tường tận những Pháp xác thật sau đây: lục căn (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý) là khổ đế, tâm ái dục phát khởi lên do lục căn là tập đế, trạng thái tâm ái dục bị diệt trừ không phát sanh lên được khi lục căn tiếp xúc với lục trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) là diệt đế, phương pháp chân chánh làm cho phát sanh trí tuệ để diệt tâm ái dục là đạo đế.
Những Pháp kể tiếp sau đây có thể giải thích bằng cách tương tự như trên: lục trần, bắt đầu từ sắc trần …; lục thức, bắt đầu từ nhãn thức …; lục xúc, bắt đầu từ nhãn xúc …; lục thọ, bắt đầu từ nhãn thọ …; lục tưởng, bắt đầu từ nhãn tưởng…; sáu tác ý, bắt đầu từ tác ý về sắc trần …; sáu ái dục, bắt đầu từ sắc ái …; sáu tâm “tầm”, bắt đầu từ ý tâm “tầm” về sắc trần …; sáu tâm “sát”, bắt đầu từ tâm “sát” về sắc trần …; ngũ uẩn, bắt đầu từ sắc uẩn …; 10 đề kasiṇa (dùng nguyên chất hoặc màu sắc làm thành vòng tròn để làm đề mục tham thiền); 10 đề niệm niệm; 10 đề tử thi; 32 thể của thân, bắt đầu từ tóc, lông …; 12 căn (12 āyatana: 6 căn và 6 trần); 18 bản chất (18 dhātu: chất nhãn, … chất sắc (cảnh), … chất nhãn thức vv…); 9 cảnh giới tái sanh (bhava); 4 bậc thiền, bắt đầu từ sơ thiền…; tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả); 4 đề vô sắc (không vô biên thiên, thức vô biên thiên, vô hữu sở thiên, phi phi tưởng thiên); thập nhị nhân duyên, nếu kể xuôi thì bắt đầu từ vô minh và kể ngược bắt đầu từ lão, tử. Theo phương pháp trên, nếu chỉ giải thích riêng về một nhân duyên là “lão, tử” thì lão, tử là khổ đế, sanh là tập đế, sự diệt tắt của sanh và lão, tử là diệt đế, phương pháp chân chánh làm cho phát sanh trí tuệ để diệt trừ sanh và lão, tử là đạo đế.
Tất cả những Pháp ấy, luôn cả những Pháp xuất thế gian, Đức Phật đã tự mình tìm thấy, hiểu biết tường tận tinh vi, không phải do nơi trí tưởng tượng mà do nơi Ngài phân tích rõ ràng, nhờ trí tuệ hoàn toàn sáng suốt, không hạn định, không chướng ngại, tự Ngài tỏ ngộ lấy không ai chỉ dạy cho.
Nói riêng về tứ diệu đế, Đức Phật đã tri tỏ đứng đắn, chính xác những Pháp đáng tri tỏ là khổ đế có 12 điều như đã giải phía trước, nên Ngài có hiệu là Toàn Tri Khổ Đế (pariññeyye dhamme sammāsambuddho). Ngài đã tri tỏ những Pháp đáng diệt trừ là tập đế tức là tâm ái dục có 3 hoặc 108 nên Ngài có hiệu là Toàn Tri Ái Dục (pahātadde dhamme sammāsambuddho). Ngài đã tri tỏ những Pháp đáng làm cho rõ rệt là diệt đế mà những bật trí tuệ đang cố gắng hành theo để đạt 4 đạo, 4 quả và Niết-bàn nên Ngài có hiệu là Toàn Tri Diệt Đế (sacchikātabbe dhamme sammāsambuddho). Ngài đã tri tỏ những Pháp đáng nương theo là đạo đế, tức Bát chánh đạo có năng lực đem đến nơi giải thoát là Niết-bàn, nên Ngài có hiệu là Toàn Tri Đạo Đế (bhavetabbe dhamme sammāsambuddho).
Do nhờ những ân đức cao quí vừa giải phía trên nên Đức Phật có hiệu là Sammāsambuddho (Chánh Biến Tri).